I. Lí do chọn đề tài
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng cho rằng: “Văn học, một hình thái
ý thức đặc biệt của xã hội, là nghệ thuật vận dụng ngôn ngữ một cách tài tình
và sáng tạo để nhận thức và phản ánh đời sống xã hội, để biểu hiện tâm tư con
người. Văn học đã trở thành công cụ để giáo dục con người, cải tạo xã hội rất
mạnh mẽ, nó là thứ vũ khí tư tưởng rất sắc bén có tác dụng to lớn, sâu rộng và
bền bỉ mà lịch sử loài người từ trước đến nay đã xác nhận”. Môn văn ngoài
“dạy sống, dạy người, dạy mở mang trí tuệ”, còn có nhiệm vụ cung cấp cho
học sinh những hiểu biết một cách có hệ thống về tri thức văn học. Đây là
những tri thức khái quát rất quan trọng bởi lẽ dạy văn không chỉ dừng lại ở
chỗ giúp người học cảm thụ được vẻ đẹp của từng tác phẩm văn chương cụ
thể, mặt khác góp phần trang bị cho các em những kiến thức công cụ để có
thể tự mình tiếp nhận văn học một cách có lý luận, tiếp nhận văn học một
cách văn học. Dạy học không phải là rót kiến thức vào cái bình chứa, hay
nhồi nhét cho HS một mớ kiến thức hỗn độn mà điều quan trọng là phải làm
sao trang bị cho các em phương pháp nghiên cứu, học tập, phương pháp giải
quyết các vấn đề. Để đọc hiểu tác phẩm văn chương, đòi hỏi ở người đọc
không chỉ là trực cảm thẩm mĩ, thưởng thức rung cảm mà còn ở khả năng
phân tích, lí giải, đánh giá qua hệ thống ngôn ngữ. Trong dạy học tác phẩm,
không thể đối lập giữa cảm và hiểu, giữa khả năng cảm thụ thẩm mĩ và tri
thức lí luận văn học.
Muốn vậy, “không thể không vũ trang cho HS một vốn liếng lí luận cần
thiết”. Tri thức lí luận văn học là tri thức công cụ, tri thức phương pháp, là
kiến thức siêu kiến thức, giúp cho việc đọc văn có phương pháp, phù hợp
với bản chất đặc trưng của văn học, đồng thời giúp phân tích, lí giải tác
phẩm văn chương một cách đầy đủ và sâu sắc. Nếu không, những kiến thức
mà học sinh có được cũng chỉ là những kiến thức vụn vặt, cảm tính, mang
tính tư liệu. Mục đích cuối cùng và cao nhất của dạy học trong Nhà trường
hiện đại là phát triển năng lực người học một cách toàn diện. Mục đích của
dạy đọc hiểu văn bản là rèn luyện và phát triển khả năng tự học, tự đọc và tạo
lập văn bản ở các em.
