Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định “Giáo
dục và đạo tạo cùng với Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và là động lực thúc đẩy CNH – HĐH đất nước. Đầu tư cho giáo dục là đầu
tư cho sự phát triển. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức, có văn hoá, có kĩ
năng nghề nghiệp, gắn học với hành, tài với đức.”.
Đảng ta cũng khẳng định: “nhân tài không phải sản phẩm tự phát mà phải
được phát hiện và bồi dưỡng công phu”. Nhiệm vụ xây dựng chiến lược quốc
gia về nhân tài và chương trình quốc gia về đào tạo bồi dưỡng nhân tài cũng đã
được Đảng ta chú trọng.
Để định hướng trên đi vào Giáo dục một cách thiết thực trong nhiều năm
qua các cuộc thi Học sinh giỏi cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện hay các cuộc
thi tìm ra nhân tài theo các hình thức khác nhau luôn được tổ chức và đi vào
chiều sâu nhằm chọn ra nhân tài cho đất nước.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG) các môn văn hóa là một nhiệm
vụ quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, tạo nguồn lực, bồi
dưỡng nhân tài cho nhà trường nói riêng, cho địa phương nói chung. Việc phát
hiện, đào tạo và bồi dưỡng, tạo điều kiện để nhân tài được phát huy tài năng,
đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một công việc
rất quan trọng. Như vây, đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi là bước đầu tiên, là vấn
đề cần thiết và cấp bách, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hội nhập đất
nước hiện nay
n vẫn còn không ít những khó khăn khác. Bởi lẽ thông thường các em có tố chất thông minh, học lực khá, giỏi đều muốn đăng kí dự thi vào các đội tuyển Toán, Văn, 11 Ngoại ngữ, Sử, Địa Do vậy việc chọn nguồn học sinh giỏi môn Giáo dục công dân bao giờ cũng là diễn ra sau cùng, các môn chọn ngược chọn xuôi, thậm chí loại ra khi đó mới đến lượt môn Giáo dục công dân. Khi giáo viên đã chọn được rồi cũng đâu dễ dàng để học sinh theo mình và đi thi cho mình. Đứng trước những khó khăn đó bản tôi luôn trăn trở để tìm ra hướng giải quyết tốt nhất và cuối cùng tôi đã có những bước đầu thành công trong việc chọn nguồn. Ngoài ra, trong quá trình bồi dưỡng tôi còn tiếp tục thi khảo sát ít nhất ba lần để đánh giá chính xác khả năng của từng em. Từ đó có thể lấy bổ sung thêm hoặc loại bớt một số em không tiến bộ trong đội tuyển. Như vậy, để chọn đội tuyển một cách hiệu quả cần thực hiện tốt các bước sau đây: Thứ nhất, Người giáo viên phải làm cho học sinh hiểu và nhận thức đúng về tầm quan trọng của môn Giáo dục công dân, yêu môn học, say mê từng tiết học. Muốn vậy giáo viên phải thật sự coi môn mình dạy như là một cái nghiệp của mình, chuyên tâm gắn bó, trau dồi chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học, thiết kế bài giảng đa dạng, sáng tạo tránh nhàm chán cho học sinh. Từ đó sẽ cuốn hút học sinh khiến cho các em thích thú với môn học. Hầu hết các tiết dạy của tôi luôn diễn ra sôi nổi, học sinh phát huy hết năng lực của mình. Trên cơ sở đó tôi sẽ dễ dàng phát hiện ra những em học sinh có tố chất tốt, có tư duy thông minh động viên các em vào nguồn bồi dưỡng của mình. Thứ hai, khi đã tìm được nguồn học sinh giỏi thì lúc này tôi nghĩ giáo viên phải là người truyền lửa cho học sinh, truyền sự say mê, niềm đam mê của mình cho học sinh. Khơi dậy trong các em niềm tin, tạo ra động lực để các em tự giác tham gia với động cơ đúng đắn và có quyết tâm cao. Giáo viên phân tích cho các em những lợi thế khi được chọn vào đội tuyển thi học sinh giỏi tỉnh. Khi tham gia thi học sinh giỏi giúp các em có cơ hội để thể hiện mình. Hệ thống kiến thức môn Giáo dục công dân giúp cho các em vận dụng rất nhiều trong cuộc sống như các kiến thức phần đạo đức, phần kinh tế. Khi tham gia kỳ thi học sinh giỏi các em có cơ hội để thể hiện mình, sẽ có những sự trải nghiệm thú vị, rèn luyện cho các em sự tự tin, có cơ hội gặp gỡ, tranh tài với các bạn đến từ những ngôi trường có tiếng trong tỉnh. Đặc biệt qua kỳ thi đó cũng chính là bước khởi đầu các em rèn luyện tâm thế thi cử để bước vào ký thi đại học với tâm thế tự tin hơn. Thứ ba, Việc chọn nguồn nên tập trung ở các lớp có nhiều học sinh khá giỏi của trường. Bởi vì những lớp này học sinh có sự cạnh tranh trong học tập cao. Mặt khác các em được chọn phải rất tâm huyết, có lòng đam mê, có niềm tin, có bản lĩnh. Đối với bản thân tôi ngoài việc các em có kĩ năng nhớ tốt thì còn phải có tư duy sáng tạo biết vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề, các tình huống trong cuộc sống. Bởi lẽ đặc trưng của bộ môn Giáo dục công dân về kiến thức được vận dụng vào thực tiễn rất nhiều. Sau khi đã phát hiện nguồn tôi động viên các em tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi cấp trường và tiến hành 12 quan sát, bồi dưỡng các em. Thông thường việc lập đội tuyển diễn ra sau học kì I của lớp 10 và đội tuyển chính thức thì sau học kì II của lớp 10 sẽ đánh giá và chốt danh sách đội tuyển học sinh giỏi. Tất nhiên muốn chọn được đội tuyển có chất lượng thì giáo viên phải có những lần khảo sát thực chất để đảm bảo tính khách quan, chính xác. Đề ra phải chuẩn, chấm và chữa kịp thời thì mới đánh giá đúng năng lực học sinh. 3.2. Xây dựng chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi Xây dựng chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những yếu tố quan trọng để người giáo viên xác định được nhiệm vụ của mình dạy cho học sinh nội dung gì và dạy như thế nào. Để thực hiện nhiệm vụ này, giáo viên cần căn cứ vào kế hoạch của Sở Giáo dục&Đào tạo, nhiệm vụ của nhà trường về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, khung chương trình và cấu trúc đề thi để xây dựng chuyên đề bồi dưỡng cho đúng trọng tâm kiến thức. Cụ thể, với kinh nghiệm của nhiều năm qua, tôi đã xây dựng hệ thống chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi như sau: Chuyên đề 1: Công dân với đạo đức Chuyên đề 2: Công dân với tình bạn, tình yêu, hôn nhân và gia đình. Chuyên đề 3: Công dân với cộng đồng Chuyên đề 4: Công dân với đất nước Chuyên đề 5: Công dân với những vấn đề cấp thiết của nhân loại. Chuyên đề 6: Công dân với việc tự hoàn thiện bản thân Chuyên đề 7: Công dân với kinh tế. Chuyên đề 8: Công dân với các vấn đề về chính trị - xã hội. Chuyên đề 9: Công dân với việc hình thành lý tưởng sống. Chuyên đề 10: Công dân với những vấn đề xã hội hiện nay. Với 10 chuyên đề xây dựng theo cấu trúc thi học sinh giỏi đã khái quát toàn bộ khung chương trình thi. Trên cơ sở đó có sự phân bố thời gian hợp lý để học sinh có khả năng tiếp thu đầy đủ nội dung đã xây dựng. Mỗi chủ đề được xây dựng theo trình tự sau: - Mục tiêu của chủ đề - Kiến thức, kĩ năng cần bồi dưỡng: bao gồm kiến thức cơ bản, kiến thức mở rộng và nâng cao, kĩ năng thực hành. - Phương pháp trả lời cho từng dạng đề: có chú ý đến những phương pháp trả lời khác nhau. 13 14 - Câu hỏi/Bài tập mẫu. - Câu hỏi/Bài tập luyện tập gồm câu hỏi/bài tập cơ bản, câu hỏi/bài tập nâng cao - Đề kiểm tra hết chủ đề. - Rút kinh nghiệm giảng dạy. - Sưu tập các bộ đề đã sử dụng làm tài liệu tham khảo. Ví dụ: Xây dựng chuyên đề: Công dân với đạo đức - Mục tiêu: Học sinh nắm được + Về kiến thức: Quan niệm về đạo đức; Phân biệt đạo đức với pháp luật; vai trò của đạo đức đối với cá nhân, gia đình, xã hội. Một số phạm trù cơ bản của đạo đức. + Về kỹ năng: Học sinh biết vận dụng những kiến thức đã học để giải quyết những tình huống trong thực tiễn. Biết nhận diện được các phạm trù đạo đức từ những tình huống, bài tập. - Thời gian bồi dưỡng: 2 buổi. Buổi 1: Đạo đức là gì? Phân biệt đạo đức với pháp luật. Vai trò của đạo đức đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Buổi 2: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học: Nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự, hạnh phúc. - Một số câu hỏi, bài tập tình huống: Câu 1: Trong bài hát “Một đời người, một rừng cây” nhạc sĩ Trần Long Ẩn có viết “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai”. Dựa vào kiến thức đã học, em hãy làm rõ ý nghĩa của lời bài hát trên. Câu 2: H là con lớn trong gia đình. H không những là học sinh giỏi của lớp và còn là người con ngoan, luôn yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với bố mẹ. Những khi ở nhà, ngoài công việc học hành, H còn thường xuyên giúp bố mẹ trong một số công việc gia đình. Ai cũng khen H là người chăm chỉ và ngoan ngoãn. Khi nói về H, các bạn trong lớp có các ý kiến khác nhau: - Một số bạn nói việc H yêu quý bố mẹ, kính trọng và giúp đỡ bố mẹ khà thực hiện nghĩa vụ của người con đối với cha mẹ theo quy định của pháp luật. - Một số bạn khác lại cho rằng đấy chẳng phải là nghĩa vụ theo pháp luật mà là xuất phát từ tình cảm của H, là hành vi xử sự theo chuẩn mực đạo đức. 1. Quan điểm của em về các ý kiến trên. 15 2. Trình bày mối quan hệ giữa đạo đức với pháp luật. Câu 3: Câu chuyện: Thượng đế và con người. “Thượng đế lấy đất sét nặn ra con người. Khi Ngài nặn xong vẫn còn thừa ra một mẫu đất. - Còn nặn thêm cho mày cái gì nữa, con người? – Ngài hỏi. Con người suy nghĩ một lúc: có vẻ như đã đầy đủ chân, tay, đầu..., rồi nói: - Xin Ngài nặn cho con hạnh phúc. Thượng đế dù đã thấy hết, biết hết nhưng cũng không hiểu được hạnh phúc là gì. Ngài trao cục đất cho con người và nói: - Này, tự đi mà nặn lấy hạnh phúc cho mình. Hỏi: Dựa vào kiến thức đã học em hãy làm rõ thông điệp từ câu chuyện trên? Câu 4: Trong cuộc chiến chống lại quân Nguyên Mông lần thứ 2 tháng 1 năm 1285, Trần Bình Trọng đã tổ chức cuộc đánh chặn ngay tại bãi Thiên Mạc. Do sự chênh lệch quá lớn về quân số, Trần Bình Trọng bị bắt. Sau khi bắt được Trần Bình Trọng, tướng Nguyên tìm mọi cách để khai thác thông tin, dọa nạt, dụ dỗ ông. Tuy nhiên, Trần Bình Trọng kiên quyết không khuất phục. Khi được hỏi có muốn làm vương đất Bắc không, Trần Bình Trọng khẳng khái trả lời: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi thôi” 1. Câu chuyên trên thuộc về phạm trù nào của Đạo đức học? Hãy giải thích. 2. Em rút ra được bài học gì từ câu chuyện đó? Câu 5: Trong giờ kiểm tra môn Sinh, có một số câu hỏi lý thuyết, T có nhớ nhưng không chắc chắn lắm. Ngồi bên cạnh, bạn M đã làm xong, T chỉ cần liếc qua nhanh là có thể “giải quyết” được. Và còn cách khác nữa: Cô giáo đang ngồi trên bục giảng, không hề chú ý về hướng T nên em có thể thao tác thật nhanh gọn và an toàn, để rồi T sẽ được điểm cao. Thế nhưngT không làm như vậy. Nộp bài rồi, mấy bạn trong lớp nói T dại thế, giở sách một chút thì có ảnh hưởng gì đến đạo đức đâu! Nhưng T không nghĩ thế. Em cảm thấy thật thanh thản trong lòng! 1. Hành vi của T thuộc phạm trù nào của đạo đức học? 2. Tại sao mặc dù làm bài chưa thật tốt nhưng T lại cảm thấy thanh thản trong lòng? - Cách trả lời các dạng đề: Câu 1, câu 2: Học sinh vận dụng kiến thức về nghĩa vụ để nêu được ý nghĩa của lời bài hát và nội dung yêu cầu của đề thi. Câu 3: dựa vào kiến thức về hạnh phúc để giải thích và nêu thông điệp từ câu chuyện trên. Hạnh phúc là tự mỗi người đấu tranh, tìm kiếm mới có được. Hạnh phúc không phải do thần linh, thượng đế hay ai đó ban phát cho. Học sinh 16 biết liên hệ đến bản thân và trả lời câu hỏi: bản thân làm thế nào để có hạnh phúc? Câu 4: Dựa vào yêu cầu của câu hỏi để trả lời. Nội dung câu chuyện trên đề cập đến phạm trù danh dự. Trên cơ sở kiến thức học sinh giải thích và nêu ý nghĩa câu chuyện. Câu 5: Tình huống đề cập đến phạm trù Lương tâm. Học sinh giải thích được tình huống và lần lượt trả lời các câu hỏi. Qua đó liên hệ đến trách nhiệm của bản thân phải làm gì để lương tâm luôn thanh thản. - Sau thời gian 2 buổi dạy học sinh nắm vững kiến thức và biết vận dụng những kiến thức đã học vào giải quyết tình huống thực tiễn, giáo viên kiểm tra học sinh bằng cách cho học sinh làm bài. Thời gian kiểm tra 30 phút cho một câu hỏi. Qua đó sẽ củng cố kiến thức cho các em học sinh và rèn luyện được kỹ năng làm bài. Thông qua việc xây dựng chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi tôi nhận thấy: Đây là bước quan trọng quyết định đến kết quả thi của học sinh. Nếu người giáo viên không có kế hoạch bồi dưỡng, không nắm chắc cấu trúc, yêu cầu của đề thi học sinh giỏi, thấy cái gì hay, cái gì khó thì dạy mà không có hệ thống thì sẽ dẫn đến học sinh không khái quát được kiến thức, nội dung, làm cho học sinh hoang mang, không khắc sâu nội dung giáo viên hướng dẫn. Học sinh nắm nội dung giáo viên hướng dẫn một cách logic, rèn luyện được kỹ năng làm bài. Khi tôi xây dựng chuyên đề theo hệ thống đã phủ kín hết toàn bộ chương trình theo yêu cầu, các dạng đề thi học sinh giỏi. Vì vậy, khi học sinh bước vào kỳ thi cho dù bắt gặp đơn vị kiến thức nào, dạng đề nào thì học sinh không bị ngợp mà các em vẫn rất tự tin để làm bài. Tuy nhiên, thông qua việc xây dựng chuyên đề cũng cần lưu ý rằng, sau bước xây dựng chuyên đề bồi dưỡng, giáo viên phải có kế hoạch dạy phù hợp, chuẩn bị tài liệu chu đáo. Giáo viên cần cung cấp và hướng dẫn tài liệu cho học sinh. Đối với bộ môn này thì thực sự mà nói tài liệu hầu như không có gì nhiều ngoài sách giáo khoa giáo dục công dân 10 và giáo dục công dân 11. Do đó ngoài việc giáo viên giới thiệu chương trình sách giáo khoa, các loại sách tham khảo thì giáo viên phải tự tìm tòi nguồn tài liệu bằng cách truy cập Internet để tìm tài liệu, khai thác các thông tin để có thể vận dụng trong quá trình giảng dạy. Ngoài ra sưu tầm các quyển sách về các tình huống đạo đức, các câu chuyện đạo đức, các tình huống trong thực tiễn cuộc sống, các vấn đề trong xã hội để vận dụng kiến thức vào nhằm giải quyết các vấn đề đó. Đồng thời phải sưu tầm các bài văn nghị luận xã hội hay về các vấn đề đạo lí hoặc các vấn đề xã hội để phục vụ cho quá trình dạy bồi dưỡng. Bởi vì đề thi môn Giáo dục 17 công dân hướng vận dụng rất cao và có một câu nghị luận xã hội về các vấn đề đạo đức, đạo lí hoặc các vấn đề trong xã hội Trong quá trình bồi dưỡng, trên cơ sở chuyên đề xây dựng, người giáo viên cần dạy học sinh nắm chắc chắn kiến thức cơ bản rồi mới dạy nâng cao. Học sinh phải nhớ kiến thức của từng bài nhuần nhuyễn thì mới có khả năng giải quyết tình huống vận dụng trong thực tiễn. Sau khi học sinh nhớ các kiến thức cơ bản thì giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh biết cách giải quyết, khai thác một đơn vị kiến thức, một bài tập hay vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề đặt ra. Từ đó rèn luyện cho các em khả năng tư duy logic, tư duy độc lập sáng tạo và biết cách tương tự hóa, mở rộng hóa, tổng quát hóa một vấn đề của kiến thức. Giáo viên bồi dưỡng không được nhồi nhét kiến thức cho các em một cách thụ động mà phải dạy những kiến thức các em cần phù hợp theo từng cấp độ từ thấp đến cao. Đừng hiểu nhầm học sinh giỏi, cái gì các em cũng biết, cái gì các em cũng dễ dàng tiếp thu. Vì vậy giáo viên bồi dưỡng không nên giao cho các em những nhiệm vụ bất khả thi mà giao bài tập hay nhiệm vụ phải phù hợp với từng đối tượng học sinh, để tạo niềm tin, say sưa, đam mê, hứng thú trong học tập cho các em. Bên cạnh đó giáo viên cần nhắc nhở học sinh phải có thái độ học tập nghiêm túc, ghi bài và làm bài đầy đủ, có đầy đủ tài liệu học tập theo hướng dẫn của giáo viên, trong đó bao gồm các bài tập hay, các đề và đáp án, các kiến thức tự tìm hiểu, đúc kết sau một quá trình học tập, Những ghi chép này rất cần thiết cho việc học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức của học sinh giỏi. 3.3. Sử dụng phương pháp dạy học tích cực để phát huy tính sáng tạo của học sinh trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Phương pháp dạy học tích cực là các biện pháp, cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Với cách dạy này đòi hỏi giáo viên phải có bản lĩnh, chuyên môn tốt và kiên trì xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Tuy nhiên, khi đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Phương pháp dạy học tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh chóng, với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học như thế nào mới có hiệu quả. Bên cạnh đó hướng dẫn học sinh tự học cũng là một yếu tố cốt lõi để có hiệu quả. 18 Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát huy tính tư duy độc lập sáng tạo của học sinh là rất cần thiết và giữ vai trò quyết định đến kết quả thi của các em học sinh. Bởi lẽ khi giáo viên rèn luyện cho học sinh tư duy độc lập, sáng tạo thì học sinh có thể làm chủ trong mọi tình huống. Đặc biệt khi gặp những câu hỏi khó, học sinh không lúng túng mà các em có thể bình tĩnh, đủ tự tin để chinh phục. Các phương pháp dạy học tích cực tôi thường sử dụng trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi đó là: phương pháp động não, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp tình huống kết hợp với một số kỹ thuật dạy học tích cực để tăng thêm hiệu quả. 3.3.1. Phương pháp giải quyết vấn đề Đây là phương pháp dạy học trong đó giáo viên tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là "tình huống gợi vấn đề" vì "Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề". Căn cứ vào đề thi học sinh giỏi tỉnh hàng năm, tôi nhận thấy rằng việc áp dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề rất phù hợp và hiệu quả trong qua trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. Phương pháp dạy học này rất quan trọng giúp cho các em học sinh biết nhận diện và giải quyết vấn đề. Ví dụ khi dạy ở chuyên đề 1: Công dân với đạo đức với chủ đề Quan niệm về đạo đức giáo viên đã đưa ra tình huống có vấn đề: “H là con lớn trong gia đình. H không những là học sinh giỏi của lớp và còn là người con ngoan, luôn yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với bố mẹ. Những khi ở nhà, ngoài công việc học hành, H còn thường xuyên giúp bố mẹ trong một số công việc gia đình. Ai cũng khen H là người chăm chỉ và ngoan ngoãn. Khi nói về H, các bạn trong lớp có các ý kiến khác nhau: - Một số bạn nói việc H yêu quý bố mẹ, kính trọng và giúp đỡ bố mẹ là thực hiện nghĩa vụ của người con đối với cha mẹ theo quy định của pháp luật. - Một số bạn khác lại cho rằng đấy chẳng phải là nghĩa vụ theo pháp luật mà là xuất phát từ tình cảm của H, là hành vi xử sự theo chuẩn mực đạo đức. 1. Quan điểm của em về các ý kiến trên. 2. Trình bày mối quan hệ giữa đạo đức với pháp luật.” 19 Với tình huống trên giáo viên hướng dẫn học sinh giải quyết theo các bước: Bước 1: Phát hiện vấn đề và giải thích và chính xác hóa tình huống để hiểu đúng vấn đề được đặt ra. Giáo viên đặt câu hỏi gợi mở để học sinh phát hiện vấn đề: Tình huống trên thuộc nội dung bài học nào? Liên quan đến đơn vị kiến thức nào? Việc con cái làm những công việc nhà để giúp đỡ bố mẹ có phù hợp với chuẩn mực đạo đức không? Em biết được quy định nào của pháp luật về nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ không? Những câu hỏi gợi mở vấn đề giúp học sinh nhận diện và phát hiện ra vấn đề để đi đến câu trả lời chính xác. Bước 2: Hướng dẫn HS tìm hướng giải quyết vấn đề. Cần thu thập, tổ chức dữ liệu, huy động tri thức; sử dụng những phương pháp, kĩ thuật nhận thức, tìm đoán suy luận liên quan những vấn đề đã học; phương hướng đề xuất có thể được điều chỉnh khi cần thiết. Kết quả của việc đề xuất và thực hiện hướng giải quyết vấn đề là hình thành được một giải pháp. Nếu đưa ra lựa chọn và giải thích đúng thì đi đến học sinh có thể tiếp tục trình bày. Nếu đưa ra lựa chọn sai thì quay lại phân tích vấn đề để tìm ra đáp án phù hợp nhất. Với những câu hỏi giáo viên gợi mở, học sinh chọn câu trả lời. Trong tình huống trên, học sinh đưa ra quan điểm mỗi ý kiến có ý đúng nhưng chưa đủ. Bước 3: Giải thích, trình bày phương án đã chọn. Trên cơ sở phương án đã chọn, học sinh giải thích vì sao mỗi ý kiến có ý đúng nhưng chưa đủ, từ đó đưa ra quan điểm của mình. Bước 4: Tìm hiểu khả năng ứng dụng của kết quả, liên hệ. Sau bài viết, học sinh có sự đánh giá, nhận xét và liên hệ đến bản thân học sinh. Trong chuyên đề 2: Công dân với kinh tế với chủ đề Thực hiện nền kinh tế nhiều thành và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước giáo viên nêu tình huống có vấn đề: “Thông tin: “Đầu tư nước ngoài đang ngày càng trở thành kênh cấp vốn quan trọng, trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có mặt ở hầu hết các địa phương, tham gia vào nhiều lĩnh vực trên phạm vi cả nước...” (Nguồn: báo hanoimoi.com.vn ngày 13/12/2019) 1. Thông tin trên nói đến thành phần kinh tế nào? Trình bày hiểu biết của em về thành phần kinh tế đó. 2. Trong tương lai em có dự đ
Tài liệu đính kèm: