Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học Ngữ văn Lớp 9

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học Ngữ văn Lớp 9

1.Lý do chọn đề tài

Trong cuộc sống hàng ngày, đối với mỗi người chúng ta, ai cũng có rất

nhiều điều cần ghi nhớ và suy nghĩ. Bất kể 1 hình ảnh nào bạn vô tình nhìn thấy

hoặc một âm thanh, một giọng hát nào đó bạn nghe thấy, chúng đều được não bộ

của ta ghi nhận và lưu trữ trong đó. Ngày qua ngày, khi chúng ta ngày càng tiếp

thu thật nhiều thông tin thì não của chúng ta sẽ trở nên một mớ hỗn độn. Dần

dần, những thông tin mới ghi nhận hoặc những thông tin có ấn tượng đặc biệt

với chúng ta sẽ lấn át những thông tin mờ nhạt, khiến chúng ta thường xuyên

xảy ra tình trạng nhìn một người hay một vật nào đó rất quen mà không thể nhớ

ra được. Và vô số nguồn tài liệu học tập, nghiên cứu như: sách, tạp chí, báo,

internet, rất phong phú. Thêm vào đó là sự phát triển mạnh mẽ của ngành công

nghệ thông tin, chúng ta hàng ngày đang tiếp xúc với nguồn kiến thức mênh

mông của thế giới trong mọi lĩnh vực. Để có thể thu nhận kiến thức khổng lồ đó

một cách dễ nhất, chính xác nhất, đòi hỏi phải có một phương pháp tư duy khoa

học.

Các em học sinh cũng vậy, mỗi ngày, các em đều phải đối mặt với vô số

lượng kiến thức mới từ toán, lý, hóa, đến các môn học thuộc như lịch sử, địa

lý,ngữ văn . Làm sao để có thể ghi nhớ toàn bộ kiến thức một cách rõ ràng,

chuẩn xác mà không tốn quá nhiều thời gian cho việc ngồi học thuộc từng câu,

từng chữ nhưng lại có thể khái quát được toàn bộ kiến thức và ghi nhớ lâu? Đó

là vấn đề đặt ra cho những người làm công tác dạy học. Trong công tác dạy học

nói chung và dạy học ngữ văn nói riêng, ngoài vấn đề truyền đạt kiến thức cho

học sinh, giáo viên cần hướng học sinh đến một phương pháp học tập tích cực

và chủ động để lĩnh hội tri thức, giáo viên cũng cần có phương pháp nghiên cứu

để luôn cập nhật kịp thời tri thức của thế giới. Với “biển thông tin” như thế, để

tiếp cận tốt cần có phương pháp giúp hệ thống lại những kiến thức đó. Việc xây

dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức, sẽ mang lại

những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy,

óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo

pdf 22 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 05/03/2022 Lượt xem 1182Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học Ngữ văn Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, việc lập Sơ đồ tư duy phát huy tối đa 
khả năng sáng tạo của mỗi người. 
1.2 . Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học ngữ văn và những tiện ích của 
nó. 
* Có thể nói rằng đổi mới phương pháp dạy học( PPDH), phát huy tính 
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; xem đây là một nhiệm vụ vừa bức 
thiết lại vừa trọng tâm xuyên suốt cả quá trình đổi mới. Đặc biệt với bộ môn ngữ 
văn, là môn học giúp học sinh hoàn thiện nhân cách về cách ứng nhân xử thế, 
xúc cảm với cuộc đời và hơn hết là vai trò “sưởi ấm trái tim” và làm cho mỗi 
con người trên mảnh đất hình chữ S này càng xích lại gần nhau, sống vì nhau 
với tình cảm yêu thương nhất. Do đó, môn Văn cũng bắt nhịp với thời cuộc 
trong sự nghiệp đổi mới chung về các phương pháp dạy học tích cực; một biểu 
hiện cụ thể đó là: Sử dụng Sơ đồ tư duy (SĐTD) trong dạy học Ngữ văn . SĐTD 
kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu, sơ đồ nhưng ở mức độ 
cao hơn. Nó giúp học sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc 
tưởng tượng và khả năng sáng tạo... Có thể khẳng định rằng phương pháp dạy 
học bằng SĐTD là một trong những phương pháp dạy học mang lại hiệu quả 
cao trong quá trình dạy học hiện nay. 
Ngày nay với xu hướng dạy học lấy học sinh là trung tâm việc sử dụng Sơ 
đồ tư duy là công cụ lý tưởng cho việc dạy học và trình bày các khái niệm trong 
lớp học. Sơ đồ tư duy giúp giáo viên tập trung vào vấn đề cần trao đổi cho học 
Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học 
ngữ văn lớp 9” 
7/18 
sinh, cung cấp một cái nhìn tổng quan về chủ đề mà không có thông tin thừa. 
Học sinh cũng được tiếp nhận tin một cách tổng quan và chính xác nhất phát huy 
khả năng nghe, nói, đọc, viết, chống chép văn mẫu rập khuôn, máy móc, không 
có tính sáng tạo, khuyến khích những suy nghĩ chân thực, cách trình bày sáng 
tạo của người học vì vậy mà hiệu quả của giờ dạy sẽ được tăng lên. 
*. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ Văn: 
 Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu 
quả, biết liên hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn. Bởi 
vậy, rèn luyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD 
trong quá trình dạy học sẽ giúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát 
huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. 
 SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu 
của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in 
đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. 
Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây 
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai 
thực hiện. 
 Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ 
đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, 
phấn màu, tẩyhoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm SĐTD (Mind Map). 
Tóm lại, việc sử dụng SĐTD sẽ giúp HS: 
1. Tăng sự hứng thú trong học tập. 
2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy, ngôn ngữ của các em. 
3. Tiết kiệm rất nhiều thời gian. 
4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể. 
5. Ghi nhớ tốt hơn. 
6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em. 
2. Cơ sở thực tiễn 
- Đối với môn Ngữ Văn THCS( gồm 3 phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm 
văn) thì bản đồ tư duy giúp người dạy, người học xử lý tốt các văn bản tự sự, 
nghị luận, các bài Tiếng Việt, tổng kết chương... Bản đồ tư duy giúp cho các bài 
văn trở lên khoa học, mạch lạc, dễ nhớ, dễ thuộc, các bài học trong phân môn 
Tiếng Việt, Tập làm văn 
mang tính khái quát, hệ thống, khoa học, logic... 
Trong quá trình dạy Ngữ văn, nếu giáo viên (GV) xây dựng và sử dụng sơ 
đồ tư duy một cách hợp lý và sáng tạo các bài dạy học; tổ chức cho HS tham gia 
Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học 
ngữ văn lớp 9” 
8/18 
các hoạt động học tập tích cực và hứng thú hơn để các em tự chiếm lĩnh kiến 
thức cho bản thân; giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức, xác định được kiến 
thức cơ bản từ đó vận dụng kiến thức để giải quyết các bài tập và các tình huống 
trong cuộc sống... Mặt khác sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy còn giúp học 
sinh rèn luyện, phát triển tư duy logic, khả năng tự học, phát huy tính tích cực và 
sáng tạo của học sinh không chỉ trong học tập môn Ngữ văn mà còn trong các 
môn học khác và các vấn đề khác trong cuộc sống. 
Đó là cách “làm mới” nhẹ nhàng mà hiệu quả. Dạy học bằng SĐTD giúp 
học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu và nhớ chính xác 
những nội dung bài học. Phương pháp này đặc biệt có ích trong việc củng cố 
kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy lôgíc cho HS. Với chủ trương giảm tải 
được thực hiện trong những năm gần đây thì phương pháp SĐTD rất hiệu quả vì 
cô và trò không bị mất thời gian vào các chi tiết vụn vặn và trùng lặp mà tập 
trung thảo luận sâu và phát triển vấn đề cốt lõi của bài. đã tạo cho các em cơ hội 
trình bày bài theo cách hiểu của mình, rèn luyện kỹ năng làm việc theo nhóm và 
trình bày trước đám đông. 
Coi nó như một thiết bị dạy học hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học: sử 
dụng SĐTD trong dạy học kiến thức mới giúp HS học tập một cách chủ động, 
tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. 
Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của 
HS và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh HS khi chứng kiến 
thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được 
năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên SĐTD), hệ 
thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để 
ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), 
sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. 
Bước đầu cho phép kết luận: Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần 
hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách 
nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các 
phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, có tính 
khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, trong tấc cả các môn học đặc biệt là môn 
ngữ văn cấp THCS. 
Trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, giáo viên có thể 
vận dụng nhiều loại hình phương pháp khác nhau. Trong đó, xây dựng và sử 
dụng bản đồ tư duy là một trong những phương pháp hữu hiệu mang lại thành 
công cho thày và trò qua mỗi bài học 
Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học 
ngữ văn lớp 9” 
9/18 
II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC 
MÔN NGỮ VĂN LỚP 9 TRONG TRƯỜNG THCS 
1. Thực trạng dạy và học Ngữ Văn lớp 9 trong nhà trường phổ thông. 
 Đối với môn Ngữ văn lớp 9, thời lượng là 5 tiết/tuần. Trong đó thường 
dành 2 tiết cho dạy học văn bản, 1 tiết tiếng việt và 2 tiết tập làm văn. Thực tế 
dạy học nhiều năm, tôi nhận thấy: với một giáo viên có chuyên môn sâu thì giờ 
dạy học văn sẽ rất lí thú, học sinh rất thích lắng nghe. Nhưng một điều trở ngại 
lớn đối với học sinh là : phải học lý thuyết dài, viết dài, nhiều em ghi chép mà 
không hiểu nội dung...Tâm lí chung của học sinh là ngại học văn, ghi chép bài, 
viết bài làm văn... 
Trong các tiết ôn tập cũng vậy. Trước đây, các tiết ôn tập tiếng việt hay 
ôn tập phần văn bản một số GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, và 
cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV hoặc của tài liệu, chứ 
không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu 
đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Đặc biệt trong những giờ ôn 
luyện ngữ văn ôn thi vào lớp 10, hầu hết các em phải ghi chép nhiều mà không 
thể thuộc từng câu chữ, đó cũng gây tâm lí chán nản trong giờ học Ngữ văn. 
Thực tế cho thấy có rất nhiều em học sinh học môn văn bằng nhiều cách 
như học thuộc lòng, học vẹt, học một cách máy móc không nắm được kiến thức 
trọng tâm và không nắm được sự kiện nổi bật trong tài liệu, từ đó không biết liên 
tưởng các kiến thức với nhau. Với nhiều em học tập rất chăm chỉ nhưng thành 
tích vẫn không tiến bộ, gây nên tâm lí chán nản, mệt mỏi dễ bỏ cuộc. Mặt khác, 
một số học sinh có phương pháp học không đúng đắn, khi nghe giảng trên lớp 
không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ 
của mình. Bởi vậy cần phải rèn luyện được thói quen sử dụng sơ đồ tư duy trong 
quá trình học tập để giúp các em có tính độc lập, sáng tạo, phát triển tư duy một 
cách sâu sắc. 
Về phía giáo viên, qua dự giờ thăm lớp trong tổ nhóm chuyên môn, tôi 
nhận thấy một số thầy cô đã đưa bản đồ tư duy vào việc dạy học Ngữ Văn . 
Song chưa có hiệu quả, chưa gây được hứng thú cho học sinh vì phương pháp 
còn mang tính áp đặt, khuôn mẫu, hình thức còn đơn điệu, chưa có tính thẩm mĩ, 
chưa linh hoạt, sáng tạo. Chính điều đó là một trong những yếu tố làm cho giờ 
học không thành công. 
Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học 
ngữ văn lớp 9” 
10/18 
2. Khảo sát thực trạng học sinh trước khi thực hiện đề tài 
* Về mức độ hiểu và thuộc bài ngay trên lớp 
- 21% số học sinh hiểu và thuộc bài ngay trên lớp. 
- 79 % HS còn mơ hồ, chưa hiểu thực sự, chưa nhớ sâu ( vì mải ghi chép nên 
không nghe giảng được) 
* Về mức độ hứng thú trong giờ học ngữ văn: 
- 12% số học sinh hứng thú 
- Số còn lại cảm thấy nhàm chán 
* Khi được hỏi nguyên nhân vì sao các em không hứng thú với môn văn, học 
sinh đều trả lời: 
- Do phải học dài, ghi chép dài, học cảm thấy buồn ngủ. 
- Số học sinh có hứng thú cơ bản là những em có năng khiếu môn văn 
- Số còn lại phải học là do thi cử, môn văn còn là môn nhân hệ số 2 khi thi vào 
lớp10 
 Kết luận: 
Ngữ văn là môn học mang tính nghệ thuật – nghệ thuật ngôn từ , vốn rất trừu 
tượng, giàu tính triết lí. Song không vì thế mà chúng ta chỉ tập trung truyền tải 
kiến thức cho học sinh mà quên mất việc dạy các em cách học sao cho hiệu quả. 
Việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học môn 
Ngữ văn nói riêng hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ 
dạy. “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của 
học sinh; phù hợp với từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, 
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem 
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đó chính là định hướng cho tất cả 
GV trong nghề dạy học . Phương pháp dạy học, kiểm tra theo định hướng phát 
triển năng lực đòi hỏi người học phải phát huy được năng lực vốn có của mình: 
năng lực ngôn ngữ, năng lực sáng tạo tư duy lô gic, không được áp đặt một 
cách máy móc, chủ quan, không kiểm tra theo kiểu học vẹt, học thuộc từng câu 
chữ. Do đó theo tôi áp dụng phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy thực sự 
mang lại hiệu quả,phù hợp với định hướng dạy học phát triển năng lực hiện nay. 
Song áp dụng như thế nào để không mất đi tính đặc trưng của bộ môn văn và 
mang lại hiệu quả cao nhất, tôi xin được trình bày cụ thể 
Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học 
ngữ văn lớp 9” 
11/18 
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỤ THỂ ĐỂ DẠY HỌC NGỮ VĂN SỬ 
DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY ĐẠT HIỆU QUẢ. 
1. Trước hết giáo viên phải là người hiểu rõ vai trò của sơ đồ tư duy 
trong đổi mới phương pháp dạy học. 
 Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép, sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở 
rộng và đào sâu các ý tưởng. SĐTD- một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có 
thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình hoạ giữa sự kết hợp giữa các từ ngữ, hình 
ảnh, màu sắc, đường nét phù hợp với cấu trúc hoạt động và chức năng của bộ 
não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. 
 Cơ chế hoạt động của bản đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với 
các mạng lưới liên tưởng ( Các nhánh)- SĐTD là công cụ đồ hoạ nối các hình 
ảnh có liên hệ với nhau, vì vậy có thể sử dụng SĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến 
thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hoá kiến thức sau 
mỗi chươnglà điều rất cần thiết 
 SĐTD giúp học sinh học được phương pháp học tập chủ động, tích cực, 
huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc HS vẽ SĐTD có ưu điểm là phát 
huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc ( xanh, 
đỏ, tím, vàng), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong..), các em tự “ sáng tác” nên 
trên mỗi SĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh 
và SĐTD do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác phẩm” 
của mình. 
 SĐTD giúp HS ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm của SĐTD nên người 
thiết kế SĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin 
cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng SĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành 
cách ghi chép hiệu quả. 
2. Sử dụng SĐTD để hỗ trợ trong quá trình dạy học: 
Trong quá trình dạy học, tôi sử dụng phương tiện này để hỗ trợ dạy học 
kiến thức mới, củng cố kiến thức sau giờ học, hệ thống hóa kiến thức trong các 
tiết ôn tập, luyện thi 
2-1. Dùng SĐTD để dạy bài mới: 
Trong dạy học văn, hình thành được ý tưởng là một vấn đề cực kì quan 
trong. Bởi bên cạnh việc nắm rõ các kiến thức cơ bản thì các ý tưởng sáng tạo 
luôn tạo nên chiều sâu và điểm độc đáo trong từng văn bản. 
Nếu như trong quá trình học tập trên lớp, giáo viên đưa ra một ý tưởng 
trung tâm hay còn gọi là từ khóa, học sinh dùng màu sắc, đường nét kết hợp với 
hình ảnh để phát triển thành những bản đồ tư duy khác nhau để thể hiện và đào 
Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học 
ngữ văn lớp 9” 
12/18 
sâu ý tưởng, tự mình chiếm lĩnh tri thức bằng hoạt động tích cực của bản thân. 
Các em sẽ không ngừng tư duy, không ngừng hoạt động để biến những yếu tố 
vô hình trong tác phẩm thành những hình ảnh sinh động để có thể tri giác được. 
Bởi vậy sử dụng bản đồ tư duy trong quá tình dạy học bài mới sẽ giúp các em có 
thể mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức. 
Việc sử dụng Sơ đồ tư duy cho dạy bài mới ít được giáo viên áp dụng. 
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy, sơ đồ tư duy chính là một phương tiện, 
một công cụ hỗ trợ rất đắc lực trong quá trình dạy- học. Việc kết hợp Sơ đồ tư 
duy trong quá trình ghi bảng, dạy học là vô cùng thuận lợi, đặc biệt với những 
bài khái quát tác giả, những tác phẩm dài, nhiều tình tiết, nhiều nhân vật và sự 
kiện. Việc sử dụng Sơ đồ tư duy cho cả bài dạy, hoặc cho một phần ( một nội 
dung) nào đó sẽ tạo nên một “gia vị” mới, tăng sức hấp dẫn của bài học, tạo 
hứng thú, khơi gợi trí tưởng tượng, sáng tạo của học sinh. Và cũng vì vậy mà 
các em sẽ có cách ghi bài khác lại, ghi bài bằng Sơ đồ tư duy. 
 GV có thể sử dụng bản đồ tư duy cho cả tiết học ( nếu thấy cần thiết) hoặc 
có thể sử dụng cho phần ( nội dung) trọng tâm của bài 
Ví dụ: Khi dạy bài “ Bàn về đọc sách” tiết 91,92 Ngữ văn 9- tập 2,Tôi 
xác định trọng tâm của bài là phần 3: Những phương pháp đọc sách đúng. Do đó 
tôi chỉ sử dụng sơ đồ tư duy khi học phần này. Khi dạy mục 1, 2 tương ứng với 
các nội dung: Vai trò, ý nghĩa của việc đọc sách và những khó khăn của việc đọc 
sách ngày nay, tôi vẫn ghi bảng theo cách truyền thông, đến mục 3 tôi ghi bảng 
bằng sơ đồ tư duy. Bắt đầu từ khóa “ Phương pháp đọc sách” ( hình ảnh ở trung 
tâm), bằng hệ thống câu hỏi, tôi gợi mở để HS phát hiện các đơn vị kiến thức 
tương ứng với các nhánh chính ( gồm 2 nhánh chính): phương pháp chọn sách; 
phương pháp đọc sách. Từ 2 nhánh chính này, tôi tiếp tục dẫn dắt HS để phát 
triển thêm các nhánh phụ: đó là các đơn vị kiến thức làm nổi bật từ khóa đã nêu 
ở nhánh chính. 
( Ảnh minh họa 1) 
Như vậy kết thúc bài học, tôi đã có sơ đồ tư duy trên bảng một cách khoa 
học, ngắn gọn rõ ràng và rất “ bắt mắt” bởi màu sắc và các đường cong. HS có 
thể tự “vẽ” vào vở của mình theo cách riêng hoặc ghi theo ý hiểu của các em. 
2-2. Dùng SĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học . 
Trong phương pháp dạy học tích cực, hoạt động ứng dụng- bổ sung là 
thao tác cuối cùng sau khi tìm hiểu xong toàn bộ nội dung của tác phẩm. Tuy là 
phần việc cuối cùng chiếm khối lượng thời gian ít ỏi nhưng có vai trò quan 
trọng, cũng là một phần tạo nên sự hoàn thiện của một giờ lên lớp. 
Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học 
ngữ văn lớp 9” 
13/18 
Trong hoạt động này, giáo viên thường yêu cầu học sinh “củng cố” lại nội 
dung bài học nhằm khắc sâu kiến thức, để từ đó giáo viên chủ động cung cấp 
thêm thông tin, tư liệu để mở rộng kiến thức, hướng dẫn học sinh liên hệ, so 
sánh... giúp học sinh hiểu được bản chất, sâu sắc bài học. Có nhiều cách khác 
nhau để tổ chức hoạt động này cho phù hợp với đặc trưng kiểu bài, song củng 
cố, khắc sâu kiến thức một cách hệ thống nhất cho học sinh, tôi thường sử dụng 
Sơ đồ tư duy. 
Tôi yêu cầu học sinh hình dung lại, nhớ lại tiến trình bài dạy, kiến thức các em 
vừa được tiếp nhận. Từ đó, các em sẽ tự tạo lập một Sơ đồ tư duy cho mình hoặc 
cùng với nhóm mình tạo lập một Sơ đồ tư duy khái quát bài học ( trên giấy trắng 
khổ to hoặc trực tiếp trên bảng) . 
Ví dụ: Sau khi tôi dạy xong bài: Chiếc lược ngà- Tiết 72,73 Ngữ văn 9 
tập 1. Tôi chia lớp thành 2 nhóm, yêu cầu học sinh hệ thống khái quát lại nội 
dung trọng tâm bài học bằng sơ đồ tư duy trong thời gian 3 phút. Nhóm 1 khái 
quát về nhân vật bé Thu, nhóm 2 khái quát về nhân vật ông Sáu. ( Ảnh minh 
họa 2)) 
Có thể nói: Sử dụng Sơ đồ tư duy trong thời gian này sẽ phát huy được ở 
học sinh: khả năng ghi nhớ, khả năng tổng hợp, khả năng hệ thống hóa kiến 
thức, khả năng sáng tạoKết thúc bài giảng, thay vì phải ghi chép theo cách 
truyền thống, học sinh có thể tự “vẽ” bài học theo cách hiểu của mình với nhiều 
màu sắc và hình ảnh khác nhau. Đến tiết học sau, chỉ cần nhìn vào sơ đồ, các em 
có thể nhớ được những phần trọng tâm của bài học. 
2.3 Dùng SĐTD để củng cố kiến thức trong các bài ôn tập, đặc biệt là 
ôn luyện để thi vào lớp 10 THPT. 
Bài ôn tập, luyện tập, tổng kết giúp HS tái hiện lại các kiến thức đã học, 
hệ thống hóa các kiến thức được nghiên cứu rời rạc, tản mạn qua một số 
chương, bài hoặc một phần thành một hệ thống kiến thức có quan hệ chặt chẽ 
với nhau theo logic xác định. Từ các hệ thống kiến thức đó giúp HS tìm ra được 
những kiến thức cơ bản nhất và các mối liên hệ bản chất giữa các kiến thức đã 
thu nhận được để ghi nhớ và vận dụng chúng trong việc giải quyết các vấn đề 
học tập 
Cấu trúc các bài ôn tập, luyện tập, tổng kết trong sách giáo khoa đều có 
hai phần: kiến thức cần nắm vững và bài tập. Phần kiến thức cần nắm vững đã 
được tóm tắt trong SGK. Do đó khi dạy học các bài luyện tập, GV có thể yêu 
cầu từng HS (hoặc từng nhóm HS) tự lập SĐTD nội dung kiến thức cần nắm 
vững trước khi lên lớp. Sau đó trong giờ học, GV có thể thu một số SĐTD của 
Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học 
ngữ văn lớp 9” 
14/18 
một số HS để kiểm tra, hoặc có thể yêu cầu một nhóm đại diện trình bày SĐTD 
của nhóm mình. Với cách này sẽ rèn luyện cho HS khả năng tự học, tự tổng kết 
và hệ thống hóa kiến thức, đồng thời HS sẽ có nhiều thời gian để vận dụng kiến 
thức trong giờ luyện tập, giúp HS ghi nhớ tốt hơn và hiểu bài sâu hơn 
Ví dụ: Khi dạy bài Ôn tập về truyện Tiết 153 Ngữ văn 9 tập 2. Tôi yêu 
cầu học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà hệ thống kiến thức bằng sơ đồ tư duy về 
các nội dung sau: giai đoạn sáng tác, tên tác giả, tác phẩm, nội dung và nghệ 
thuật chính. Sau đó các nhóm trình bày sự chuẩn bị của mình trên lớp ( Ảnh 
minh họa 3) 
Trong việc ôn luyện thi vào lớp 10 môn văn: với hệ thống các văn bản 
trong SGK kết hợp với khối lượng kiến thức kĩ năng đồ sộ, một số em học sinh 
khi nhìn thấy lượng kiến thức nhiều thì rất sợ và không biết bắt đầu học từ đâu. 
Có rất nhiều em đã từng áp dụng rất nhiều phương pháp để n

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_su.pdf