Để làm được điều đó, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu các biện pháp để “Rèn kỹ
năng làm bài phần đọc hiểu ngữ liệu ngoài văn bản cho học sinh lớp 9”
” Câu 4. Từ đoạn thơ và hiểu biết thực tế em suy nghĩ gì về vấn đề “Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong xã hội ngày nay”. Trình bày bằng một đoạn văn khoảng 2/3 trang giấy thi. 1.4. Kết quả thu được: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 9A 40 2 5,0 9 22,5 23 57,5 5 12,5 1 2,5 9C 35 1 3 5 14,0 19 54,3 8 22,8 2 5,7 Nhìn vào bảng kết quả ta thấy tỉ lệ học sinh đạt điểm giỏi rất ít, nhiều em làm được bài nhưng không lấy được điểm trọn vẹn do bài thiếu ý. Nhiều em không biết cách làm bài do hổng kiến thức nền về từ và biện pháp tu từ, xác định thiếu, hoặc nếu xác định đúng được biện pháp tu từ đi chăng nữa cũng mất điểm phần nêu tác dụng: Nhấn mạnh sự gắn bó của sự vật với môi trường sống Một số em cảm thụ thơ văn kém không đưa ra được thông điệp trong 2 câu thơ trên, đa số trả lời vòng vo chưa chạm tới đáp án biểu điểm của đề Một số em kĩ năng viết văn nghị luận xã hội thiếu các bước, thiên về kể dẫn chứng, lập luận yếu. Một số hình ảnh bài làm của học sinh lớp 9C 7 2. Giải pháp 2: Rèn kỹ năng phân tích cấu trúc, phạm vi, yêu cầu của đề 2.2.1. Nội dung: * Cấu trúc của phần đọc hiểu Cấu trúc của dạng bài đọc hiểu gồm hai phần: - Phần 1: Ngữ liệu mở trong hoặc ngoài chương trình và sách giáo khoa (đoạn văn, đoạn thơ, bài thơ ngắn, mẩu truyện). Nhưng xu hướng sẽ là một văn bản mới hoàn toàn, không có trong chương trình và sách giáo khoa. - Phần 2: Thực hiện trả lời yêu cầu 4 câu hỏi dựa trên chuẩn kiến thức và kĩ năng hiện hành, mức độ từ dễ đến khó. * Phạm vi của phần đọc hiểu - Văn bản văn học: (Văn bản nghệ thuật) + Văn bản trong chương trình (Nghiêng nhiều về các đoạn ngữ liệu tiếng Việt và phần Tập làm văn) + Văn bản ngoài chương trình (Các văn bản cùng loại với các văn bản được học trong chương trình). - Văn bản nhật dụng (Loại văn bản có nội dung gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như: Vấn đề chủ quyền biển đảo, thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý, Văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả các thể loại cũng như các kiểu văn bản song có thể nghiêng nhiều về loại văn bản nghị luận và văn bản báo chí). * Các xác định yêu cầu của đề - Đề có thể hỏi về phương thức biểu đạt, về phương tiện liên kết - Về các biện pháp nghệ thuật, nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó - Về việc giải thích từ ngữ, hiểu từ ngữ - Những câu hỏi thiên về hiểu nội dung tư tưởng, những câu hỏi tại sao - Câu hỏi viết đoạn rút ra từ ý nghĩa, nội dung tư tưởng của ngữ liệu. 2.2.2. Cách tiến hành - GV cho học sinh làm quen với các dạng đề này từ chương trình lớp 8 - Hướng dẫn học sinh nhận dạng cấu trúc và phạm vi của đề, yêu cầu của đề cụ thể thông qua các tiết ôn tập, các tiết tiếng Việt, luyện tập tiếng Việt 2.2.3. Kết quả - Sau vài tiết hướng dẫn học sinh làm quen với các đề ngoài văn bản, học sinh đã có khả năng phân tích đề, biết xác định những vấn đề chính trong câu hỏi, từ phạm vi yêu cầu của đề. Gặp một đề ngữ liệu ngoài chương trình các em không còn lo lắng và sợ như ý nghĩ ban đầu. Đây tạo tiền đề cho học sinh không có áp lực thi cử. 8 3. Giải pháp 3: Rèn kĩ năng phân tích, nhận định và trả lời các dạng câu hỏi phần đọc- hiểu 3.3.1. Nội dung: Đa số thuộc kểu câu hỏi trả lời ngắn. Dạng câu hỏi học sinh phải viết câu trả lời dựa trên yêu cầu của câu hỏi một cách ngắn gọn, chính xác. Nội dung các câu hỏi độc lập, câu trên không gợi ý cho câu dưới. Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu đề thi tôi nhận thấy câu hỏi chủ yếu sử dụng trong đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh thường có hai kiểu câu hỏi: 3.3.2. Các dạng: a. Câu hỏi đóng- mở + Câu hỏi đóng: là câu hỏi được giới hạn rõ có một đáp án, thể hiện cách hiểu chính xác về văn bản. + Câu hỏi mở: là câu hỏi có thể có nhiều phương án trả lời khác nhau, thể hiện quan điểm suy nghĩ riêng của học sinh. Câu hỏi có nội dung trả lời mở thường được đặt ở vị trí cuối cùng trong hệ thống câu hỏi của phần đánh giá năng lực đọc hiểu. b. Câu hỏi theo mức độ - Câu hỏi nhận biết thường đưa ra yêu cầu thí sinh chỉ ra các phương thức biểu đạt, các thể thơ, các biện pháp tu từ trong văn bản. - Câu hỏi thông hiểu thường yêu cầu thí sinh xác định nội dung chính của văn bản hay một câu, một đoạn trong văn bản. Hoặc yêu cầu nêu tác dụng của các phép tu từ hay việc sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt, sử dụng từ ngữ trong văn bản, câu hỏi bày tỏ quan điểm thái độ: Em hiểu như thế nào? Em đồng tình với câu nói...? Em suy nghĩ gì? Theo anh/ chị...vì sao? - Câu hỏi vận dụng viết đoạn liên hệ một số vấn đề của đoạn ngữ liệu với cuộc sống. 3.3.2. Cách tiến hành: - Giáo viên luôn phải định hướng câu hỏi cho học sinh trong mỗi đề khi luyện, ngay cả khi dạy những văn bản trong chương trình cũng luôn tích hợp với văn bản ngoài chương trình - Là dạng câu hỏi học sinh phải viết câu trả lời dựa trên yêu cầu của câu hỏi một cách ngắn gọn, chính xác. Nội dung các câu hỏi độc lập, câu trên không gợi ý cho câu dưới. Nên khi đọc đề và làm đề giáo viên luôn định hướng cho học sinh trả lời đúng dạng câu hỏi, đảm bảo đúng, trúng và đủ 3.3.3. Minh họa: Ví dụ minh họa: Rèn các bước làm bài đọc hiểu ở câu hỏi nhận biết Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 Yêu cầu Nhận biết về phương thức biểu đạt Nhận biết về thể thơ Nhận biết về các biện pháp tu từ Lỗi - Học sinh chưa xác - Nhận diện và gọi - Học sinh thường xác định chưa chính 9 định chính xác - Hoặc có xác định cũng không biết phương thức nào là chính phương thức nào là phụ tên sai xác - Hoặc còn nhầm lẫn biện pháp này với biện pháp kia Hướng dẫn - Cần nắm được khái niệm, đặc điểm và một số dấu hiệu đặc biệt của mỗi phương thức biểu đạt - Cần đếm số tiếng gọi tên theo từ Hán Việt - Nếu đoạn thơ xen lẫn số tiếng- thể thơ tự do - Nắm vững khái niệm, đặc điểm cơ bản của mỗi biện pháp Cụ thể dạy về PTBĐ: Yêu cầu HS xác định chính xác phương thức biểu đạt, muốn vậy các em phải nắm vững kiến thức cơ bản về khái niệm, đặc điểm và một số dấu hiệu để nhận biết các phương thức biểu đạt. + Tự sự: Cách nhận biết phương thức tự sự: có cốt truyện, có nhân vật, có diễn biến sự việc, có những câu văn trần thuật. Tự sự thường được sử dụng trong truyện, tiểu thuyết, văn xuôi nói chung, đôi khi còn được dùng trong thơ (khi muốn kể sự việc) + Miêu tả: Dấu hiệu nhận biết phương thức miêu tả: Có các câu văn, câu thơ tái hiện lại hình dáng, diện mạo, màu sắccủa người và sự vật (tả người, tả cảnh, tả tình,) + Biểu cảm: Dấu hiệu nhận biết phương thức biểu cảm: có các câu văn, câu thơ miêu tả cảm xúc, thái độ của người viết hoặc của nhân vật trữ tình. + Thuyết minh: Dấu hiệu nhận biết phương thức thuyết minh: có những câu văn chỉ ra đặc điểm riêng, nổi bật của đối tượng, người ta cung cấp kiến thức về đối tượng, nhằm mục đích làm người đọc hiểu rõ về đối tượng nào đó. + Nghị luận: Dấu hiệu nhận biết phương thức nghị luận: Có vấn đề bàn luận, có quan điểm của người viết. Nghị luận thường đi liền với thao tác phân tích, giải thích, chứng minh, bình luận. Ví dụ minh họa: Rèn các bước làm bài đọc hiểu ở câu hỏi thông hiểu Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 Dạng 4 Dạng 5 10 Yêu cầu Xác định nội dung chính của đoạn văn Nêu tác dụng của các BPTT được SD trong VB Nêu ý nghĩa của một từ ngữ trong đoạn văn Nêu ý nghĩa của một dấu hiệu nghệ thuật HD trả lời -Đọc kĩ đề để tìm một câu chủ đề ( câu văn mở đầu hoặc kết thúc) -Dựa vào nhan đề -Xác định nội dung của từng đoặn và tổng hợp lại -Xác định chính xác và gọi tên biện pháp tu từ đó -Nhớ lại kiến thức nền về biện pháp tu từ và cách khai thác giá trị tu từ + Giá trị gợi hình + Giá trị gợi cảm + Tình cảm của nhà văn -Xác định từ ngữ đó -Xác định nghĩa thức, nghĩa ẩn, nghĩa hàm ẩn -Xác định dấu hiệu nghệ thuật đặc biệt ( dấu ba chấm, dấu chấm than, dấu gạch nổi,) -Căn cứ vào tác dụng của các loại dấu, câu đặc biệt cùng với nội dung đoạn văn đưa ra ý nghĩa. Cụ thể minh họa dạy về biện pháp tu từ: + Biện pháp tu từ là gì? Biện pháp tu từ là cách thức vận dụng các phương tiện tu từ ở tất cả các bậc ngữ âm, từ ngữ, cú pháp và các tín hiệu để tạo nên một nội dung bổ sung mới ngoài đặc điểm tu từ vốn có của nó. (PGS_ TS Nguyễn Văn Nở) + Hiểu đơn giản nhất biện pháp tu từ là cách thức sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nhằm đạt tới hiệu quả diễn đạt hay, đẹp, biểu cảm, hấp dẫn. + Tuỳ theo các phương tiện ngôn ngữ được kêt hợp mà biện pháp tu từ chia ra: Biện pháp tu từ ngữ âm như điệp âm, điệp vần.. Biện pháp tu từ từ vựng ngữ nghĩa như so sánh, ẩn dụ, nói lái.. + Đặc điểm tu từ của các biện pháp tu từ Tiếng Việt được cấu tạo theo quan hệ liên tưởng. Ví dụ như đọc câu thơ có phép ẩn dụ, người tiếp cận phải dùng năng lực liên tưởng để qui chiếu giữa các yếu tố hiện diện trong câu thơ và hiện tượng tồn tai ngoài câu thơ. Như vậy thực chất của phép ẩn dụ chính là dùng tên gọi này để biểu hiên sự vật khác trên cơ chế tư duy và ngôn ngữ. + Đặc điểm chung của các biện pháp này là trong từng văn cảnh cụ thể , từ ngữ có hiện tượng chuyển đổi ý nghĩa lâm thời. tức là nghĩa của từ ngữ vốn biểu thị đối tượng này được tạm thời chuyển sang biểu thị đối tượng khác dựa 11 trên cơ sở của hai mối quan hệ liên tưởng: liên tưởng tương đồng và liên tưởng logic khách quan. Ví dụ như so sánh là đối chiếu sự vật này với sự vật khác dựa trên nét tương đồng. ẩn dụ là gọi tên sự vật này với sự vật khác dựa trên nét tương đồng, hoán dụ là gọi tên sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác dựa trên nét gần gũi( logic khách quan). Từ B hiểu sang A Ví dụ cụ thể khi khai thác so sánh Trẻ em như búp trên cành Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan Giáo viên cho học sinh xác định cấu trúc. Trẻ em như búp trên cành VA TSS VB. (?) Tại sao tác giả lại so sánh “Trẻ em” với “Búp trên cành”? -> Trẻ em và búp trên cành cũng là các sự vật đang ở giai đoạn đầu tiên của quá trình phát triển, trẻ em thì đó là giai đoạn đầu tiên của con người, búp non là giai đoạn đầu tiên ở cây cối -> Từ những đặc điểm về màu sắc, về trạng thái non tơ của “Búp trên cành” đã giúp người đọc liên tưởng tới đặc điểm tươi trẻ, tràn trề sức sống của trẻ em. -> thái độ trân trọng nâng niu trẻ em, yêu mến coi trọng thế hệ măng non, đồng thời thể hiện cách giáo dục trẻ em Cụ thể khi dạy về dấu câu và ý nghĩa đặc biệt của dấu câu + Dấu câu là một phương tiện ngữ pháp dung trong chữ viết. Tác dụng của nó là làm rõ trên mặt chữ viết một cấu tạo ngữ pháp, bằng cách chỉ ranh giới giữa các câu, giữa các thành phần của câu, giữa các vế của câu ghép. Nói chung nó thể hiện ngữ điệu trên câu văn, câu thơ. Cho nên, có trường hợp nó không phải chỉ là phương tiện ngữ pháp mà còn là phương tiện biểu thị sắc thái tế nhị về nghĩa của câu, về tư tưởng, về cả tình cảm, thái độ của người viết. Dấu câu dung thích hợp thì bài viết được người đọc hiểu rõ hơn, nhanh hơn. Không dùng dấu câu có thể gây hiểu lầm, mà dùng sai có thể gây hiểu sai cả ý nghĩa của câu + Khi dạy về dấu câu giáo viên cần cho học sinh nắm chắc các loại dấu, công dụng và chức năng của nó, thì khi vào đề thi học sinh có khả năng phân tích tác dụng của dấu câu trong đoạn văn tốt hơn Ví dụ cụ thể: Trong bài Mây và sóng (Targo), trước lời mời của những người trên mây và những người trong sóng, em bé đều trả lời: - “Mẹ mình đang đợi ở nhà”-“Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?” - “Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được?” 12 ? Nếu coi dấu câu cũng là một dấu hiệu nghệ thuật trong tác phẩm thì theo em giá tr ị nghệ thuật của dấu chấm hỏi trong đoạn ngữ liệu trên là gì? Giáo viên hướng dẫn học sinh trả lời: - Em bé hỏi có cần người trên mây và người trong sóng trả lời không? – Học sinh sẽ trả lời không - Vậy thì để làm gì? – Để thể hiện tình cảm của mình với mẹ Từ đó giáo viên định hướng đến giá trị nghệ thuật của dấu chấm hỏi trong phần ngữ liệu đã cho: - Hỏi nhưng để khẳng định và bộc lộ cảm xúc (Câu hỏi tu từ). - Qua đó thể hiện tình yêu thương mẹ, thấu hiểu mẹ và luôn muốn ở bên mẹ của em bé Dạng 5 Yêu cầu Trả lời những câu hỏi “Em hiểu như thế nào.. ?” Trả lời những câu hỏi “Em đồng tình hay không đồng tình.. ?” Trả lời những câu hỏi “Vì sao.. ?” Lỗi mắc -Học sinh không hiểu nghĩa - Học sinh không nắm được các bước để trả lời câu hỏi. - HS ngại đưa ra quan điểm của mình về vấn đề. - Hs chưa biết cách lí giải cho ý kiến của mình HS không lập luận và giải thích được Không bao quát được vấn đề, chưa có kĩ năng lập luận đưa ý kiến cá nhân Hướng trả lời - Cần cắt nghĩa được từ ngữ đó- dựa vào văn cảnh, dựa vào việc giải thích nghĩa từ, nội dung chính của văn bản - Đưa ra ý nghĩa của vấn đề - Khẳng định đồng tình hay không đồng tình - Giải thích rõ lí do để thể hiện quan điểm của mình - Yêu cầu học sinh phải lập luận và giải thích, phân tích rõ mặt phải -trái tốt xấu của vấn đề (cá nhân, gia đình, xã hội) Ví dụ như đề sau: Theo Báo Tiền phong số ra ngày 27/10/2020 có đoạn: “Tối ngày 25/10, VTV1 đã công chiếu chương trình đặc biệt “Mưa lũ lịch sử miền Trung” trong 80 phút, chương trình đã phản ánh chân thực nhất sự khốc 13 liệt của thiên tai, những mất mát đau thương không thể bù lấp được, và cả những hình ảnh đẹp nhất về tình người tình nghĩa đồng bào của nhân dân cả nước với khúc ruột miền Trung trong cơn mưa bão lịch sử. Lên sóng trực tiếp BTV Tuấn Dương- Mc của chương trình nói: “Chỉ có những ai ở vùng lũ, trải qua mưa lũ và hậu quả của nó mới thực sự ...”. Đến đây anh ngừng lại một hồi, nghẹn cúi mặt nuốt nước mắt: “Xin lỗi quí vị...”. Khoảnh khắc xúc động này chia sẻ lên nhiều trang tin, diễn đàn mạng thu hút sự quan tâm từ công chúng.” ? Theo em, vì sao BTV Tuấn Dương lại “ ngừng lại một hồi, nghẹn cúi mặt nuốt nước mắt” ? Giáo viên định hướng học sinh trả lời - Vấn đề mà chương trình đề cập đến là vấn đề gì? (Mưa lũ miền Trung) - Hành động trạng thái của anh “ngừng lại một hồi, nghẹn cúi mặt nuốt nước mắt” biểu hiện anh là người như thế nào? (Nỗi xúc động không kìm nén, nó thổn thức, tuôn trào tự nhiên- biểu hiện tình người, tình đồng bào thiêng liêng cao cả) Minh họa về dạy kĩ năng viết bài nghị luận xã hội rút ra qua đoạn ngữ liệu ngoài văn bản - Nhiều học sinh cứ ngỡ những vấn đề rút ra qua văn bản ngoài chương trình là khó là không viết được nhưng trên thực tế ngữ kiểu nào đi chăng nữa cũng bàn về vấn đề thực tế thiết thực và gần gũi với các em có thể là những sự việc, hiện tượng đời sống có tính thời sự (vứt rác bừa bãi, nghiện game) hoặc một số vấn đề tư tưởng, đạo lý (lòng yêu nước, truyền thống uống nước nhớ nguồn, tình bạn, đức tính trung thực). Từ đó quy định thành hai dạng bài tập nghị luận xã hội cơ bản: + Nghị luận về một sự việc, hiện tượng, đời sống. + Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý. Tuy nhiên, hai dạng bài này cũng có sự khác nhau cả về đối tượng nghị luận (nội dung) và cách thức bình luận (phương pháp). Nghị luận về một sự vật hiện tượng Nghị luận về một tư tưởng đạo lý Nội dung (đối tượng) - Lấy sự việc hiện tượng trong đời sống làm đối tượng. Từ sự việc hiện tượng cụ thể ấy mà bàn luận, đánh giá, nâng lên thành vấn đề tư tưởng, đạo lý - Lấy tư tưởng, đạo lý làm đối tượng chính. Từ một vấn đề tư tưởng đạo lý mà bàn luận, đánh giá, suy nghĩ về cuộc sống xã hội thực tế - Giới thiệu về sự việc hiện tượng. - Phân tích biểu hiện, nguyên nhân, bàn luận phải trái, - Giới thiệu về tư tưởng, đạo lý - Giải thích tư tưởng, đạo lý (bám sát từ ngữ, hình ảnh...) 14 Phương pháp (Cách thức bàn luận) đúng sai. - Rút ra bài học nhận thức, hành động. - Đánh giá khái quát về sự việc, hiện tượng. - Bàn luận, đánh giá, liên hệ tư tưởng, đạo lý ấy trong cuộc sống. - Rút ra bài học nhận thức, tình cảm, hành động. - Đánh giá khái quát về tư tưởng, đạo lý. Trong hai kiểu bài nghị luận xã hội nói trên có thể nói kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lý có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tác động, bồi đắp hình thành nhân cách cho học sinh. Nhất là trong tình hình thực tế ngày nay, khi mà học sinh ngày càng xa lạ, thậm chí là quay lưng, thờ ơ với những vấn đề thuộc về truyền thống văn hóa, đạo đức dân tộc; Cách học của học sinh nặng về lý thuyết mà xa rời thực hành, thiếu kỹ năng sống và ứng xử cần thiết thì các tác phẩm văn học truyền tải những thông điệp, bài học về một tư tưởng đạo lý nào đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng và thiết thực. Đặc biệt kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lý rút ra từ một tác phẩm văn học là một trong những cách giúp học sinh tiếp cận những vấn đề thiết thực nêu trên. Thực ra dạy kiểu bài này học sinh có rất nhiều vướng mắc, mỗi em vướng mỗi kiểu, có những học sinh yếu trong khâu dẫn chứng đưa dẫn chứng như kể, có những yếu khâu lập luận rời rạc và không mạch lạc...giáo viên cần định hướng cụ thể cho các em 3.3.4. Kết quả: - Học sinh làm quen nhiều với dạng câu hỏi này đã có thể: + Phân loại được các dạng câu hỏi + Đọc câu hỏi đưa về dạng quen thuộc dung kĩ năng để trả lời Câu hỏi nhận biết đã biết cách trả lời đúng trúng và đủ Câu hỏi cần học sinh bày tỏ suy nghĩ, những quan điểm sống thì trình bày một cách rõ ràng, cần trả lời theo hướng tích cực và có quan điểm riêng Qua nhiều lần làm bài học sinh có thể tránh được những lỗi sai có thể bị trừ điểm, ít nhất các em cũng có 2/3 trên tổng số điểm của câu đó, những câu dạng đọc hiểu ăn điểm tối đa. 4. Giải pháp 4: Rèn học sinh các bước làm bài. 3.4.1. Nội dung Khi nhận một đề thi học sinh cần có định hướng chung các bước làm bài, khi xác định đúng được các bước làm bài các em sẽ đi đúng trọng tâm câu hỏi mà đề đưa ra, làm bài điểm cao, không tốn công tốn sức 3.4.2. Cách tiến hành: Hướng dẫn học sinh theo từng bước sau Bước 1: Đọc kĩ văn bản và hệ thống câu hỏi cuối mỗi văn bản Bước 2: Gạch chân những từ khóa, những câu văn, những thong tin quan trọng lien quan đến những câu hỏi cuối văn bản 15 Bước 3: Huy động kiến thức nền, kết hợp với những nội dung thông tin trong văn bản, dự kiến trả lời câu hỏi Bước 4: Trong mỗi câu hỏi cần xác định rõ và tự trả lời nhanh những câu hỏi sau: Mục đích của câu hỏi? Nội dung câu hỏi đề cập những kiến thức cơ bản nào? Cần trả lời như nào cho phù hợp? Bước 5: Bám sát vào nội dung, yêu cầu câu hỏi để trả lời ngắn gọc đúng trúng và đủ, tránh lối viết chung chung không rõ ý Bước 6: Kiểm tra và sửa chữa- nếu có 3.4.3. Minh họa Minh họa về cách hướng dẫn học sinh một đề cụ thể với các dạng câu hỏi trên. Đề bài: Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: Người có tính khiêm tốn thường hay tự cho mình là kém, còn phải phấn đấu thêm, trau dồi thêm, cần được trao đổi, học hỏi nhiều thêm nữa. Người có tính khiêm tốn không bao giờ chịu chấp nhận sự thành công của cá nhân mình trong hoàn cảnh hiện tại, lúc nào cũng cho sự thành công của mình là tầm thường, không đáng kể, luôn luôn tìm cách để học hỏi thêm nữa. Tại sao con người lại phải khiêm tốn như thế? Đó là vì cuộc đời là một cuộc đấu tranh bất tận, mà tài nghệ của mỗi cá nhân tuy là quan trọng, nhưng thật ra chỉ là những giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao la. Sự hiểu biết của mỗi cá nhân không thể đem so sánh với mọi người cùng chung sống với mình. Vì thế, dù tài năng đến đâu cũng luôn luôn phải học thêm, học mãi mãi. Tóm lại, con người khiêm tốn là con người hoàn toàn biết mình, hiểu người, không tự mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công của cá nhân mình cũng như không bao giờ chấp nhận một ý
Tài liệu đính kèm: