Trong chương trình mĩ thuật tiểu học, vẽ theo mẫu có vị trí quan trọng .
Vẽ theo mẫu giúp học sinh nắm được đặc điểm, hình dáng, cấu trúc đồ vật thông
qua so sánh, phân tích, tổng hợp khái quát hóa. Học sinh được rèn luyện kĩ năng
miêu tả đồ vật bằng đường nét, màu sắc, đậm nhạt, hình khối. Kiến thức và kỹ
năng của vẽ theo mẫu hỗ trợ rất nhiều cho các phân môn khác như: Kiến thức,
kỹ năng sắp xếp bố cục, vẽ hình, tỉ lệ tương quan đậm nhạt, không gian, ánh
sáng được vận dụng trong các phân môn vẽ tranh, trang trí. Ngày nay môn mĩ
thuật đã được chuyển sang phương pháp dạy học mới cho nên đòi hỏi phân môn
vẽ theo mẫu cũng có sự chuyển đổi về phương pháp dạy học để phù hợp với
cách dạy mới, tạo phong cách vẽ mới, đầy hứng thú, sáng tạo cho học sinh.2
Là một giáo viên dạy mĩ thuật ở trường tiểu học đã lâu, tôi nhận thấy cần
đưa ra những phương pháp dạy học tích cực dành cho phân môn vẽ theo mẫu
như vẽ biểu cảm, vẽ theo trí nhớ kết hợp với cách phối màu theo cảm nhận và
sáng tạo thì các em sẽ có những tác phẩm tuyệt đẹp, mang tính giá trị nghệ thuật.
Ở khối lớp 3, hầu như các em đã nắm vững các bước cơ bản về vẽ theo mẫu cho
nên các em khó có thê tiếp thu nhanh với phương pháp dạy học mới, các em sẽ
lúng túng hay vẫn còn vẽ theo phương pháp cũ. Chính vì nhận ra điều này, tôi đã
mạnh dạn đưa ra những phương pháp dạy học tích cực để giúp các em dễ tiếp
cận với phương pháp dạy học mĩ thuật mới. Chính vì điều đó, tôi đã đưa ra kế
hoạch xây dựng đề tài “Vận dụng phương pháp dạy học tích cực để rèn kĩ
năng các bài vẽ theo mẫu môn Mĩ thuật cho học sinh lớp 3 Trường Tiểu học
Vạn Thọ 1“.
h tiểu học dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới và luôn hướng tới tương lai. Nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ rất nhanh và quên cũng nhanh. 5 Theo tinh thần chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học của ngành môn mĩ thuật nói riêng và việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy phù hợp với đặc trưng bộ môn là một vấn đề bức thiết. Như chúng ta đã biết nội dung và phương pháp giảng dạy bao giờ cũng gắn bó với nhau, mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp, các kỹ năng không thể được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển kỹ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường thực tế dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Vì mục đích của môn Mĩ thuật ở trường tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng chủ yếu là giáo dục thẩm mĩ, tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc, làm quen và thưởng thức vẻ đẹp của mẫu vật sẵn có quanh các em, cung cấp cho các em một lượng kiến thức cơ bản nhất định giúp các em hiểu được cái đẹp của đường nét, mảng hình, đậm nhạt, màu sắc, bố cục. 2. Cơ sở thực tiễn Mĩ thuật là môn học có tính chất năng khiếu nghệ thuật, nhằm giáo dục tính thẩm mĩ cho học sinh và hình thành một trong những yếu tố cơ bản của giáo dục tính thẩm mĩ. Giúp học sinh phát huy năng khiếu sẵn có của tuổi thơ, đồng thời hướng dẫn một số phương pháp để các em quan sát tập vẽ theo mẫu tiến tới vẽ tranh và xem tranh Từ đó, gây cho các em niềm say mê, hứng thú tìm cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình tiến tới hình thành thị hiếu thẩm mĩ tốt trong họctập, vui chơi và học tập hàng ngày. Là giáo viên Mĩ thuật, tôi nhận thấy đa số các e học sinh đều thích vẽ nhưng chất lượng các bài vẽ của các em còn chưa cao. Vì vậy, người giáo viên cần vận dụng những phương pháp tích cực từng bước giúp các em tự tin, nắm vững kiến thúc, kĩ năng để thực hiện các bài vẽ tốt hơn. Việc rèn luyện kĩ năng để nâng cao chất lượng các bài vẽ theo mẫu của học sinh lớp 3 góp phần: - Giáo dục thẩm mĩ cho học sinh là nhiệm vụ chính của môn học Mĩ thuật. - Cung cấp cho học sinh một số kiến thức Mĩ thuật phổ thông, giúp các em hiểu biết về cái đẹp và hoàn thành các bài tập của chương trình, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh học tốt các môn học khác, góp phần xây dựng môi trường thẩm mĩ cho xã hội. - Rèn luyện cho học sinh cách quan sát, khả năng tìm tòi, sáng tạo để góp phần hình thành phẩm chất người lao động mới. - Giúp học sinh nhận thức được vẻ đẹp của Mĩ thuật dân tộc và có ý thức giữ gìn, bảo tồn nền Mĩ thuật đó. - Tạo điều kiện để cho những học sinh có khả năng, có nhu cầu tiếp tục học ở các trường, các ngành có liên quan như; kiến trúc, xây dựng, thời trang, sư phạm Mĩ thuật Chương II: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu I. Đặc điểm tình hình 6 Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 một ngôi trường được thành lập từ khá lâu. Trường được nâng cấp, xây dựng trên nền trường liên cấp một- cấp hai, nhưng ngày nay trường cấp một và cấp hai đã được tách riêng, Trước đây, trường được xây dựng với những phòng học đơn sơ, mộc mạc, còn thiếu thốn nhiều về cơ sở vật chất, nhưng giờ đây cùng với sự phát triển của xã hội và quan tâm của các cấp lãnh đạo, chính quyền, địa phương, ngôi trường được xây dựng khang trang hơn, các phòng học, bàn ghế, trang thiết bị, dụng cụ học tậpcủa các em học sinh cũng được đầu tư đầy đủ để phục vụ cho việc dạy và học của thầy trò. Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 nằm trên địa bàn thôn Cổ Mã, xã Vạn Thọ. Trường nằm trên đường quốc lộ 1A nên rất thuận tiện cho việc đi lại, dễ dàng giao lưu với các trường bạn trên địa bàn huyện. Trường có một khuôn viên rộng, được trông rất nhiều cây lâu năm, cao vút tỏa bóng mát cho trường. Không chỉ vậy, Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 còn có một đội ngũ các thầy giáo, cô giáo trẻ, nhiệt tình, tâm huyết, luôn yêu thương, quan tâm học sinh. Nhà trường luôn thay đổi các phương thức dạy, học của thầy cô và học sinh nơi đây. Điều kiện sống của người dân nơi đây còn khó khăn, một số cha mẹ học sinh đi làm ăn xa nhưng các bậc phụ huynh vẫn quan tâm tới sự học hành của con em. II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu 1. Nhà trường: Thuận lợi: Trường được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, chính quyền. Ban giám hiệu nhà trường luôn tích cực đổi mới, đưa trường học này càng đẹp đẽ, khang trang. Bên cạnh đó, ban giám hiệu và tổ chuyên môn luôn tạo điều kiện, sẵn sàng giúp đỡ giáo viên để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi, nhà trường vẫn còn gặp một vài khó khăn như thiếu giáo viên nên phải hợp đồng. Trường học chưa có phòng chức năng dành cho môn mĩ thuật. Một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học của các em học sinh nên cũng ảnh hưởng phần nào đến trường học. 2. Giáo viên: Thuận lợi: Giáo viên lên kế hoạch xây dựng một phương pháp dạy học để giúp cho tiết học vẽ tốt hơn, tạo điều kiện cho học sinh sáng tạo hơn nữa. Vì yêu nghề, mến trẻ nên giáo viên tích cực, năng động trong việc tìm tòi, nghiên cứu để trau dồi thêm kinh nghiệm về chuyên môn. Giáo viên là người địa phương nên nắm bắt rất rõ về tình hình sinh sống của các em học sinh từ đó tiếp cận với các em học sinh và nắm bắt được tình hình học tập của các em dễ hơn Khó khăn: Giáo viên phải dạy nhiều bộ môn ( Môn: đạo đức, thủ công, khoa học) nên chưa có thời gian tập trung để nghiên cứu chuyên môn của mình. Một trường tiểu học chỉ có một giáo viên giảng dạy môn mĩ thuật cho nên việc dự giờ, học hỏi kinh nghiệm về chuyên môn còn hạn chế. Bên cạnh đó 7 do thiếu mẫu vẽ trực quan nên giáo viên thường dạy suông, dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong quá trình hướng dẫn học sinh nhận biết mẫu vẽ. 3. Học sinh: Thuận lợi: Các em rất ham thích môn vẽ, ngoài những tiết học vẽ ra các em còn lấy giấy nháp ra vẽ những hình ảnh mình thích. Một số em rất thích vẽ. Chính những yếu tố này đã làm động lực cho tôi thêm quyết tâm xây dựng những phương pháp nhằm giúp các em học tốt hơn. Khó khăn: Đang ngồi trên ghế trường tiểu học cho nên ý thức việc học của các em còn hạn chế, hầu như thời gian rãnh các em vui chơi chưa tập trung để vẽ. Trong quá trình học, các em còn lúng túng khi vẽ bài, đa số học sinh còn đi theo cách vẽ theo phương pháp cũ. Bài vẽ chưa có sự sáng tạo về hình và màu. Chưa đa dạng về các kết quả bài vẽ. Học sinh vẽ bài theo một cách máy móc. Chưa chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ như giấy A4, chì, màu... Các em có sự sao chép hình ảnh, màu từ bài của bạn. Bên cạnh đó các em chưa mạnh dạn, tự tin trong quá trình học tập, những em vẽ chưa đẹp thì không tham gia các hoạt động tập thể của nhóm. Đứng trước những khó khăn và chớp lấy những thuận lợi, tôi đã kết hợp với nghiên cứu các tài liệu để đưa ra các phương pháp dạy học phù hợp và đạt hiệu quả ở phân môn vẽ theo mẫu ở khối 3. Đồng thời rút ra được bài học kinh nghiệm cho bản thân. Chương III: Giải pháp nghiên cứu I. Mục tiêu của giải pháp - Từ khi lý luận dạy học ra đời bắt đầu hình thành những định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học, mỗi định nghĩa nhấn mạnh một vài khía cạnh nào đó, phản ánh sự phát triển nhận thức của các nhà khoa học, các nhà sư phạm về bản chất khái niệm phương pháp dạy học ở một thời kỳ xác định. - Với mục tiêu chung và chương trình cụ thể, dạy học mĩ thuật ở Tiểu học không chỉ là vẽ mà lấy hoạt động mĩ thuật để nâng cao hiểu biết cho học sinh giúp các em có thêm kiến thức, kĩ năng trong quá trình hoàn thiện nhân cách Đức - Trí - Thể - Mĩ. - Vẽ theo mẫu là phân môn tương đối khô cứng, khó tưởng tượng , do vậy bài vẽ của học sinh sẽ không giống hệt nhau mà có thể chỉ giống trên những nét lớn, đặc điểm và hình dáng chung còn kích thước, đậm nhạt, bố cụcsẽ khác nhau, tuỳ thuộc vào vị trí, khả năng diễn tả, cảm thụ của người vẽ, và cuối cùng sẽ có bài vẽ đẹp, bài chưa đẹp. - Vẽ theo mẫu có ảnh hưởng, tác dụng lớn đến vẽ trang trí, vẽ tranh và thường thức mĩ thuật. Ví dụ: khả năng quan sát, nhận xét, bố cục, vẽ hình... Vì vậy, khi dạy bài vẽ theo mẫu, giáo viên cần khắc sâu cho học sinh thế nào là vẽ theo mẫu. Cần giải thích thêm để các em phân biệt được: vẽ theo mẫu khác với vẽ kĩ thuật. 8 + Vẽ kĩ thuật yêu cầu vẽ đúng, chính xác đến từng milimét, nét thẳng phải thẳng băng, đều đều; hình tròn, hình ôvan phải thật chính xác, tròn trịa, đều đặn. Nét, hình ở vẽ kĩ thuật phải dùng thước, compađể vẽ. + Vẽ theo mẫu chỉ yêu cầu tả lại, mô phỏng lại mẫu, không đòi hỏi chính xác, đúng như mẫu. Nét vẽ, hình vẽ ở vẽ theo mẫu tuyệt nhiên không được dùng thước, compa, mà chỉ dùng tay tả lại nét thẳng nét cong của mẫu. - Cần hình thành và phát triển cho học sinh những kĩ năng sau: + Kĩ năng quan sát: giúp cho học sinh biết cách quan sát đồ vật, quan sát từ tổng thể đến chi tiết, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát để nắm được tỉ lệ , đặc điểm cấu trúc và cảm thụ được vẻ đẹp của mẫu. Trên cơ sở quan sát đặc điểm của mẫu, hình thành ở học sinh biểu tượng về đồ vật, góp phần hình thành thị hiếu thẫm mĩ và thói quen quan sát nhận ra vẻ đẹp của đồ vật xung quanh, biết trân trọng cái đẹp và thích tạo ra cái đẹp theo khả năng và sở thích của mình. + Kĩ năng xác định bố cục: Giúp học sinh biết chọn mẫu vẽ, biết sắp xếp mẫu có bố cục đẹp, biết sắp xếp hình vẽ trên giấy cân đối, thuận mắt. + Kĩ năng vẽ hình: Trên cơ sở kết quả quan sát nắm được đặc điểm hình dáng của mẫu, học sinh sắp đặt bố cục hình vẽ trên giấy và phác hình từ khái quát, tổng thể đến chi tiết. Nếu không biết cách phác hình thì bài vẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Có thể phải tẩy xóa nhiều, bài vẽ bẩn và hình vẽ có thể xộc xệch không vững chắc. Kĩ năng này cũng được sử dụng nhiều trong trang trí, vẽ tranh + Kĩ năng chỉnh hình, trên cơ sở hình vẽ đã được xác định, học sinh biết cách so sánh hình vẽ với mẫu để điều chỉnh hình cho đúng tỉ lệ, hình dáng, đặc điểm của mẫu, kỹ năng này cũng được sử dụng trong vẽ trang trí và vẽ tranh. + Kĩ năng vẽ đậm nhạt: Sau khi hình vẽ được hoàn chỉnh, học sinh cần quan sát mẫu để xác định các mảng đậm, nhạt trên cơ sở ánh sáng chiếu vào vật mẫu. Học sinh biết cách vẽ đậm nhạt, thể hiện đúng các độ đậm nhạt trên mẫu. II. Mô tả bản chất của giải pháp 1. Nội dung chương trình mĩ thuật lớp 3 Chủ đề: Em sáng tạo với họa tiết. (4 tiết) Chủ đề: Tranh tĩnh vật. (4 tiết) Chủ đề: Đồ vật quen thuộc. (4 tiết) 2. Nghiên cứu phương pháp làm mẫu hoặc tưởng tượng trong phân môn vẽ theo mẫu Trong các phân môn của mĩ thuật thì phân môn vẽ theo mẫu là một phân môn quan trọng, còn có thể nói nó là xương sống, trọng tâm và là nòng cốt của bộ môn mĩ thuật. Hơn nữa với môn mĩ thuật ở tiểu học chúng ta đang hướng dẫn học sinh cảm thụ mĩ thuật từ kĩ năng “đóng” sang kĩ năng “mở”, có nghĩa là 9 hướng các em, tạo điều cho các em cớ sự sáng tạo từ những kiến thức đã được học và tạo cho mình một kiến thức mang dấu ấn riêng của cá nhân. Hiện nay môn mĩ thuật bậc tiểu học đã được đổi mới, chuyển sang mô hình mới - mô hình Đan Mạch. Ở mô hình này, phân môn vẽ theo mẫu đã được cải tiến hóa nhằm khơi nguồn cảm hứng sáng tạo, tạo cho các em học sinh sự năng động, ham học hỏi. Từ vẽ theo mẫu chỉ biết nhìn chăm chăm vào giấy, vẽ theo đúng các bước dựng hình, phác nét, vẽ chi tiết, vẽ độ đậm nhạt... thì giờ đây học sinh chỉ cần vẽ theo mẫu dưới sự cảm nhận của bản thân và vẽ lên giấy. Chính sự thay đổi này, bản thân tôi đã mạnh dạn đưa ra những phương pháp dạy tích cực như cho học vẽ bằng cách nhắm mắt nhớ lại mẫu và vẽ trên . Đây là một phương pháp rất hay, đòi hỏi sự sáng tạo, nhớ lâu và tính thẩm mĩ cao nhất của học sinh. Bởi vì ngoài kĩ năng quan sát, vẽ hình gần giống mẫu, các em học sinh cần phải có sự tưởng tượng, sáng tạo- đó mới là kết quả cần đạt được ở vẽ theo mẫu. Nếu đi theo các phương pháp dạy trước đây thì khó có thể hướng dẫn, tạo điều kiên cho các em được thỏa sức sáng tạo, đưa ra những ý tưởng hay. Cho nên tôi đã mạnh dạn đưa ra một số phương pháp dạy học tích cực nhằm đổi mới cách dạy, nâng cao hiệu quả bài dạy, nâng cao chất lượng sản phẩm vẽ theo mẫu của học sinh. 3. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phân môn mĩ thuật 3.1. Phương pháp vẽ biểu cảm: - Đây là một phương pháp mới sau khi qua quá trình quan sát đa phần khi vẽ theo mẫu, hầu hết các em khi chịu nhìn mẫu vẽ mà chỉ chăm chú tập trung thị giác vào tờ giấy vẽ dẫn đến các em chưa nắm rõ cấu trúc, đặc điểm của mẫu vẽ. Các em lượt bỏ đi một số chi tiết của mẫu - mà những chi tiết đó là đặc điểm để nhận biết vật mẫu. Đa phần khi vẽ các em còn lệ thuộc vào cục tẩy, các em hay gôm tẩy nhiều lần dẫn đến làm cắt đứt nguồn cảm hứng vẽ hay là mất thời gian. Phần tô màu, các em bị động về cảm nhận màu. Màu của mẫu như thế nào các em đều tô như vậy, chính điều đó đã ngăn chặn, kiềm hãm khả năng cảm nhận tư duy giữa mẫu với cảnh vật thiên nhiên. Bằng phương pháp vẽ biểu cảm, các em sẽ rút ngăn các giai đoạn phác hình, sắp xếp bố cục mà tập trung vào phần quan sát, cảm nhận vẽ đẹp. Vẽ biểu cảm ở đây là các em hạn chế nhìn giấy, mắt nhìn mẫu, tay phác hình vẽ khi mắt nhìn mẫu, chính bằng cách vẽ như vậy, các em sẽ thể hiện hết được các đặc điểm của mẫu, ngoài các em còn sáng tạo từ những nét dư thừa khi vẽ mẫu không nhìn giấy. Qua phần phối màu, mỗi em một tính cách thì khả năng cảm nhận, phối màu cũng hoàn toàn khác nhau. Từ khả năng cảm nhận sự tương quan màu của mẫu với cảnh vật xung quanh, các em sẽ tạo cho mình màu hoàn toàn khác với các bạn. Từ đó, kết quả sản phẩm vẽ theo mẫu sẽ sinh động hơn.Và cũng từ đó, học sinh sẽ nhớ lâu về đặc điểm của mẫu. Đây cũng là phần yêu cầu mục tiêu mà các em cần đạt. - Có thể vẽ chân dung người hoặc vật khi vẽ học sinh quan sát thật tập trung chú ý kết hợp mắt và tay HS cố gắng không nhìn vào giấy vẽ. Đối với vẽ chân dung những bức vẽ rất ấn tượng và đôi khi rất hài hước thậm chí có những 10 bức chân dung chỉ nhận ra bộ phận của cơ thể mắt, mũi, tóc, tai, miệng hay đối với đồ vật chỉ mang dáng dấp đặc điểm của đồ vật mình vẽ . Vẽ biểu cảm tăng khả năng quan sát, buộc các em tập trung dùng ý chí bàn tay để vẽ, hình ảnh sẽ được khắc sâu và nhớ lâu hơn. * Để rèn luyện những kĩ năng ở phương pháp này cho học sinh, giáo viên cần: a. Mẫu vẽ: Đối với vẽ theo mẫu thì nhất thiết phải chuẩn bị mẫu vẽ. Giáo viên tự chuẩn bị mẫu vẽ hoặc giao cho các nhóm học sinh chuẩn bị. Mỗi lớp học phải có ít nhất 4 mẫu cho 4 nhóm. Lựa chọn mẫu vẽ phải có sự đa dạng, phong phú về kiểu dáng, màu sắc, kích thước...nhằm tạo hứng thú cho học sinh, tránh sự đơn điệu, nhàm chán. Đặc biệt đối với mẫu vẽ tĩnh vật cần chọn các loại hoa quả có hình dáng đẹp, màu sắc phong phú. Tuy vậy cũng không nên chọn mẫu có quá nhiều màu sắc đối chọi nhau, sẽ làm cho bài vẽ không có tính chủ đạo.Với những mẫu vẽ đẹp học sinh sẽ có hứng thú quan sát, từ đó lôi cuốn vào các bước tiếp theo của bài vẽ. Như vậy ngay từ bước chuẩn bị đồ dùng học tập, giáo viên bước đầu hình thành cho học sinh kĩ năng quan sát mẫu. b. Tổ chức lớp học: Lớp học giờ vẽ theo mẫu cần được sắp xếp hợp lí đảm bảo cho tất cả các học sinh đều có thể quan sát mẫu một cách dễ dàng. Có thể sắp xếp thành 4 nhóm ngồi xung quanh mẫu hoặc xếp học sinh thành 2 hàng dọc hai bên...tuỳ theo ánh sáng của lớp học. c. Bày mẫu : Giáo viên nên để cho học sinh tự bày mẫu, sau đó chỉnh sửa và gợi ý cho học sinh cách bày mẫu đẹp. Mẫu vẽ cần được bày phong phú và đảm bảo có nhiều góc vẽ đẹp. Giáo viên yêu cầu học sinh phải tự quan sát và vẽ mẫu đúng với góc nhìn của mình. d. Hướng dẫn học sinh quan sát mẫu: + Đặt câu hỏi: Giáo viên cần bám sát mẫu để đặt câu hỏi cụ thể trên từng mẫu vẽ, không đặt câu hỏi một cách chung chung. Khi đặt câu hỏi giáo viên cần chỉ vào mẫu để hướng sự chú ý của học sinh vào mẫu vẽ. + Quan sát mẫu: Quan sát từ bao quát đến chi tiết, không sa vào chi tiết, bộ phận để nhận ra Quan sát mẫu để suy nghĩ về bố cục. + Hướng dẫn học sinh vẽ mẫu: Khi hướng dẫn học sinh vẽ mẫu, giáo viên cần chuẩn bị hình hướng dẫn các bước vẽ theo mẫu. Bên cạnh sử dụng hình hướng dẫn chuẩn bị trước, giáo viên cần vẽ minh hoạ thêm những phần cần nhấn mạnh để học sinh lưu ý. Trước khi học sinh vẽ mẫu, giáo viên cho các em tham khảo một số bài vẽ hoàn chỉnh của các học sinh khoá trước. Bài vẽ sử dụng làm 11 bài mẫu tham khảo phải là các bài vẽ được chọn lọc, đạt yêu cầu về hình, bố cục, đậm nhạt... Sau khi hướng dẫn xong, giáo viên xoá các hình minh họa và cất bài mẫu, tránh để học sinh bắt chước bài tham khảo. Sau đó học sinh sẽ nhìn mẫu để vẽ nhưng không nhìn vào giấy. * Để phát triển những kĩ năng ở phương pháp này cho học sinh, giáo viên cần : - Nghiên cứu kĩ nội dung bài học để xác định mục tiêu cụ thể. Trong bài học đó giáo viên cần hình thành ở học sinh những kĩ năng nào và mức độ đến đâu? - Kĩ năng sắp xếp bố cục và phác hình: Qua nhiều bài luyện tập các kĩ năng trên được hình thành từng bước và phát triển. - Cuối mỗi bài học qua đánh giá kết quả học tập của học sinh giáo viên nắm được mức độ, kĩ năng đã phát triển ở từng học sinh và từ đó giáo viên có thể có kế hoạch bồi dưỡng cho cả lớp và từng cá nhân học sinh. * Để hình thành và phát triển những kĩ năng trên cho học sinh, giáo viên nên sử dụng một số phương tiện dạy học như: -Yêu cầu học sinh cùng tham gia chuẩn bị mẫu vẽ. Học sinh phân công trong nhóm mang theo mẫu và bày mẫu tuỳ theo nội dung của bài học (có thể bày 3 hoặc 4 nhóm mẫu để học sinh vẽ theo nhóm). Mẫu các nhóm có thể giống hoặc khác nhau tùy theo yêu cầu của bài. Tuy nhiên phải đảm bảo yêu cầu chung của bài. - Bài vẽ của học sinh năm trước (cả bài tốt và bài chưa tốt). 3.2. Phương pháp vẽ theo trí nhớ: - Vẽ theo trí nhớ là phương pháp vẽ bằng cách cho các em tự do chọn mẫu mình yêu thích để vẽ, tiếp đó cho các em liên tưởng tới đồ vật đó, nhớ lai hình dáng, đặc điểm, cấu trúc và màu sắc của mẫu vẽ. Sau đó cho các em bắt đầu vừa nhớ vừa vẽ nhanh trên giấy. Phương pháp này sẽ giúp học sinh hoàn thành bài nhanh, thể hiện hết các đặc điểm của mẫu vẽ. Và kết quả đạt được là những sản phẩm vẽ theo mẫu phong phú về mẫu vẽ. Nhiều bài vẽ rất đẹp có sự sáng tạo. - Phương pháp này giúp các em không bị lệ thuộc vào mẫu vẽ. Các em có thể vẽ mẫu vẽ mà không cần nhìn mẫu. Các em sẽ vẽ bằng cách khơi nhớ lại vật mình cần vẽ. Nhiều người cho rằng vẽ theo mẫu không cần vẽ thì học sinh sẽ vẽ không giống mẫu. Theo tôi điều đó không đúng, vì tôi đã áp dụng phương pháp vẽ theo trí nhớ và đạt được kết quả tốt. * Để rèn luyện những kĩ năng ở phương pháp này cho học sinh, giáo viên cần: a. Mẫu vẽ: Đối với phương pháp này, giáo viên không nhất thiết chuẩn bị mẫu. Mẫu vẽ sẽ do học sinh chọn lựa tùy thích ( chọn những mẫu mà học sinh đã quan sát được trước đó) 12 b. Tổ chức lớp học: Học sinh được tự do lựa chọn của mình sao cho phù hợp nhưng cần đảm bảo trật tự và tất cả các học sinh đều có thể vẽ được c. Hướng dẫn học sinh vẽ mẫu theo trí nhớ: + Đặt câu hỏi: Giáo viên đặt câu hỏi hướng sự tập trung của học sinh vào mẫu vẽ, từng chi tiết, bộ phận để học sinh nhớ và vẽ. + Hướng dẫn học sinh vẽ mẫu: Sau khi hướng dẫn xong, giáo viên yêu cầu học sinh sẽ nhớ lại mẫu để vẽ vào giấy. * Để hình thành và phát triển những kĩ năng trên cho học sinh, giáo viên nên sử dụng một số phương tiện dạy học như: -Yêu cầu học sinh quan sát trước mẫu thật kĩ, nhớ chính xác và phải đảm bảo yêu cầu chung của bài. - Bài vẽ của học sinh năm trước (cả bài tốt và bài chưa tốt). 3.3. Phương pháp tạo hình 3D tiếp cận chủ đề: Phương pháp này gần giống như phương pháp xây dựng hình 3D nhưng có sự khác biệt ở chỗ từ một vật liệu bỏ đi các em quan sát và liên tưởng gần giống đồ vật nào. Sau đó các em sẽ trang trí, cắt vật liệu đó thành đồ vật mình đã liên t
Tài liệu đính kèm: