Điều đó cho ta thấy rằng thanh niên là một hiện tượng tâm lý xã hội. Học sinh trong các trung tâm GDNN - GDTX nói chung, của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng thường đa dạng về hoàn cảnh gia đình và điều kiện học tập, về trình độ, về hiểu biết xã hội và vốn kinh nghiệm sống. Tuy nhiên, phần lớn học sinh trong các cơ sở GDNN - GDTX có một số đặc điểm chung sau đây:
- Học sinh trong các cơ sở GDTX có lòng tự trọng cao, dễ tự ái. Vì vậy trong quá trình dạy học, giáo viên cần phải tôn trọng, tránh xúc phạm, chê bai.
- Học sinh thường có tính bảo thủ cao. Do đó cần phải tìm hiểu quan niệm, kinh nghiệm đã có của người học để phân tích cho người học tự thấy được cái sai, cái chưa đúng, chưa đầy đủ trong nhận thức và hiểu biết trước đây của mình (thường thông qua ý kiến của nhóm, của lớp).
- Học sinh thường tự ti, mặc cảm do học kém. Giáo viên cần phải thường xuyên khen thưởng, động viên kịp thời để khuyến khích người học.
- Học sinh thường mệt mỏi, tư tưởng dễ bị phân tán.
Vì những đặc điểm trên mà học sinh GDTX chỉ học tốt nhất khi:
- Cảm thấy được tôn trọng, được đối xử bình đẳng.
- Thấy ý kiến của mình được đề cao, chú ý lắng nghe.
- Được tham gia, được phát biểu, trao đổi chia sẻ kinh nghiệm.
- Tự mình phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề và tự rút ra kết luận, không bị áp đặt. Học sinh chỉ nhớ:
+ 20% những điều được nghe.
+ 40% những điều nghe và thấy.
+ 80% những điều tự phát hiện, khám phá ra.
- Tự mình thấy được cái chưa đúng, chưa chính xác, chưa đầy đủ trong nhận thức, kinh nghiệm trước đây của mình.
- Cảm thấy tự tin, không còn cảm giác sợ sệt, ngại ngùng, xấu hổ.
- Được động viên, khen thưởng kịp thời.
- Được học trong không khí vui vẻ, nhẹ nhàng, thoải mái.
- Nội dung học thiết thực, phù hợp và có thể vận dụng được ngay.
- Giáo viên nhiệt tình, thông cảm, gần gũi.
- Phương pháp giảng dạy phù hợp, dễ hiểu, hấp dẫn.
- Được trực quan, được thực hành, được củng cố thường xuyên.
Tóm lại, học sinh trong các cơ sở GDNN - GDTX có một số đặc điểm khác so với học sinh phổ thông. Học sinh trong các cơ sở GDNN - GDTX có nhiều khó khăn hơn trong học tập, ngoài những khó khăn khách quan, có thật, cũng có nhiều khó khăn do người học tự ti, mặc cảm ít chia sẻ hoặc do giáo viên có những nhận định, đánh giá sai lầm. Học sinh trong các cơ sở GDNN - GDTX vẫn có khả năng học tốt nếu phương pháp giảng dạy phù hợp, nếu giáo viên biết phát huy thế mạnh của họ và biết giúp họ khắc phục dần những nhược điểm, hạn chế đến mức không còn là những trở ngại đáng kể.
chống lại các vấn nạn ngoài xã hội của các bạn; hướng dẫn, chỉ bảo là việc làm cần thiết của các bậc phụ huynh. Thứ hai, các hình thức giáo dục con cái trong gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng giá trị nhân cách và thái độ của học sinh. Gia đình là nơi giúp các bạn định hình và nhận ra rõ nhất mình đang làm gì và nên làm gì. Đứng trước vấn nạn quấy rối tình dục hiện nay nhiều bậc cha mẹ vẫn còn e ngại, thậm chí không dạy cho các bạn biết được những bộ phận nào trên cơ thể mà người khác không được động vào. Từ đó khiến các bạn thiếu các kỹ năng như kỹ năng phòng tránh, kỹ năng tự vệ hay kỹ năng phản kháng để chống lại các hành vi quấy rối. Họ cho rằng việc này rất nhạy cảm, khi trưởng thành hơn tự khắc các bạn sẽ biết. Thế nhưng chính điều đó đã khiến các bạn bị những “bóng đen” quấy rối một cách dễ dàng. Đôi khi các bậc cha mẹ còn có tâm lý e ngại ảnh hưởng đến danh dự gia đình, ảnh hưởng đến tương lai của con nên không tố giác các hành vi xâm hại, gián tiếp tiếp tay cho quấy tình dục tiếp tục xảy ra. Ngoài ra tình trạng quá coi trọng đồng tiền, bố mẹ thường xuyên đi làm ăn xa, ly hôn, ly thân....cũng là một trong những nguyên nhân khiến các bạn dễ trở thành nạn nhân của bạo lực, quấy rối tình dục. *Ảnh hưởng từ xã hội: Môi trường giáo dục: Chúng ta thấy rằng hoàn cảnh bên ngoài tác động vào cá nhân rất khác nhau, cùng với những sự tác động có mục đích, có tổ chức thì cũng có không ít những tác động tự phát, ngẫu nhiên của hoàn cảnh xã hội. Trong những tác động đó thì giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức nên nó là nhân tố chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Tại sao giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách, ảnh hưởng tới hành vi, thái độ của học sinh? Sở dĩ như vậy là bởi các lý do sau: + Giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực hiện có hiệu quả các mục đích đã đề ra. + Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như bẩm sinh- di truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được. Chúng ta có thể lấy một ví dụ đơn giản: Một em bé sinh ra không bị khuyết tật gì, cùng với sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể thì một vài năm sau, chắc chắn em bé sẽ biết nói. Nhưng nếu không được học tập thì em sẽ không thể đọc sách, viết thư và càng không thể có những kỹ xảo nghề nghiệp. + Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật, nó có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người. + Giáo dục còn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Đó chính là hiệu quả của công tác giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc những người phạm pháp. + Khác với các nhân tố khác, giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển. Điều đó có giá trị định hướng cho việc xây dựng mô hình nhân cách của con người Việt Nam với tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội. Thực tế giáo dục cũng đã chứng minh rằng: sự phát triển tâm lý của học sinh chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của giáo dục và dạy học. Điều đó càng chứng tỏ tầm quan trọng của giáo dục. Chính bởi giáo dục có vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách, hình thành thái độ của con người với con người. Tuy nhiên, hiện nay giáo dục đang quá chú trọng đào tạo kiến thức, chưa chú trọng nhiều đào tạo kĩ năng sống cho học sinh chưa thật sự quan tâm đến học sinh và vấn đề quấy rối tình dục hiện nay; nếu có quan tâm thì cách triển khai thực hiện vẫn không rõ ràng và hiệu quả. Thầy cô cảm thấy xấu hổ, ngại ngùng khi dạy học trò những vấn đề nhạy cảm dẫn đến việc học sinh thiếu kỹ năng tự phòng vệ cho bản thân trước các mối nguy cơ đe dọa. Công tác tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật, giáo dục giới tính còn mang tính hạn chế, nhiều khi còn tình trạng qua loa, để cho các bạn tự đọc, tự tìm hiểu mà không có sự hướng dẫn, quản lý của giáo viên. Phương pháp tổ chức các nội dung giáo dục đặc thù và giáo dục ngoài giờ chính khoá của giáo viên còn gặp nhiều khó khăn về nội dung tài liệu, hình thức giáo dục... Giáo dục chỉ quan tâm tới chất lượng giảng dạy kiến thức, ít có thời gian đầu tư cho học sinh trải nghiệm, để được lắng nghe những chuyên gia tư vấn về những vấn đề nhạy cảm khó nói của học sinh mà trong đó quấy rối tình dục đã và đang là hiện tượng nhức nhối trong xã hội hiện nay. Các bạn học sinh còn có lỗ hổng rất lớn về những kiến thức, kĩ năng phòng ngừa quấy rối tình dục nên không nhận ra đó là hành vi quấy rối và cũng không biết cách xử lý khi bị tấn công tình dục. Các bạn âm thầm chịu đựng và lâu dần tùy mức độ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới tâm lý, sức khỏe và cuộc sống của các bạn sau này. Mạng xã hội: Thời gian vừa qua, mạng xã hội xuất hiện và bùng nổ khiến cho thói quen sử dụng internet của người dân, đặc biệt là giới trẻ thay đổi rất nhiều. Số lượng người đăng kí thành viên của các trang mạng xã hội ngày càng gia tăng nhanh chóng, thời gian họ dành cho những tiện ích trên những trang mạng này mỗi ngày nhiều hơn và họ hầu như không kiểm soát được. Nếu biết cách sử dụng thông minh chúng ta không thể phủ nhận vai trò của các trang mạng xã hội đối với giới trẻ Việt hiện nay như Facebook, Yume, Zing, Yobanbe Tuy nhiên khi tham gia người sử dụng phải liên tục cập nhật thông tin, chăm chỉ đăng lên trang cá nhân những hình ảnh, cảm xúc, trạng thái hoạt động của mình... Nhưng việc đăng hình, trạng thái hoạt động hay cảm xúc của mình lên mạng xã hội, vô hình chung tạo điều kiện cho những kẻ xấu tấn công và các bạn học sinh có thể trở thành miếng mồi ngon của những kẻ xấu, những tội phạm quấy rối tình dục trên các trang mạng xã hội. Nhiều vụ lừa đảo, xâm hại diễn ra một cách dễ dàng bởi thủ phạm luôn nắm rõ được thông tin cá nhân, các hoạt động của các bạn học sinh khi lợi dụng vào tâm lý lứa tuổi mới lớn thích thể hiện cái tôi, nên đi đâu, làm gì cũng cập nhật trên mạng xã hội. Điều này rất nguy hiểm”. Mặt khác khi tham gia mạng xã hội các bạn dễ bị các đối tượng lừa gạt tình dục tấn công bằng cách kết bạn trên thế giới ảo, lừa gạt dụ dỗ các bạn gửi những tin nhắn gợi dục, những trang mạng với nội dung đồi trụy kiêu dâm hoặc các bạn có thể bị những “người bạn ảo” hẹn hò và tấn công tình dục. Sự bùng nổ của mạng Internet và phim ảnh ngoài luồng có tính chất khiêu dâm cùng với bản tính tò mò khi lên mạng đọc và xem những phim không lành mạnh như vậy các bạn đã tạo cơ hội cho những kẻ quấy rối tình dục trên mạng. f. Bước 6: Tiến hành khảo sát thực trạng hiểu biết và đề xuất giải pháp phòng ngừa quấy rối tình dục cho HS Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc - Thủ tục: (Mô tả chi tiết toàn bộ thủ tục và thiết kế thí nghiệm/thực nghiệm tiến hành để thu thập số liệu). + 24/8/2019: nảy sinh ý tưởng + 9/9 - 23/9/2019 : Nghiên cứu tổng quan về sáng kiến + 27/9 - 30/9/2019: Nghiên cứu tài liệu để thiết kế phiếu điều tra + 01/10 - 5/10/2019: Xây dựng phiếu điều tra + 7/10/2019: Phát phiếu điều tra và thu thập thông tin + 11/10 - 18/10/ 2019: Tổng hợp, phân tích số liệu + 19/10 - 21/11/2019: Viết báo cáo - Hình thức: Các em học sinh Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc (gồm cả nam và nữ, ở độ tuổi từ 15 - 18 tuổi) được mời tham gia trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra: Tìm hiểu thực trạng và giải pháp phòng ngừa quấy rối tình dục cho học sinh Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc. Bên cạnh đó tác giả cũng tiến hành phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với một số học sinh. - Đánh giá rủi ro: Về tâm lí: Người tham gia có thể cảm thấy ngại, xấu hổ khi thừa nhận mình đã từng là nạn nhân của quấy rối tình dục. Để giảm thiểu rủi ro đó: + Phiếu điều tra không đòi hỏi học sinh cung cấp thông tin cá nhân (tên tuổi, địa chỉ...) + Tác giả thêm câu dẫn trong phiếu điều tra: “Quấy rối tình dục đã và đang là vấn nạn rất nhức nhối của xã hội và đáng quan tâm trong học sinh. Vậy, quấy rối tình dục là gì? Tại sao chúng ta lại bị quấy rối tình dục? Cần phải làm gì để phòng ngừa và đẩy lùi vấn nạn này trong cuộc sống của chúng ta. Xin bạn vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây. Các câu trả lời hoàn toàn phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học và được bảo mật.” => Mục đích của câu dẫn để các em thấy rằng, quấy rối tình dục là một vấn nạn trong cuộc sống, nó gây hậu quả rất lớn đến trẻ em và đặc biệt là các em ở lứa tuổi học sinh. Từ đó các em sẽ có thái độ hợp tác đóng góp ý kiến để nhằm tìm ra những giải pháp phòng ngừa vấn nạn này. Hơn nữa trong câu dẫn cũng đề cập tới nội dung là các câu trả lời hoàn toàn được bảo mật do đó các em sẽ không bị ngại ngùng, mặc cảm nếu không may đã từng là nạn nhân của quấy rối tình dục từ đó giúp thu thập thông tin chính xác hơn. Về thời gian: phát phiếu điều tra trong thời gian ngắn nên một số thông tin bị thiếu. Do đó tôi phải trao đổi, lấy ý kiến của các em học sinh vào các khoảng thời gian khác. - Thủ tục cho phép thu thập thông tin: + Gặp mặt cán sự 17 lớp: truyền đạt rõ mục đích phiếu điều tra, phát phiếu cho ban cán sự lớp về truyền đạt và thu thập thông tin tại các lớp trong giờ sinh hoạt tiết 2 ngày 7 tháng 10 năm 2019. Kết thúc giờ sinh hoạt, cán sự lớp thu lại phiếu điều tra cho tác giả. + Sự tham gia của các em học sinh trong trung tâm là hoàn toàn tự nguyện, nếu câu hỏi chưa được trải nghiệm các em có thể bỏ qua. - Phân tích dữ liệu: + Tổng hợp số liệu điều tra theo từng câu hỏi, từng đáp án + Tính tỉ lệ từng đáp án của từng câu hỏi. + Vẽ biểu đồ thể hiện kết quả. + Phân tích, nhận xét biểu đồ để rút ra nhận xét cho từng vấn đề. Từ đó, có câu trả lời chính xác cho giả thuyết nghiên cứu. 7.1.3. Một số kết quả chính a. Kết quả nghiên cứu lí thuyết: Tìm hiểu về thực trạng mức độ hiểu biết, kĩ năng phòng chống quấy rối tình dục, tâm – sinh lí học sinh THPT nói chung và Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc nói riêng. Từ thực tế của học sinh trường mình, tôi tiến hành khảo sát ngẫu nhiên 200 học sinh về vấn nạn quấy rối tình dục đối với học sinh trong cuộc sống của các bạn. Kết quả khảo sát cho thấy 85% học sinh đã gặp phải hành vi này trong cuộc sống. Đa số
Tài liệu đính kèm: