Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt Lớp Một

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt Lớp Một

1.2. Điểm mới của sáng kiến

Thông qua sáng kiến kinh nghiệm này nhằm:

Hình thành và phát triển kinh nghiệm thêm cho giáo viên.

Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc,

trong đời sống, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh.

Thông qua việc dạy và học rèn luyện các thao tác tư duy, từ đó giúp học

sinh tự chiếm lĩnh kiến thức. Tự tin trong ứng xử, tự giác trong mọi hoạt động.

Khơi dậy trong các em niềm yêu thích học tập.

Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.

1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến

Sáng kiến Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học môn

Tiếng Việt lớp Một được áp dụng cho tất cả giáo viên lớp Một. Giúp giáo viên

có thêm nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, từ đó học sinh biết cách tự học, tạo

động lực trong học tập, phát triển năng lực, phát huy tính tích cực, chủ động

sáng tạo qua cách thức tổ chức học tập, cho học sinh trao đổi và nhận xét kết quả

học tập của nhau.

pdf 15 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 04/03/2022 Lượt xem 1069Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt Lớp Một", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, 
trong đời sống, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh. 
 Thông qua việc dạy và học rèn luyện các thao tác tư duy, từ đó giúp học 
sinh tự chiếm lĩnh kiến thức. Tự tin trong ứng xử, tự giác trong mọi hoạt động. 
Khơi dậy trong các em niềm yêu thích học tập. 
 Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. 
 1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến 
Sáng kiến Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học môn 
Tiếng Việt lớp Một được áp dụng cho tất cả giáo viên lớp Một. Giúp giáo viên 
có thêm nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, từ đó học sinh biết cách tự học, tạo 
động lực trong học tập, phát triển năng lực, phát huy tính tích cực, chủ động 
sáng tạo qua cách thức tổ chức học tập, cho học sinh trao đổi và nhận xét kết quả 
học tập của nhau. 
 3
2. PHẦN NỘI DUNG 
 2.1. Thực trạng của việc Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy 
học môn Tiếng Việt lớp Một 
Như chúng ta đều biết tất cả những kinh nghiệm của đời sống, những 
thành tựu văn hóa khoa học, những tư tưởng tình cảm của thế hệ trước và của cả 
những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết 
đọc con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống 
một cuộc sống bình thường có hạnh phúc đúng nghĩa của từ này trong xã hội 
hiện đại. 
Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần. Từ đây, họ 
biết tìm hiểu đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư 
duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ 
bản, giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư 
tưởng tình cảm của người khác. 
Đặc biệt, khi đọc các tác phẩm về văn chương con người không chỉ thức 
tỉnh về nhận thức mà còn rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ cao đẹp, 
được khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi 
dưỡng tâm hồn. Không biết đọc con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự 
giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được một nhân cách toàn 
diện . 
Như chúng ta đều biết tất cả những kinh nghiệm của đời sống, những 
thành tựu văn hóa khoa học, những tư tưởng tình cảm của thế hệ trước và của cả 
những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết 
đọc con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống 
một cuộc sống bình thường có hạnh phúc đúng nghĩa của từ này trong xã hội 
hiện đại. 
Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần. Từ đây, họ 
biết tìm hiểu đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư 
duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ 
 4
bản, giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư 
tưởng tình cảm của người khác. Trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết đọc 
càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng nguồn thông tin. Đọc chính là 
học, học nữa, học mãi. Đọc để tự học, học cả đời. Vì vậy, dạy đọc, viết có ý 
nghĩa rất quan trọng. 
Đặc biệt, khi đọc các tác phẩm về văn chương con người không chỉ thức 
tỉnh về nhận thức mà còn rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ cao đẹp, 
được khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi 
dưỡng tâm hồn. Không biết đọc con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự 
giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được một nhân cách toàn 
diện. 
a) Thuận lợi: 
 Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa và đồ dùng thực hành Tiếng Việt. 
Phòng học thoáng mát, đủ điều kiện học cả hai mùa đông hè. Bàn ghế đầy đủ. 
Ban lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm giúp đỡ mỗi khi tôi gặp khó khăn. 
Bên cạnh đó được sự quan tâm giúp đỡ của địa phương, các cấp lãnh đạo. 
b) Khó khăn : 
Bản thân tôi không phải là giáo viên địa phương nên khó khăn trong việc 
gặp gỡ trao đổi với phụ huynh nắm bắt từng hoàn cảnh của các em để quan tâm 
kịp thời. 
Đối tượng học sinh của tôi ở đây là học sinh lớp 1. Ở lứa tuổi này khả 
năng tập trung chú ý của trẻ, tư duy chưa phát triển nên việc bồi dưỡng tiếng 
Việt cho các em ở giai đoạn này rất khó khăn. Để giải quyết khó khăn ban đầu 
đấy thì trong hoạt động dạy học của mình, tôi đã sử dụng một số biện pháp để 
giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt 
Trường thuộc địa bàn dân cư đa số làm ruộng có thu nhập chưa cao, còn 
có nhiều học sinh thuộc diện cận nghèo. Phụ huynh lo làm ăn kiếm sống từng 
ngày. Phụ huynh còn chưa quan tâm đúng mức đến việc tự học của con em, 
chưa nhận thấy tầm quan trọng của việc rèn luyện ý thức tự học cho con em 
 5
mình. Ít đôn đốc con em học tập ở nhà, phần lớn tất cả trách nhiệm tập trung ở 
giáo viên chủ nhiệm. 
 Điều kiện cuộc sống gia đình học sinh đang còn khó khăn, một số gia đình 
đông con nên phụ huynh chưa tập trung cao vào việc học tập của các em. 
 Một số học sinh có bố mẹ ly hôn, một số học sinh mất bố hoặc mẹ, một số 
học sinh bố mẹ đi làm ăn xa phải sống với ông bà. 
 Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng thiếu tập trung trong học tập ở lớp 
tôi phụ trách là học sinh lớp Một do mới ở bậc mầm non lên còn nhiều bỡ ngỡ, 
lứa tuổi còn nhỏ, tư duy độc lập còn hạn chế nên khả năng tự học chưa cao và 
chưa bền vững. 
Qua quá trình dạy học tôi nhận thấy chất lượng dạy học môn Tiếng Việt 
của lớp Một đạt hiệu quả chưa cao có rất nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên 
nhân chủ yếu mà một số học sinh lớp Một đến cuối năm đọc, viết vẫn còn chậm 
tập trung vào những nguyên nhân sau đây: 
* Đối với học sinh: Bị bệnh lý bẩm sinh, học hay quên; lười học; do hoàn 
cảnh gia đình. 
* Đối với phụ huynh: Một số gia đình phụ huynh chưa thực sự quan tâm 
đến con em mình, phó mặc khoán trắng cho giáo viên. 
 Học sinh lớp Một khi mới vào trường tiểu học các em còn rất bỡ ngỡ và 
mọi thứ còn rất mới lạ, trong thời gian đầu các em được học những gì và được 
dạy gì phụ thuộc phần lớn vào thầy cô ở trường nên để dạy cho các em học các 
môn học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng có hiệu quả ngay từ năm đầu 
cấp đòi hỏi người giáo viên phải luôn tìm hiểu và nghiên cứu những phương 
pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, hiểu được hoàn cảnh của 
học sinh, hiểu được tâm lý các em và đòi hỏi phải có sự nhiệt tình tâm huyết của 
người thầy. 
c) Kết quả thực hiện khảo sát đánh giá năng môn Tiếng Việt đầu năm 
học 2020 – 2021 
 6
Chính vì những lý do đó mà ngay từ đầu nhận lớp tôi đã phân loại đối tượng 
học sinh như sau : 
Môn Tổng số 
học sinh 
Hoàn thành tốt Hoàn thành Cần cố gắng 
SL % SL % SL % 
Tiếng Việt 29 8 27,6 14 48,3 7 24,1 
Từ những số liệu cụ thể tôi chủ động đưa ra các giải pháp và tiến hành 
ngay để làm sao nâng dần chất lượng dạy môn Tiếng Việt cho các em học sinh. 
2.2. Một số biện pháp Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy 
học môn Tiếng Việt lớp Một 
 2.2.1. Vận dụng linh hoạt phương pháp dạy phù hợp với từng đối 
tượng học sinh; giáo viên cần nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ học sinh. 
a) Phương pháp dạy học theo nhóm đối tượng: 
Tôi phân loại học sinh trong lớp thành những nhóm đối tượng 4 mức theo 
Thông tư 27 như sau: 
 Nhóm 1: Gồm những học sinh giỏi 
 Nhóm 2: Gồm những học sinh khá 
 Nhóm 3: Gồm những học sinh trung bình 
 Nhóm 4: Gồm những học sinh chậm, yếu 
Giáo viên có thể thay tên nhóm 1,2,3,4 thành tên khác như nhóm A, B, C, 
DTrong quá trình dạy t«i vẫn phải lấy chuẩn để làm thước đo nhưng ở các tiết 
ôn tập, các giờ ôn của buổi chiều tôi luôn yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ 
với 4 mức khác nhau trong cùng một giờ học. 
Ví dụ: Nhóm 4 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 1 và 2. 
Các dạng bài đọc và viết về vần đều có thể vận dụng phương pháp này. Chẳng 
hạn bài 8C vần en, ên, un các em chỉ cần viết en, ên, un, dế mèn, con sên, con 
giun, mỗi vần, mỗi từ chỉ một dòng, trong khi đó các em ở nhóm 1, 2 viết nhiều 
 7
hơn mỗi loại như trên từ 2 đến 3 dòng. Các em ở nhóm 2 chỉ cần viết theo yêu 
cầu chuẩn. 
b) Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh, vật 
thật.cho học sinh học chậm 
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khả năng tư duy trừu 
tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mô hình vật thật, tranh ảnh, do 
vậy trong các giờ học việc giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là không thể 
thiếu kể cả đồ dùng do giáo viên tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện chuyển 
tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kỹ 
năng thực hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh 
từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh 
học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ không sợ học mà chỉ sợ những tiết học 
đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy học có tác dụng rất lớn trong quá trình 
dạy môn Tiếng Việt cho học sinh, nhất là các em học sinh học chậm. 
Ví dụ: Ở những bài học về âm. Chẳng hạn như Bài 3B trang 32 Sách giáo 
khoa Tiếng Việt 1 Tập 1: Quan sát tranh để hỏi đáp về các loại quả và tìm ra từ 
khoá sau khi các em đã nhận diện âm n và nh ở phần đầu tiết học nhưng tôi đã 
thay thế tranh bằng vật thật. Từ những hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và 
nhớ chính xác hơn các vần và các từ được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật 
thật đến vần của bài học. 
Vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt giúp học sinh nhớ 
vần và từ tốt hơn. 
Ngoài ra dùng tranh, ảnh có vai trò rất lớn trong phần luyện nói ở các tiết 
học vần môn Tiếng Việt lớp 1 – Học kì I. 
Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng khéo léo 
tranh, ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh khá giỏi lại 
vừa tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên cho học sinh học chậm. 
c) Người giáo viên cần có lòng nhiệt tình, luôn quan tâm giúp đỡ học 
sinh 
 8
Là giáo viên lớp Một nên tôi luôn hiểu rằng các em học sinh lớp Một mới 
từ mẫu giáo chuyển lên nên việc tiếp thu kiến thức thông qua hình thức: “Học 
mà chơi, chơi mà học”. Vì vậy tôi luôn nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em, tạo 
không khí thoải mái, vui vẻ trong giờ học, lời nhận xét và những câu động viên 
giúp các em thấy tự tin và phấn khởi, sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần thiết, 
tránh quát mắng các em khi các em làm sai hay chưa làm được. Đặc biệt không 
được ngồi một chỗ bảo các em đọc đi, viết đi mà giáo viên phải đi xuống bên 
học sinh xem em nào đã làm được còn em nào làm chưa được nhắc nhở các em, 
chỉ cụ thể cho các em nhất là với các em học chậm cần nhắc lại hay cầm tay các 
em để các em viết cho đúng. Làm sao để mỗi ngày các em đến trường là một 
ngày vui. Giáo viên phải gần gũi với học sinh thì mới hiểu được về học sinh của 
mình, để hình ảnh ân cần của cô luôn là hình ảnh đẹp trong ánh mắt của các em, 
bản thân các em cũng thấy cô giáo như người thân trong gia đình sẵn sàng kể 
cho cô nghe những niềm vui hoặc những khó khăn của mình trong học tập hay 
trong sinh hoạt hàng ngày mà cần cô giúp đỡ. 
Qua quá trình dạy học tôi nhận thấy nếu người giáo viên biết lựa chọn 
phương pháp dạy học thích hợp với từng trình độ học sinh của lớp mình cùng 
với lòng nhiệt tình, quan tâm giúp đỡ học sinh học chậm thì chất lượng học sinh 
ngày một được nâng lên. 
2.2.2. Người giáo viên phải làm gì để học sinh nhận thức chậm, hay 
quên; học sinh có hoàn cảnh gia đình học tốt hơn 
 Có lẽ nguyên nhân này là nguyên nhân lớn làm giảm chất lượng học tập, 
qua giảng dạy nhiều năm, nhưng tôi thực sự băn khoăn và trăn trở bởi số học 
sinh này không phải chỉ có 1 hay 2 em, nên tôi nghĩ cần có kế hoạch cụ thể để 
gióp các em học sinh này học như thế nào cho đạt kết quả tốt, không phải trong 
một tháng mà trong cả một năm học, có khi cả trong hè. 
a) Đối với học sinh nhận thức chậm, hay quên 
 Là giáo viên chủ nhiệm tôi phải phân loại và nắm được số lượng học sinh 
này, tôi luôn cã một phương pháp dạy và dạy một lượng kiến thức phù hợp cho 
 9
các em. Tuy nhiên với học sinh cả lớp tôi vẫn lấy chuẩn để làm mục tiêu phấn 
đấu, còn những em này nếu dạy chung theo chuẩn của chương trình đề ra thì các 
em không thể theo kịp, vì thế trước hết tôi sắp xếp chỗ ngồi cho các em phù 
hợp và có tác dụng thúc đẩy. 
Ví dụ: Cho các em ngồi gần các bạn học tốt để các em được sự giúp đỡ từ 
bạn, được học tập từ bạn như các em tập đọc theo bạn, nhắc lại câu của bạn nói, 
được các bạn nhắc nhở luôn với hình thức này là điều kiện rất tốt cho các em 
hoạt động nhóm đôi, tránh cho các em cùng học chậm ngồi với nhau và ngồi 
cuối cùng của lớp, cần tạo điều kiện cho các em học tốt để các em biết phát huy 
những ưu điểm của bạn 
Dạy các em lượng kiến thức phù hợp như: Về viết chỉ yêu cầu các em viết 
một số dòng nếu như những học sinh bình thường có thể viết nhiều dòng trở lên. 
Ví dụ: Tiết tập chép bài: Bồ câu và kiến vàng - Trang 60 Tiếng Việt 1 - 
Tập 2, yêu cầu chuẩn học sinh chép đoạn 2(26 chữ), trong khoảng 15 phút 
nhưng đối với học sinh chậm yêu cầu các em chép 15-20 chữ, trong khoảng 15 
phút bên cạnh đó giáo viên phải theo dõi sát các em, uốn nắn và hướng dẫn cụ 
thể cho các em. 
Về đọc tăng cường gọi các em đọc lại nhiều lần nếu là vần, đọc nhiều lần 
nếu là câu ứng dụng hay một đoạn văn, đoạn thơ. 
Ngoài ra tôi có kế hoạch về thời gian để kèm cặp, phụ đạo học sinh này, 
phải sắp xếp thời gian cho phù hợp và phụ đạo cho học sinh có chất lượng, cụ 
thể các tiết ôn tập buổi chiều các em học giỏi, khá tự làm các yêu cầu giáo viên 
giao và các em ngồi cùng bàn theo dõi lẫn nhau, khi đó giáo viên phải quan tâm 
đặc biệt tới những em học chậm theo dõi sát khi các em đọc, viết, cho các em 
đọc nhiều hơn, động viên các em mỗi khi các em đọc tốt. 
b) Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình như mồ côi, cha mẹ 
bất hoà, cuộc sống khó khăn 
Nguyên nhân này cũng là yếu tố làm giảm chất lượng học sinh, trong quá 
trình tìm hiểu thực tế cho thấy nhiều em đến lớp không viết bài, ngồi ngơ ngác 
 10
có khi còn ngủ gật, không chú ý cô giảng bài Đối tượng học sinh này cần 
được quan tâm nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy muốn các học sinh này 
học tốt giáo viên phải nắm được hoàn cảnh thực tế của các em từ đó mới có biện 
pháp cụ thể để dạy các em. 
Để giúp các em có điều kiện tốt trong học tập. Mặc dù điều kiện kinh tế 
của tôi còn nhiều khó khăn. Song tôi cũng đã dành một phần lương nhỏ bé của 
mình mua tặng cho các em một cuốn vở, hay cái bút chì, một cái thướ kẻ.....Để 
động viên các em trong mọi hoạt động nhất là với những em có hoàn cảnh khó 
khăn, tôi luôn gần gũi quan tâm các em khi các em bị bệnh, ốm, tạo không khí 
thoải mái trong học tập, để các em thấy cô giáo là người mẹ thứ hai thực sự của 
mình, các em không còn thấy cô đơn khi tới trường. 
Đối với học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, giáo viên cần quan tâm, giúp đỡ, 
động viên các em giúp các em tự tin trong học tập và hoà nhập với cộng đồng, 
cần giúp đỡ các em cả vật chất và tinh thần 
2.2.3. Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em mình không 
khoán trắng cho cô giáo và thấy được sự phối hợp giữa nhà trường và gia 
dình là rất cần thiết. 
 Từ thực tế cho thấy nhiều cha mẹ học sinh cho con đến trường là xong 
nhiệm vụ còn trách nhiệm dạy, giáo dục con mình là phần thầy cô giáo, có 
những em bị bệnh nhưng cha mẹ không hề biết vẫn cho con đi học có khi các 
em đi học cả buổi mà vẫn chưa ăn gì, ngay cả khi các em bị ốm mà phụ huynh 
cũng không quan tâm tới các em. Với các trường hợp này tôi phải thường xuyên 
liên lạc với phụ huynh, trao đổi với phụ huynh để họ hiểu rằng kết quả học tập 
của các em có tốt là phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa gia đình và nhà trường. 
Yêu cầu quan tâm tối thiểu như cha mẹ các em cần kiểm tra bài vở của các em 
sau mỗi buổi học ở trường xem con mình đã học những môn nào, các em có ghi 
chép đủ không, giúp các em soạn sách vở trong thời gian đầu và theo dõi kiểm 
tra nhắc nhở các em việc soạn sách vở khi cho các em đã tự làm, hướng dẫn các 
em đọc bài nhiều lần ở nhà, chuẩn bị cho bài mới. Ngoài họp phụ huynh theo kế 
hoạch chỉ đạo định kì chung năm học,tôi luôn phải thường xuyên liên lạc với 
 11
phụ huynh học sinh bằng sổ liên lạc hay trực tiếp trao đổi với phụ huynh khi cần 
thiết. Bên cạnh đó tôi luôn phối hợp với hội phụ huynh của lớp nhờ hội trưởng 
của lớp giúp đỡ. 
Tôi luôn giữ mối liên hệ thường xuyên với phụ huynh học sinh, cần nhiệt 
tình, mềm dẻo trước những phụ huynh khó tính, phải thường xuyên trao đổi và 
cả tư vấn cho phụ huynh hiểu được quá trình học tập của các em tốt phải có sự 
hỗ trợ quan tâm từ phía gia đình. 
2.3. Kết quả đạt được 
 a) Kết quả thực hiện Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy 
học môn Tiếng Việt lớp Một cuối học kỳ I - Năm học 2020 - 2021 
Sau một học kỳ của năm học vận dụng những kinh nghiệm trên vào giảng 
dạy môn Tiếng Việt, tôi nhận thấy chất lượng dạy môn Tiếng Việt đã được nâng 
lên, kết quả cuối học kỳ 1 (tháng 12/2020), cụ thể như sau: 
Môn Tổng số 
học sinh 
Hoàn thành tốt Hoàn thành Cần cố gắng 
SL % SL % SL % 
Tiếng Việt 29 11 37,9 15 51,7 3 10.4 
b) Kết quả thực hiện Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học 
môn Tiếng Việt lớp Một cuối học kỳ II - Năm học 2020 - 2021 
Qua một năm học vận dụng những kinh nghiệm trên vào giảng dạy môn 
Tiếng Việt, tôi nhận thấy chất lượng dạy môn Tiếng Việt đã được nâng lên thấy 
rõ, kết quả cuối học kỳ 2 (tháng 5/2021), cụ thể như sau: 
Môn Tổng số 
học sinh 
Hoàn thành tốt Hoàn thành Cần cố gắng 
SL % SL % SL % 
 12
Tiếng Việt 29 11 37,9 15 51,7 3 10.4 
Qua kết quả trước và sau tác động đã cho thấy rằng những kinh nghiệm 
mà tôi áp dụng đã có hiệu quả. Các em đã và đang hình thành kỹ năng đọc, nghe 
- viết rất tốt, ý thức tự giác, tự học môn Tiếng Việt một cách tích cực từ đó các 
em thích và ham học hơn không những môn Tiếng Việt mà còn những môn học 
khác. Bên cạnh đó các năng lực , phẩm chất cũng được nâng lên. 
 13
3. PHẦN KẾT LUẬN 
 3.1. Ý nghĩa của sáng kiến 
Tôi đã vận dụng khéo léo và linh hoạt các phương pháp dạy học cho phù 
hợp với từng đối tượng học sinh của lớp mình. 
Tìm hiểu rõ được nguyên nhân và hoàn cảnh của các em, chủ động sẵn 
sàng nhiệt tình giúp đỡ các em . 
Học sinh có sự chuyển biến tích cực trong học tập, tự giác học và có rất 
nhiều cố gắng nhất là các em có hoàn cảnh đặc biệt, các em có bệnh lí đồng thời 
các em còn cảm nhận được sự gần gũi, yêu thương của thầy cô, biết hoà đồng 
cùng các bạn, biết chia sẻ những vui, buồn, khó khăn với bạn bè, thầy cô. Các 
em tự tin trong học tập và thực sự thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui. 
Làm nền móng tốt cho các em học lên lớp trên, tạo đà để chất lượng học 
tập ngày một tốt hơn. 
Một số phụ huynh nhận thấy rõ vai trò của gia đình trong quá trình giáo 
dục con em mình, nhiệt tình chỉ bảo, quan tâm tới các em nhiều hơn, thường 
xuyên giữ mối liên hệ với nhà trường, hiểu được tầm quan trọng của sự kết hợp 
giữa nhà trường và gia đình. 
 Với kết quả đạt được ở trên, bản thân tôi rút ra bài học sau: 
 Là một giáo viên phải chuyên tâm, say sưa, nhiệt tình trong công việc, 
không ngừng học tập để nâng cao kiến thức và năng lực sư phạm trong việc 
giảng dạy giáo dục trong nhà trường. 
Cần mềm mỏng, khéo léo, trong giảng dạy 
Biết lắng nghe và thu nhận thông tin phản hồi từ phô huynh trong quá 
giảng dạy . 
 Giữ mối liên hệ tốt giữa nhà trường – gia đình – xã hội. 
Giáo viên nên quan tâm tới tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt 
những em nhút nhát, lúng túng khi trả lời... Ngoài ra, đòi hỏi người giáo viên 
phải kiên trì, vượt khó, tìm tòi sáng tạo và phải có tinh thần trách nhiệm cao, 
lòng say mê với công việc. 
 14
 Mặt khác, giáo viên phải nắm chắc mục tiêu, phương pháp giảng dạy bộ 
môn, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, cải tiến sao cho phù hợp với từng bài dạy cụ 
thể để học sinh nào cũng có thể hiểu bài, nắm chắc nội dung bài. 
 Giáo viên cần khéo léo, khuyến khích động viên khen thưởng kịp thời đối 
với những học sinh có tiến bộ, phát huy được khả năng phát triển tư duy tạo cho 
không khí lớp học sôi nổi, hào hứng. Có như vậy thì giờ học mới đạt hiệu quả

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong.pdf