Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng Sơ Đồ Tư Duy để giúp học sinh lớp 6 hệ thống hóa một số kiến thức cơ bản về từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm theo chương trình Tiếng Anh thí điểm

Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng Sơ Đồ Tư Duy để giúp học sinh lớp 6 hệ thống hóa một số kiến thức cơ bản về từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm theo chương trình Tiếng Anh thí điểm

1.2. Lí do chọn đề tài:

Tiếng Anh có tầm quan trọng lớn trong đời sống kinh tế và văn hóa của

người Việt Nam trên con đường hội nhập quốc tế. Do vậy chương trình tiếng Anh

đã được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông nhiều năm nay, nhưng dường như

cho đến bây giờ nó vẫn còn là môn học mới và khá khó đối với không ít HS, và

thật sự khó hơn khi chương TA TĐ lớp 6 đã được đưa vào giảng dạy tại một số

trường THCS trong thành phố Hà Nội như đã nói ở trên. Thực tiễn cũng cho thấy

hiện nay vẫn còn nhiều HS học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là tiếp thu

và nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện được kỹ năng tư duy; học

bài nào biết bài nấy mà chưa phát triển được tư duy hệ thống, tư duy học tập logic

để liên kết các kiến thức lại với nhau, kiến thức rời rạc khiến các em dễ rơi vào

tình trạng mất căn bản kiến thức cũng như chán nản do không rèn luyện thường

xuyên trong khi tính chất của bộ môn tiếng Anh là một chuỗi những hệ thống ngữ

pháp, ngữ âm, và từ vựng có các mối liên kết với nhau.

Hiện nay phương pháp dạy học được đổi mới và tập trung nâng cao hơn

nữa theo triết lý lấy người học làm trung tâm, nhằm phát huy cao độ tính tự giác,

tư duy tích cực, độc lập và sáng tạo của người học. Để làm được điều đó thì vấn4

đề tiên quyết ở người GV là cần nhận thức rõ quy luật nhận thức của học sinh,

trong đó học sinh là chủ thể hoạt động, chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện kỹ năng.

Làm thế nào để GV không những giúp đưa đến những kiến thức mới cho HS mà

còn hướng dẫn xây dựng, hệ thống hóa, tổng hợp

liên kết nhằm tạo điều kiện để HS nắm bắt kiến thức một cách dễ dàng và nhẹ

nhàng nhất.

Hơn nữa, để thực hiện được mục tiêu và phương châm kiên quyết đảm bảo

chất lượng đầu ra của quá trình dạy học theo đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong

hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020” phê duyệt tại QĐ số 1400/QĐ-

TTG của Thủ tướng chính phủ, đòi hỏi những thầy cô giáo dạy Tiếng Anh như

chúng tôi phải suy nghĩ làm thế nào để giúp học sinh đạt được mục tiêu và

phương châm trên. Để phát triển tốt 2 kĩ năng nghe, nói đòi hỏi GV phải trang bị

đủ cả bốn kĩ năng: Nghe – Nói – Đọc – Viết cho HS. Thế nhưng trong chương

trình SGK tiếng Anh 6 thí điểm hiện nay tương đối nhiều và khó. Vậy làm thế nào

giúp học sinh tiếp cận được chương trình học đồng thời phát triển được 4 kĩ năng

trên, trong đó đặc biệt chú ý 2 kĩ năng nghe, nói.

Từ những lý do trên, tôi nhận thấy sự cần thiết của việc sử dụng Sơ Đồ Tư Duy

(SĐTD) như một công cụ hữu ích giúp tạo nên một bức tranh tổng quát, hệ thống

hóa các kiến thức và mối liên quan trong bài học cho HS không những mang đến

cho các em phương pháp học tập đúng đắn như một công cụ hỗ trợ việc học tập

trở nên dễ hiểu dễ nhớ hơn mà còn giúp các em có được thói quen tự kích thích tư

duy, suy luận logic, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo,. Trong quá trình giảng

dạy tôi cũng đã kết hợp những kinh nghiệm đúc kết được trong quá trình dạy học

cùng với việc áp dụng phương pháp học tập sử dụng SĐTD cho HS rất thành

công. Vì vậy tôi chọn đề tài : “Vận dụng Sơ Đồ Tư Duy để giúp học sinh5

lớp 6 hệ thống hóa một số kiến thức cơ bản về từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm theo

chương trình Tiếng Anh thí điểm”. Trong lĩnh vực và phạm vi đề tài lần này

nhằm mang đến cách tiếp cận và sử dụng SĐTD hiệu quả nhất. Với mục đích

nâng cao chất lượng dạy và học trong tiết học hiện nay cũng như nâng cao dần

chất lượng đại trà cho học sinh, do vậy tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm của mình

đã thực hiện để quí đồng nghiệp tham khảo.

pdf 30 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 05/03/2022 Lượt xem 6207Lượt tải 12 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng Sơ Đồ Tư Duy để giúp học sinh lớp 6 hệ thống hóa một số kiến thức cơ bản về từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm theo chương trình Tiếng Anh thí điểm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 chất lượng dạy và học trong tiết học hiện nay cũng như nâng cao dần 
chất lượng đại trà cho học sinh, do vậy tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm của mình 
đã thực hiện để quí đồng nghiệp tham khảo. 
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 
Quá trình dạy học bao gồm hai mặt có liên quan chặt chẽ: Hoạt động dạy 
của thầy và hoạt động học của trò. Một hướng đang được quan tâm trong lí luận 
dạy học là nghiên cứu sâu hơn về hoạt động của trò trên cơ sở có sự định hướng 
của thầy rồi dựa trên thiết kế hoạt động của trò mà thiết kế hoạt động của thầy. 
Điều này khác với các phương pháp dạy truyền thống là chỉ tập trung nghiên cứu 
kĩ nội dung bài dạy để thiết kế cách truyền đạt của thầy. 
Trong xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tập trung thiết 
kế các hoạt động của trò sao cho họ có thể tự lực khám phá, chiếm lĩnh tri thức 
mới dưới sự chỉ đạo của thầy. Bởi một đặc điểm cơ bản của hoạt động học là 
người học cải biến chính mình, nếu người học không chủ động tự giác, không có 
phương pháp học tốt, thì mọi nỗ lực của thầy chỉ đem lại những kết quả hạn chế. 
Với yêu cầu mới của phương pháp dạy và học hiện nay và sự cần thiết để giải 
quyết những lí lẽ trên không gì hiệu quả hơn là nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng 
phương pháp dạy học bằng SÐTD. 
Theo Tony Buzan là người đầu tiên tìm hiểu và sáng tạo ra SĐTD dựa theo đặc 
điểm và nguyên lý hoạt động của não bộ, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào 
sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức, 
bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết 
với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết 
chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một 
kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng 
một chủ đề nhưng mỗi người có thể thể hiện nó dưới dạng SĐTD theo một cách 
riêng, do đó việc lập SĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi HS. 
6 
3. CƠ SỞ THỰC TIỄN: 
Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá HS cũng là một hình thức của đổi 
mới phương pháp dạy học, và thông qua đó GV phải có phương pháp dạy sao 
cho phù hợp. Việc đổi mới phương pháp dạy cùng với sự hỗ trợ của các phương 
tiện kỹ thuật đã và đang phần nào đạt được những yêu cầu đặt ra. Đặc biệt là 
phương pháp tổ chức hoạt động nhóm của HS dưới sự hướng dẫn của GV. Do 
một tiết học trên lớp chỉ có 45 phút không đủ thời gian cho các hoạt động, trong 
khi đó chương trình SGK thí điểm hiện nay có dung lượng ngữ liệu nhiều cần có 
sự lĩnh hội kiến thức một cách logic để vận dụng trong thực tiễn của việc học tập 
hiện nay. Đặc biệt là phần từ vựng quá nhiều, ngữ pháp, ngữ âm quá khó so với 
trình độ HS khối lớp 6. Do vậy trong quá trình dạy GV gặp không ít những khó 
khăn như: 
- HS tập trung vào việc ghi chép mà hạn chế việc tham gia thảo luận 
mhóm hoặc tham gia thảo luận mà không ghi chép đầy đủ bài học. 
- Mặt khác, hạn chế của HS là chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào 
não bộ mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, học một cách máy móc, thuộc nhưng 
không nhớ được kiến thức trọng tâm trong bài học, trong tài liệu tham khảo hoặc 
không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.  
 Qua tập huấn, học hỏi, nghiên cứu và qua thực tế đã sử dụng, tôi nhận 
thấy SÐTD một công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì 
điều kiện cơ sở vật chất nào của trường THCS hiện nay. Có thể thiết kế SÐTD 
trên giấy, bìa, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn, tẩy, hoặc 
cũng có thể thiết kế trên phần mềm SÐTD. Với trường có điều kiện cơ sở hạ 
tầng công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy tính phần mềm Mindmap cho 
GV, HS sử dụng, nhưng tiện dụng nhất vẫn là vẽ trên giấy, bìa, bảng phụ. 
Việc vận dụng SÐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy 
mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ 
thống, khoa học. Sử dụng SÐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực 
khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, có tính khả thi cao góp phần đổi mới 
PPDH, đặc biệt là đối với học sinh các lớp bắt đầu học chương trình TA TĐ. 
7 
5 
Nếu so sánh với phương pháp dạy học truyền thống chỉ chú trọng đọc - chép thì dạy 
học bằng SÐTD là một phương pháp mới. Theo Tiến sĩ Trần Ðình Châu, Vụ trưởng, 
Giám đốc Dự án phát triển giáo dục THCS 2, một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ 
não người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà chính mình suy nghĩ, tự viết, vẽ ra. 
Vì vậy, việc sử dụng SÐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa 
tiềm năng của bộ não; giúp cho mỗi người phát triển khả năng thẩm mỹ do việc thiết 
kế nó phải có bố cục hợp lý, mầu sắc đẹp, đường nét, các nhánh, sắp xếp các ý tưởng 
một cách khoa học, lô-gích, dễ hiểu. Sử dụng SÐTD góp phần đổi mới phương pháp 
dạy học, nhất là vận dụng vào dạy học kiến thức mới hoặc hệ thống hóa kiến thức 
phù hợp với từng đối tượng khác nhau. 
4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: 
 4.1.Thực trạng của vấn đề: 
 4.1.1.Thuận lợi: 
- Đây là phương pháp học tập mới, thoải mái, thú vị và sáng tạo. 
-Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên được sự ủng hộ từ các cấp trong 
ngành giáo dục, phụ huynh, học sinh, 
-Chương trình TA lớp 6 TĐ có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp giảng dạy 
dùng SĐTD để phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho học sinh lĩnh hội 
kiến thức. 
-Về cơ sở vật chất của trường học hiện nay đã có nhiều đổi mới tạo điều kiện cho 
hoạt động dạy và học: Phòng CNTT, đèn chiếu, bảng phụ, 
-Giáo viên được đào tạo và tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng 
SĐTD trong giảng dạy. 
-CNTT hiện nay tạo điều kiện cho mọi người có điều kiện tiếp cận nhiều nguồn 
thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau. 
-Phương pháp sử dụng SĐTD trong việc dạy các kiểu bài phù hợp với tâm sinh lý 
lứa tuổi học sinh, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền 
thống. Vì vậy gây hứng thú cho người học, kích thích học sinh tư duy tích cực. 
 4.1.2. Khó khăn: 
8 
-Phương pháp giảng dạy này tuy đã triển khai hơn ba năm học rồi, nhưng nó vẫn còn 
mới nên GV và HS không khỏi lúng túng trong một số kĩ năng như sử dụng lúc nào, 
sử dụng như thế nào, sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý tưởng ra sao,  
- Nội dung môn TA THCS, đặc biệt là môn TA lớp 6 TĐ có dung lượng nhiều, khó, 
 nên GV khó dạy, HS khó học. 
-Đòi hỏi GV cần phải có những kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm. 
-Cơ sở vật chất ở trường học tuy có đổi mới, nhưng chưa thực sự đáp ứng và chưa 
phù hợp: Số lượng HS, không gian lớp học, trang thiết bị - đồ dung dạy học, thời 
lượng tiết học,  
-Năng lực HS không đồng đều nên đôi khi việc vẽ SĐTD trong học tập là sự máy 
móc không hiệu quả. 
-Môi trường học tiếng ở địa phương hiện nay chưa đáp ứng được trong việc thực 
hành giao tiếp. Phần lớn gia đình HS chưa có sự đầu tư đúng cách, chưa dành sự 
quan tâm đúng mức, còn xem thường và cũng do nhu cầu lợi ích chưa thiết thực 
trong thời điểm HS đang học. 
 4.2. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: 
Là GV đang trực tiếp giảng dạy bộ môn TA trên lớp trước tiên cần phải nắm vững 
chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông thể hiện ở chương trình SGK, chuẩn kiến 
thức kĩ năng, phương pháp giảng dạy, việc sử dụng các phương tiện dạy học, các 
hình thức tổ chức dạy học phải phù hợp, thích ứng với từng hoạt động giúp HS tích 
cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội kiến thức. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, 
phải nhấn mạnh rằng SĐTD là một công cụ phối hợp với các phương pháp khác đã 
thực hiện thêm phần hiệu quả, mặc dù đây không phải là một giải pháp có thể thay 
thế tất cả các phương pháp khác. Vì vậy trong quá trình dạy học bộ môn TA ở các 
lớp 7, 8, 9 nói chung và đặc biệt môn TA 6 TĐ từ đầu năm học 2014-2015 nói riêng, 
tôi đã đưa ra và áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả nhưng trọng tâm là sử dụng 
SĐTD. Với kinh nghiệm dưới đây, để thực hiện cho các mục tiêu của từng phần có 
sự phối kết hợp của nhiều phương pháp trên cở sở đặc trưng của từng loại bài và đưa 
ra những lí luận, giải pháp, cách làm cùng thực hiện theo tôi cho là có hiệu quả và 
tạo ra được thích thú cho cả thầy lẫn trò. 
9 
1. Phương pháp xây dựng sơ đồ tư duy. 
a/ Bảy bước để tạo nên một SĐTD: 
Bước 1. Bắt đầu từ trung tâm và triển khai ra các nhánh (Có thể sử dụng từ 
chính hoặc hình ảnh cần thiết). 
Bước 2. Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não 
như hình ảnh. 
Bước 3. Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh 
cấp hai đến các nhánh cấp một, nối các nhánh cấp ba đến nhánh cấp hai, 
Bước 4. Mỗi từ/ảnh/ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường nối 
Bước 5.Tạo ra một kiểu bản đồ riêng cho mình (Kiểu đường kẻ, màu sắc,) 
Bước 6. Nên dùng các đường kẻ cong thay cho các đường thẳng vì các đường 
cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt hơn rất nhiều các 
đường thẳng buồn tẻ. 
Bước 7. Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm. 
b/ Cách ghi chép trên SĐTD: 
- Nghĩ trước khi viết. 
- Viết ngắn gọn. 
- Viết có tổ chức. 
- Viết theo ý của mình. 
c/ Điều cần tránh khi ghi chép trên SĐTD: 
- Viết câu dài dòng. 
- Ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết. 
- Dành quá nhiều thời gian để ghi chép. 
d/ Qui trình học cách thiết kế SĐTD: 
Bước 1: Cho học sinh đọc hiểu nội dung cần thiết kế trên SĐTD. Bước 2: Học 
cách thiết kế SĐTD bằng cách cho học sinh hoàn thiện các SĐTD do GV vẽ sẵn 
nhưng còn thiếu nhánh, thiếu nội dung Bước 3: Thực hành vẽ SĐTD trên 
giấy, bìa, bảng. 
2. Các hoạt động dạy học trên lớp với SĐTD: 
Từ việc học sinh nắm vững được phương cách xây dựng SĐTD và quy
10 
trình tổ chức xây dựng SĐTD trong dạy học. Đồng thời qua kết quả nghiên cứu thực 
nghiệm và lý luận của nhiều nhà hoạt động trong ngành giáo dục. Có thể tóm tắt một 
số hoạt động dạy học trên lớp với SĐTD như sau: 
- Hoạt động 1: HS lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của GV. 
- Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về 
SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. 
- Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức 
của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh SĐTD, từ đó 
dẫn dắt đến kiến thức của bài học. 
- Hoạt động 4: củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc một 
SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày, thuyết 
minh về kiến thức đó. 
Ví dụ: Unit 1: MY NEW SCHOOL. Ở phần PROJECT cho HS nói về ngôi 
trường mơ ước DREAM SCHOOL. 
Yêu cầu của phần này là cho HS tự do luyện nói về ngôi trường mơ ước của 
các em một cách thoải thích theo trí tưởng tượng của mình. 
Hoạt động 1: Do thời gian trên lớp không có nhiều nên bước đầu tôi mời một 
HS tương đối giỏi ở lớp đứng tại chỗ trình bày ngắn gọn ý tưởng của mình, sau đó 
tôi phác họa lại ý tưởng của em này bằng một SĐTD đơn giản lên bảng: 
11 
Mục đích của việc làm này là để tất cả các HS khác của lớp bắt chước làm 
theo ở lớp hoặc ở nhà. Tôi cũng nhấn mạnh với các em rằng trong quá trình 
dạy học tôi sẽ cố gắng hết sức để tạo điều kiện cho các em luyện nói, và 
muốn làm quen với việc luyện nói được dễ dàng chỉ có cách tốt nhất là nhìn 
vào SĐTD để nói. Tôi cũng yêu cầu mỗi nhóm về nhà vẽ 1 SĐTD để ghi ra 
những mơ ước về ngôi trường mơ ước của mình. 
12 
Hoạt động 2: Như đã hứa ở trên, mỗi tiết dạy tôi dành từ 5 – 10 phút đầu 
giờ (Điểm KT miệng tôi ghi cho HS bất cứ hoạt động nào trong quá trình học ở 
lớp hoặc việc dặn dò về nhà nếu các em thực hiện tốt, cho nên phần lớn thời gian 
đầu tiết học tôi dành cho việc luyện nói) tôi gọi 1 đại diện của một nhóm HS lên 
trước lớp, nhìn vào SĐTD của nhóm mình đã thiết lập để thuyết trình. Sau đó tôi 
nhận xét và có thể ghi điểm miệng cho cá nhân em HS này. 
Việc cô giáo phân công làm việc theo nhóm để có ý tưởng hay phong phú 
hơn, nhưng khi lên bảng thuyết trình cô giáo lại cho điểm cá nhân nhằm mục 
đích giúp các em có động lực và không đùn đẩy cho nhau khi được mời lên bảng. 
Hoạt động 3: Sau khi có được sự góp ý của cô giáo trên lớp để SĐ của các 
em được hoàn thiện hơn (hoặc thảo luận của nhóm nếu thời gian cho phép), tôi 
yêu cầu các em mỗi cá nhân về nhà tự vẽ lại 1 SĐTD riêng cho mình và cô sẽ gọi 
lên thuyết trình bất cứ lúc nào có thể. 
Hoạt động 4: Lần này các em khiến tôi rất vui vì mỗi em đều có trong tay 1 
SĐTD của mình kể cả những em yếu kém và tất nhiên vẫn có nhiều SĐ chưa đạt 
yêu cầu nhưng như thế cũng đã tốt rồi. 
Để động viên và tạo sự hứng thú hơn cho những hoạt động tiếp theo, tôi 
gọi 1 HS tương đối yếu lên bảng và dìu em tập nói cho dù được vài câu đơn giản 
cũng tốt. Tôi nhận xét, cho điểm và tuyên dương em
13 
Qua các hoạt động trên, tôi rất vui rằng bước đầu tôi đã thành công trong 
việc dẫn dắt các em sử dụng SĐTD để học TA. Tuy nhiên hiệu quả trong 
tương lai như thế nào phần lớn còn phụ thuộc vào sự luyện tập và nỗ lực của 
các em nữa. 
3. Sử dụng SĐTD để dạy và ôn tập từ vựng: 
 Từ vựng là một trong những loại ngữ liệu rất cần thiết để xây dựng thành ý, 
thành câu, thành bài văn hoàn chỉnh và như tôi đã nói ở các phần trên, trong 
chương trình SGK môn TA 6 TĐ có rất nhiều từ vựng. Vậy làm sao để giúp 
HS lớp 6 tiếp thu và nhớ được khối lượng lớn từ vựng trong quá trình học mà 
không gây nhàm chán. 
Ví dụ 1: UNIT 2: MY HOME, ở phần CLOSER LOOK 1. 
Qua SĐTD này HS dễ dàng nhớ được các phòng trong một ngôi nhà và các 
thiết bị trong từng phòng. 
14 
Ví dụ 2: UNIT 3: MY FRIENDS. Giúp HS học và nhớ tính từ chỉ tính cách 
(ADJECTIVES FOR PERSONALITY) để miêu tả người thân, bạn bè tôi hướng 
đẫn các em vẽ 2 SĐ sau để chỉ trạng thái vui và buồn, miêu tả trạng thái vui, tôi 
hướng dẫn HS vẽ mặt cười: 
15 
Miêu tả trạng thái buồn, tôi hướng dẫn HS vẽ mặt buồn: 
Cứ như thế chúng ta chịu khó hướng dẫn và bày vẽ thường xuyên để HS có 
thói quen học và ôn tập từ vựng bằng SĐTD. Tôi hy vọng thói quen này sẽ giải 
đáp được điều phân vân trên. 
4. Sử dụng SĐTD để dạy và ôn tập ngữ pháp, ngữ âm: 
 Khi HS đã có thói quen học và nhớ từ vựng được nhiều, thêm vào đó nếu các 
em nắm vững và vận dụng tốt các điểm ngữ pháp, thì việc học TA của các em sẽ 
thuận lợi và hiệu quả hơn nhiều. Tôi tiến hành hướng dẫn HS lần lượt ôn tập bằng 
SĐTD như sau: 
 Ví dụ: + Để chuẩn bị cho bài KT số 1, ngoài những kiến thức các em đã được 
luyện và ôn, tôi hướng đẫn các em vẽ 2 SĐTD: VERB + NOUN và TENSES 
(Simple present, present continuous) ở tiết ôn tập: 
16 
+ Cũng như trên, bổ sung kiến thức chuẩn bị cho bài KT 1 tiết số 2, tôi 
hướng đẫn HS vẽ 2 SĐ: COMPARATIVE ADJECTIVES và 
SUPERLATIVE OF SHORT ADJECTIVES.
17 
+ Phát âm chuẩn cũng là một trong những tiêu chí để học tốt môn TA và 
giúp HS trong việc phát triển kĩ năng giao tiếp, nên tôi hướng dẫn HS vẽ SĐ: 
PRONUNCIATION, tổng hợp các âm HS đã gặp trước khi các em thi HK. 
+ Để chuẩn bị cho bài KT số 3, tôi giúp HS vẽ sơ đồ TENSES (Simple 
present, present continuous, simple past, present perfect). Vì thời gian trên 
lớp không nhiều nên tôi hướng dẫn các em chuẩn bị sẵn một SĐTD về bốn 
thì trên ở nhà. Đến giờ ôn tập tôi cho các em hoạt động theo nhóm, các em 
khá / giỏi diễn giải cho các bạn trong nhóm hiểu. Sau đó tôi mời 1 HS giỏi 
nhất lớp lên bảng nhìn sơ đồ giải thích lại một lần nữa trước khi các em vận 
dụng vào bài tập trong SGK. 
18 
19 
20 
+ Hai sơ đồ THREE Rs và CONDITIONAL SENTENCES (Type 1) được 
hướng dẫn vẽ để các em ôn tập chuẩn bị cho bài KT số 4: 
21 
5. HIỆU QUẢ CỦA SKKN: 
- Sử dụng SĐTD trong việc đổi mới phương pháp dạy học đã dược tập huấn, triển 
khai từ năm học 2011-2012. Những năm học trước tôi đã thực hiện ở các khối 7, 
và 8. Bắt đầu từ năm học 2013-2014 PGD Quận Hà Đông triển khai dạy chương 
trình TA TĐ cho khối lớp 6 và trong năm học này 2019-2020 tôi được lãnh đạo 
nhà trường phân công trực tiếp dạy 2 lớp 6A3 và 6A7. Do chương trình SGK TA 6 
TĐ nhiều và khó, nên tôi đã thực sự bắt tay vào việc vận dụng SĐTD để giúp HS 
lớp 6 học TA có hiệu quả. 
 - Từ khi vận dụng SĐTD vào dạy và học đã tạo sự tích cực cho học sinh; giáo viên 
và học sinh làm việc nhiều hơn nhưng thấy thoải mái và hứng thú hơn. Kinh 
nghiệm cho thấy, để đưa SÐTD ứng dụng vào quá trình dạy và học, HS có thể vẽ 
trên giấy, bìa, bảng phụ, sử dụng bút chì mầu, phấn, tẩy,... hoặc cũng có thể thiết kế 
trên powerpoint hay các phần mềm bản đồ tư duy. Với các trường có điều kiện cơ 
sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy tính phần mềm cho cán bộ, 
giáo viên, học sinh sử dụng. Tuy nhiên, việc dùng giấy, bút chì, bút mầu, tẩy,... để 
vẽ SÐTD có ưu điểm là giúp người lập SÐTD dễ dàng phát triển ý tưởng và bổ 
sung ý tưởng qua đó phát huy tối đa tính sáng tạo của mỗi người, phát triển năng 
khiếu hội họa, sở thích của mỗi người, được tự do chọn mầu sắc (xanh, đỏ, vàng, 
tím,...), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong...), tự sáng tác nên mỗi SÐTD thể hiện 
rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng cá nhân và cũng do mỗi người tự 
làm nên càng yêu quý, trân trọng tác phẩm của mình. Với vật liệu dễ kiếm, rất kinh 
tế, cách làm đơn giản, SÐTD có thể vận dụng được với bất kỳ điều kiện nào của các 
nhà trường hoặc cá nhân HS hiện nay. 
Qua một thời gian áp dụng đề tài SKKN vào dạy môn TA 6 TĐ, cụ thể là từ 
bài KT 45 phút số 1 (HKI) và kiểm nghiệm tính ứng dụng của nó qua bài KT 45 
phút số 3 (HKII), tôi có được kết quả như sau: 
Bài KT 45 phút số 1 (HKI) 
22 
LỚP 
 SỐ 
GIỎI 
KHÁ 
TB 
YẾU 
KÉM 
 HS 
6A3 46 5(10.9%) 12(26.1%) 20(43.4%) 5(10.9%) 
 4(8.7%) 
6A7 54 8(14.8%) 13(24.1%) 22(40.7%) 7(13%) 
 4(7.4%) 
Bài KT 45 phút số 3 (HKII) 
LỚP 
 SỐ 
GIỎI 
KHÁ TB 
YẾU KÉM 
 HS 
6A3 46 8(17.4%) 15(32.6%) 18(39.1%) 3(6.5%) 
2(4.4%) 
6A7 54 10(18.5%) 20(37%) 17(31.5%) 4(7.4%) 
3(5.6%) 
So sánh, đối chiếu kết quả giữa 2 bài kiểm tra chỉ qua một thời gian ngắn, nhìn chung 
tôi thấy HS có sự tiến bộ rõ rệt, kết quả làm bài của các em có sự thay đổi tuy ít nhưng 
rất đáng mừng rằng kết đạt loại TB, K, G tăng lên, ngược lại số YẾU, KÉM giảm 
xuống. Đáng mừng hơn ở chỗ HS yếu, kém cũng đã biết học theo SĐTD từ đó các em 
vận vào bài làm. Đó chính là kết quả thiết thực nhất thể hiện sự thay đổi lối tư duy của 
các em. 
6. KẾT LUẬN: 
 7.1. Ý nghĩa của việc sử dụng bản đồ tư duy trong học tập môn TA TĐ: 
- Sử dụng SĐTD giúp HS dễ dàng hệ thống hóa kiến thức của một bài, một cum 
bài hay toàn bộ chương trình học. 
- Khi vẽ SĐTD HS phải sử dụng cả bán cầu não trái và bán cầu não phải để suy 
nghĩ vì vậy các em sẽ phát huy được tối đa khả năng tư duy của bản thân và luôn hứng 
thú trong học tập. 
- Sử dụng SĐTD để tổng kết nội dung đã học, HS có thể vẽ thêm các nhánh mới 
(phát triển ý tưởng mới) theo cách hiểu của mình một cách chi tiết, đầy đủ. 
23 
Như vậy, vẽ SĐTD để tổng kết bài học giúp các em bước đầu tập nghiên cứu 
khoa học. 
 7.2. Những nhận định chung về đề tài, việc áp dụng và khả năng phát triển của đề 
tài. 
- SĐTD giúp GV và HS dễ dàng trình bày ý tưởng trước lớp và tiết 
kiệm được thời gian ghi chép, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, giúp HS nắm bắt được 
kiến thức qua một bản đồ thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức. 
- Ở cùng một nội dung kiến thức khi vẽ SĐTD mỗi HS sẽ dùng màu sắc, hình 
ảnh, các cụm từ diễn đạt theo cách riêng của mình vì vậy vẽ SĐTD phát huy được tối 
đa khả năng sáng tạo của HS, tăng tính độc lập và rèn luyện khả năng tự học cho HS. 
- SÐTD – Mind map do Tony Buzan sáng lập là một kiệt tác, có lẽ không bao 
giờ lỗi thời cả. Lần đầu cầm bộ sách TA 6 TĐ tôi thật sự lo lắng liệu với khả năng HS 
lớp 6 có học tốt được không, và mình phải dạy thế nào đây, nhưng khi vận dụng SĐTD 
để dạy tôi càng thấy thích thú. SĐTD không chỉ có hiệu quả trong việc dạy môn TA 
mà còn ở tất cả các môn học khác cũng như mọi lĩnh vực khác. 
Như vậy, bản đồ tư duy có vai trò rất quan trọng trong dạy học và đặc biệt đổi 
mới cách tổ chức dạy học của giáo viên đồng thời góp phần bồi dưỡng năng lực t

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_van_dung_so_do_tu_duy_de_giup_hoc_sinh.pdf