* Thuận lợi: Trong quá trình triển khai nghiên cứu khoa học dành cho học sinh trong 2 năm học liền kề, nhà trường nhận được sự ủng hộ của giáo viên và học sinh.
Giáo viên trẻ chiếm số đông, vì thế họ phấn đấu, cống hiến với sức trẻ, nắm bắt, vận dụng rất linh hoạt, nhiệt tình, tận tụy, có trách nhiệm. Học sinh rất quan tâm, đăng ký ghi danh tham gia đông.
Nhà trường quan tâm, sát xao trong công tác chỉ đạo, triển khai, tổ chức, thực hiện.
* Khó khăn: Giáo viên trẻ còn thiếu kinh nghiệm trong kiến thức chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm nên công tác tuyên truyền phát hiện học sinh có năng khiếu ngay trong các tiết dạy hạn chế. Nhiều giáo viên coi nhẹ hoặc không quan tâm, và xác định không phải là nhiệm vụ chính, do đó còn thờ ơ.
Vẫn còn cán bộ quản lý, giáo viên trong trường học không thực sự tin tưởng vào khả năng thành công trong quá trình triển khai nghiên cứu khoa học; không quan tâm đến nội dung hoạt động của các câu lạc bộ của học sinh, hoặc tổ chức hoạt động còn hình thức không hiệu quả hoặc có người không hiểu rõ mục đích, nội dung và tác dụng của Hội thi nghiên cứu khoa học.
c, trong đó có nhiệm vụ chuyên môn là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất. Nâng cao chất lượng về chuyên môn, trước hết phải đề cao năng lực của người thầy; thầy giáo tâm huyết sẽ khuyến khích việc học tập của học sinh, từ đó chất lượng giáo dục (GD) sẽ được nâng lên gấp bội. Nhận thức là thế nhưng trên thực tiễn, các nhà giáo đang phải cố gắng trong tìm tòi đổi mới phương pháp dạy học (PPDH), loay hoay với việc làm sao để đổi mới, đổi mới phương pháp như thế nào mới được coi là đạt yêu cầu, phù hợp đối tượng, nhất là bộ phận giáo viên (GV) trẻ. Vì thế, công tác chỉ đạo của lãnh đạo nhà trường trong việc triển khai nghiên cứu khoa học trong học sinh là rất quan trọng. Lãnh đạo nhà trường coi việc nghiên cứu khoa học của học sinh chính là công tác bồi dưỡng giáo viên, chính là trực quan bài học thông qua việc vận dụng các kiến thức được học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn diễn ra xung quanh. Chỉ đạo được hoạt động này thường xuyên trong nhà trường chính là giải quyết được phần nhiều nội dung về chất lượng đội ngũ (CLĐN), chất lượng dạy học (CLDH), đây là một trong những nội dung khiến cho lãnh đạo các nhà trường quan tâm đặc biệt trong các nhiệm vụ hàng năm. Đối chiếu với các đơn vị nhà trường, công tác bồi dưỡng (BD), xây dựng đội ngũ được diễn ra hàng năm, thường xuyên, dưới nhiều hình thức khác nhau; ngoài ra Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) hằng năm tổ chức tập huấn, BD nâng cao năng lực cho giáo viên, giáo viên được tiếp cận chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với GD, tiếp cận những phương pháp dạy học có hiệu quả nhất nhằm phát huy năng lực, tính tích cực của học sinh, dần đáp ứng yêu cầu giáo dục học sinh phát triển toàn diện. Tuy nhiên trong quá trình triển khai, thực hiện đối với GV thì công tác BD và tự BD là việc làm ít có hiệu quả nếu không muốn dùng từ là “hình thức”. Không chỉ đối với GV, mà đối với các lực lượng quản lý trong nhà trường về công BD, việc rà soát các nội dung BD của GV hàng tháng có hay không có hiệu quả cũng là vấn đề đáng đặt ra để người Hiệu trưởng quan tâm. Trên thực tế chất lượng công tác BDGV không đạt được đúng yêu cầu mà Sở GD&ĐT đề ra và nội dung này được xếp xuống “hàng thứ yếu”. Chủ yếu trong năm học vấn đề chất lượng cần phấn đấu theo chỉ tiêu năm học là quan trọng nhất. Mặt khác, tâm lý cha mẹ học sinh, học sinh và bộ phận nhỏ GV có quan niệm khi đi học thì đa số chỉ quan tâm đến học sinh giỏi các môn văn hóa, chưa nhìn thấy hết tác dụng và thực sự hiểu tâm lý lứa tuổi của các em để là một trong những người tích cực trong việc khuyến khích học sinh NCKH. Để giải quyết vấn đề thực tiễn, vừa đạt mục đích trong công tác BD nâng cao năng lực đội ngũ, vừa tạo môi trường thuận lợi, thân thiện, tự nhiên không cứng nhắc để các GV có điều kiện bộc lộ năng lực bản thân, vừa tạo môi trường để Thầy – Trò có điều kiện hiểu biết và chia sẻ trong quá trình giáo dục và được giáo dục, đồng thời làm gia tăng về số lượng, chất lượng học sinh giỏi. Đây chính là mấu chốt, nó tạo ra không khí ngầm thi đua, mong muốn đạt được thành tựu, lao động và học tập không cần phải thường xuyên đôn đốc nhắc nhở, nói cách khác tự nó tạo ra “phong trào thi đua” trong việc triển khai nghiên cứu khoa học dành cho học sinh của nhà trường. Vì thế tôi đã nghiên cứu thực trạng, trải qua 2 năm thực hiện và so sánh kết quả, có hiệu quả nên đã thực hiện nội dung báo cáo “Một số kinh nghiệm về công tác chỉ đạo trong nghiên cứu khoa học dành cho học sinh THPT” với mong muốn nhận được sự góp ý, để phần nào cùng trao đổi, chia sẻ với các đồng nghiệp. Giải quyết vấn đề Cơ sở lý luận Phương pháp là cách thức nhận thức, nghiên cứu hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội. Khoa học là hệ thống trí thức về mọi quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, tư duy; là sản phẩm trí tuệ của người nghiên cứu. Nghiên cứu khoa học là tìm kiếm những điều khoa học chưa biết, sáng tạo hay cải tiến ra phương pháp, phương tiện mới. NCKH = tìm kiếm các luận cứ để chứng minh giả thuyết nghiên cứu Nghiên cứu khoa học dành cho học sinh là quá trình nghiên cứu những vấn đề thực tiễn trong đó có sự vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống hàng ngày để giải quyết những vấn đề thực tiễn đó. Các lĩnh vực trong Hội thi gồm 1. Khoa học động vật 2. Khoa học xã hội và hành vi 3. Hoá sinh 4. Sinh học tế bào và Phân tử 5. Hoá học 6. Khoa học máy tính 7. Khoa học Trái đất và hành tinh 8. Vật liệu và công nghệ sinh học 9. Kỹ thuật: Kỹ thuật điện và cơ khí 10. Năng lượng và vận tải 11. Khoa học môi trường 12. Quản lý môi trường 13. Toán học 14. Y khoa và khoa học sức khoẻ 15. Vi trùng học 16. Vật lý và thiên văn học 17. Khoa học thực vật Trên thực tế, căn cứ các văn bản hướng dẫn về việc triển khai các cuộc thi nghiên cứu khoa học dành cho học sinh, bài thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết những vấn đề thực tiễn đã thôi thúc giáo viên, học sinh ngay trong quá trình giảng dạy và học tập. Việc gắn những nội dung dạy học vào thực tiễn, hướng người học vào việc liên hệ kiến thức đã, đang học vào cuộc sống, việc trực quan bài giảng, gắn dạy học trên phương diện lý thuyết với thực hành giúp học sinh hiểu nội dung cơ bản của bài ngay tại lớp, nhớ lâu, ngoài ra còn khuyến khích học sinh trong tìm tòi, khám phá, tự đặt ra vấn đề, tìm cách để giải quyết vấn đề đặt ra và đưa kiến thức trong sách vở thành những nội dung cụ thể, tránh được việc học thụ động, thiếu thực tiễn, học sinh chủ động hơn Chính vì thế công tác triển khai nghiên cứu khoa học dành cho học sinh đã trở thành việc chung của cả Thầy và Trò trong nhà trường. Ngoài việc học sinh yêu thích tham gia thì còn lực lượng học sinh khác chưa phải là học sinh nổi trội về kiến thức các môn học (hay gọi là học sinh khá, giỏi) cũng rất quan tâm. Việc học sinh học trung bình, có kiến thức nền tảng, ham thích trong nghiên cứu cũng có thể thành công (Ví như: Học sinh Đỗ Tùng Nam và Bùi Văn Trí lớp 12A6 năm học 2012-2013 chỉ là những học sinh có học lực Trung bình vẫn có sản phẩm dự thi đạt giải Quốc gia. Mặt khác, hiện nay rất nhiều cha mẹ học sinh và học sinh, không ngoại lệ có cả bộ phận giáo viên chỉ chú trọng vào việc đôn đốc học sinh học tập trung một số môn văn hóa cơ bản, không coi trọng các môn học khác (Ví dụ: Giáo dục Công dân, Công nghệ, Tin học) hoặc các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp không đầu tư, không chú ý khai thác năng lực của học sinh đúng mức, thường “khoán trắng” cho cán bộ phụ trách công tác Đoàn. Đặc biệt công tác giáo dục địa phương, giáo dục tích hợp trong các tiết dạy chưa đượcquan tâm đúng mức Tất cả các yếu tố trên đều dẫn đến hiệu quả của công tác giáo dục nói chung và ảnh hưởng đến kết quả giáo dục toàn diện, trong đó có công tác nghiên cứu khoa học của học sinh. Thực trạng của công tác triển khai nghiên cứu khoa học * Thuận lợi: Trong quá trình triển khai nghiên cứu khoa học dành cho học sinh trong 2 năm học liền kề, nhà trường nhận được sự ủng hộ của giáo viên và học sinh. Giáo viên trẻ chiếm số đông, vì thế họ phấn đấu, cống hiến với sức trẻ, nắm bắt, vận dụng rất linh hoạt, nhiệt tình, tận tụy, có trách nhiệm. Học sinh rất quan tâm, đăng ký ghi danh tham gia đông. Nhà trường quan tâm, sát xao trong công tác chỉ đạo, triển khai, tổ chức, thực hiện. * Khó khăn: Giáo viên trẻ còn thiếu kinh nghiệm trong kiến thức chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm nên công tác tuyên truyền phát hiện học sinh có năng khiếu ngay trong các tiết dạy hạn chế. Nhiều giáo viên coi nhẹ hoặc không quan tâm, và xác định không phải là nhiệm vụ chính, do đó còn thờ ơ. Vẫn còn cán bộ quản lý, giáo viên trong trường học không thực sự tin tưởng vào khả năng thành công trong quá trình triển khai nghiên cứu khoa học; không quan tâm đến nội dung hoạt động của các câu lạc bộ của học sinh, hoặc tổ chức hoạt động còn hình thức không hiệu quả hoặc có người không hiểu rõ mục đích, nội dung và tác dụng của Hội thi nghiên cứu khoa học. Còn có cán bộ quản lý, giáo viên coi nhẹ chất lượng giải của cuộc thi, không coi trọng Giải về nghiên cứu khoa học so với các giải của môn văn hóa, vì thế thờ ơ, không đầu tư mặc dù giáo viên đó có chuyên môn. Học sinh còn chịu ảnh hưởng của giáo viên, cha mẹ và những người xung quanh, còn bị tác động nên không tự tin, dễ bỏ cuộc (đặc biệt là một số lĩnh vực nghiên cứu về hành vi xã hội). Số đông giáo viên có nguyện vọng tham gia, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, có quan tâm mà chưa đạt hiệu quả. Vấn đề đặt ra là: Giáo viên có năng lực, học sinh có đủ kiến thức các bộ môn có liên quan, học sinh có ý tưởng và mong muốn được tham gia Hội thi nghiên cứu khoa học các cấp. Học sinh mong muốn được công nhận là học sinh giỏi các cấp nhưng không có khả năng đạt giải ở các môn văn hóa cơ bản Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Công tác giáo dục nhận thức, bồi dưỡng * Về công tác tuyên truyền Trường coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức của cán bộ giáo viên, học sinh và cha me học sinh trong các cuộc họp, sinh hoạt tập thể, thông qua các tiết dạy của giáo viên. Công tác bồi dưỡng đội ngũ được thực hiện quyết liệt (về tư tưởng, nhận thức trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, nhiệm vụ chuyên môn, công tác tự bồi dưỡng, tham gia các nội dung bồi dưỡng có hiệu quả). Chỉ đạo việc thực hiện tuyên truyền, vận động, tư vấn giúp học sinh khai thác thế mạnh của bản thân. Trú trọng giáo dục tuyên truyền vào lực lượng học sinh học lực trung bình vững, không được các thầy cô lựa chọn vào đội tuyển học sinh giỏi các môn văn hóa để tư vấn. Công tác tư vấn việc phối hợp với cha mẹ học sinh trong việc thực hành sau khi học tập lý thuyết tại nhà. * Về thực hiện nhiệm vụ Hiệu trưởng chỉ đạo việc lập kế hoạch tổ chức thực hiện nhiệm vụ của nhóm bộ môn, tổ chuyên môn, ngoài nội dung quy định phải quan tâm đến nội dung bồi dưỡng giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học. Lãnh đạo nhà trường phê duyệt căn cứ vào kế hoạch, chỉ tiêu đã giao. Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn duyệt kế hoạch dạy học, kiểm soát việc dạy học của giáo viên, đảm bảo về chất lượng, đạt tiêu chí nội dung gắn nội dung kiến thức môn học với thực tiễn, trực quan để học sinh thấy sự cần thiết của việc học và tác dụng môn học vào đời sống hàng ngày. Trường quán triệt việc dạy học sinh cách phát hiện ra vấn đề, cách nhận xét những sự vật, hiện tượng xung quanh, bày tỏ quan điểm của bản thân, đề xuất cách giải quyết theo quan điểm cá nhân, biết chia sẻ với thầy cô và bạn học. Công tác chỉ đạo về tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có tác dụng rất lớn, giúp môi trường giáo dục thân thiện, nâng cao vai trò người học, tạo điều kiện để học sinh tham gia thể hiện năng lực, học sinh gắn bó với trường, học sinh ham học hơn, chất lượng học tập nâng lên. Vì thế, hoạt động chuyên môn được lãnh đạo nhà trường quan tâm chỉ đạo thường xuyên lien tuch trong suốt năm học. Công tác nghiên cứu khoa học của học sinh không chỉ áp dụng với đối tượng học sinh mà còn liên quan đến chất lượng đội ngũ. Vì thế phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ, hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học còn phải gắn liền với mục tiêu nhiệm vụ năm học của nhà trường hàng năm. Công tác chỉ đạo chuyên môn * Về hoạt động dạy học gắn với thực tiễn Công tác soạn, giảng phải được đổi mới về phương pháp và cách thức. Muốn học sinh có thể vận dụng kiến thức để nhận xét những vấn đề xung quanh trong cuộc sống, thì giáo viên phải thay đổi cách thức soạn giảng. Năm học 2013-2014 trường đã phát động phong trào “nói không với sử dụng giáo án cũ khi dạy học” đạt hiệu quả. Giáo viên ngoài tìm tòi để thiết kế bài dạy đạt yêu cầu về chuẩn kiến thức kỹ năng, còn phải soạn có nội dung giáo dục tích hợp, giáo dục địa phương, giáo dục thẩm mỹ và hướng học sinh vào việc học đơn vị kiến thức này để giải quyết vấn đề thực tế nào, liên quan môn học nào từ đó phải học như thế nào để đạt hiệu quả Công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp cũng được đầu tư, hoạt động có hiệu quả (từ khâu chuẩn bị khánh tiết, chủ đề, nội dung, kịch bản.). * Về công tác giáo dục học sinh Công tác giáo dục học sinh cá biệt, phát hiện học sinh có năng lực, công tác tuyên truyền vận động học sinh, thu hút được học sinh tham gia đúng năng lực sở trường cũng là vấn đề đặt ra. Học sinh học giỏi các môn văn hóa là số ít, vì thế lượng học sinh có năng khác nhưng lại ít được Thầy Cô chú ý quan tâm ưu tiên như học sinh giỏi là số đông; đây chính là số học sinh có thể có ý tưởng hay, đồng thời bieetd khai thác đúng thì sẽ tạo ra phong trào thi đua học tốt qua hoạt động nghiện cứu khoa học này. Chính các học sinh này sẽ kéo theo các học sinh khác phát triển theo chiều hướng tích cực, chất lượng giáo dục nâng lên chính là hiệu quả đạt được trong công tác giáo dục này. Nội dung chủ yếu để thành công chính là công tác quản lý hoạt động chuyên môn, hoạt động giáo dục tập thể trong nhà trường; nhưng quan trọng nhất là mỗi giáo viên phải thực hiện tốt công tác tự bồi dưỡng, tham gia bồi dưỡng nâng cao năng lực để thuyết phục học sinh bằng năng lực chuyên môn. * Về công tác kiểm tra, đánh giá Do đặc thù trường học, vì thế công tác kiểm tra, đánh giá được tận dụng triệt để trong quá trình dạy học. Học sinh được kiểm tra thường xuyên, trường coi kiểm tra là cách thức để nâng cao chất lượng giáo dục. * Về công tác điều hành hoạt động của các câu lạc bộ gắn với hoạt động chuyên môn, hiệu quả giáo dục Trường tổ chức thành lập 13 câu lạc bộ trong đó có 9 câu lạc bộ các môn văn hóa và 4 câu lạc bộ năng khiếu khác, trong đó có câu lạc bộ NCKH. Kế hoạch hoạt động của các câu lạc bộ được thực hiện vào đầu năm học. Việc tổ chức thực hiện được giám sát định kỳ, chất lượng và hiệu quả gắn với việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu. Đối tượng tham gia gồm có giáo viên, học sinh, phụ trách câu lạc bộ là giáo viên thuộc chi đoàn giáo viên. Công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ Nhà trường đề cao công tác tự bồi dưỡng của giáo viên, giáo viên chủ động trong việc đăng ký nội dung bồi dưỡng. Tổ chuyên môn và nhóm bộ môn tổ chức bồi dưỡng trong tổ. Nhà trường tổ chức bồi dưỡng chuyên đề dưới dạng Hội thảo, hội giảng, tập huấn, thi, theo kế hoạch của Sở GD&ĐT. Giáo viên chủ động trong công tác bồi dưỡng thường xuyên. Việc bồi dưỡng được thực hiện đa dạng như: Kiểm tra nội bộ, dự giờ, hội giảng các cấp, kiểm tra kiến thức năng lực, chất lượng dạy học, chất lượng phụ đạo học sinh yếu, bồi dưỡng học sinh giỏi, chất lượng và hiệu quả hoạt động của các câu lạc bộ. Tổ chức đi học tập kinh nghiệm, giao lưu học hỏi Công tác triển khai nghiên cứu khoa học cho học sinh + Phát động phong trào tham gia trong giáo viên và học sinh. Quán triệt, tuyên truyền, hướng dẫn giáo viên và học sinh lựa chọn các lĩnh vực nghiên cứu. + Chỉ đạo các tổ chuyên môn tổ chức cho giáo viên tham gia các lĩnh vực tùy theo bộ môn dạy, phù hợp với năng lực bản thân, giáo viên buộc phải đăng ký tham gia. + Triển khai thể lệ Hội thi; ra quyết định thành lập Ban tư vấn; Ban giám khảo. Kế hoạch tổ chức thi cấp trường. + Tổ chức tuyên truyền dưới nhiều hìn thức, tổ chức hội nghị triển khai, công khai các sản phẩm và kết quả của các Hội thi năm trước, so sánh kết quả của tỉnh với toàn quốc, kết quả của trường với tỉnh, so sánh khả năng, năng lực của học sinh. Đặc biệt chú trọng vào nghiên cứu các lĩnh vực xã hội hành vi. + Tổ chức chấm sơ khảo, trung khảo ý tưởng: Năm học 2013-2014 có 17 ý tưởng lọt vào vòng trung khảo của trường. Do đặc thù địa phương nên vào vòng trung khảo có 3 sản phẩm được tiếp tục đầu tư nghiên cứu đề xuất tham gia thi cấp tỉnh. + Học sinh được quyền lực chọn giáo viên hướng dẫn sau cuộc thi sơ khảo. Các giáo viên hướng dẫn phải là người có tâm huyết, trách nhiệm với cuộc thi và là người đáp ứng được yêu cầu của học sinh. Trong quá trình thực hiện dự án, học sinh có quyền đề nghị tăng thêm hoặc đổi giáo viên hướng dẫn. + Lãnh đạo trường, các tổ trưởng chuyên môn, cốt cán bộ môn, các tổ chức khác trong nhà trường cùng các giáo viên hướng dẫn rà soát các tiến độ, yêu cầu của các dự án định kỳ. Nhà trường căn cứ vào hiệu quả có thể đạt được, có tính khả thi quyết định cấp kinh phí đầu tư cho quá trình thực hiện dự án của học sinh. Phối hợp với gia đình để tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tham gia làm, thực nghiệm sản phẩm. + Trường công khai kế hoạch khen thưởng, tuyên dương kịp thời tiến độ sản phẩm có hiệu quả, có tính thuyết phục cao, đôn đốc nhắc nhở các giáo viên phụ trách các lĩnh vực không có ý tưởng có giá trị tiếp tục nghiên cứu dành cho cuộc thi năm sau hoặc các cuộc thi khác. Vinh danh các học sinh đạt giải để khích lệ học sinh và giáo viên Hiệu quả thu được Chất lượng giáo dục học sinh Hạnh kiểm tốt đạt 67,8% Học lực trung bình trở lên đạt 97% Học sinh tham gia thi ý tưởng: 28 ý tưởng /117 em Học sinh đạt giải ý tưởng khả thi: 17 ý tưởng /51 em Học sinh có dự án được nhà trường đầu tư: 3 dự án / 7 em Học sinh có dự án đi tham dự cấp tỉnh: 3 dự án / 7 em. Chất lượng nhà giáo Chất ượng nhà giáo được nâng lên. Vai trò và giá trị của người thầy được đề cao. Giáo viên yêu nghề, có trách nhiệm và có ý trí phấn đấu trong chuyên môn. Có tác dụng thúc đẩy nhanh sự tiến bộ và mức độ cập nhật, đổi mới của nhà giáo. Các chỉ tiêu nhiệm vụ năm học Phong trào thi đua dạy tốt, học tốt đã tác động tích cực toàn diện đến họat động giáo dục của nhà trường. Các chỉ tiêu nhiệm vụ năm học nhà trường không những đạt mà tăng năng xuất, hiệu quả lao động đã góp phần không nhỏ trong nhiệm vụ phấn đấu chuẩn quốc gia về chất lượng giáo dục. Chất lượng và số lượng dự án tham gia Năm 2012-2013, do triển khai chaamk nên nhà trường chỉ có 2 ý tưởng và chọn ra được 1 ý tưởng có giá trị, đầu tư thành dự án tham gia có giải. Năm 2013-2014 trường có 28 ý tưởng, sau vòng sơ khảo có 17 ý tưởng khả thi, sau vòng trung khảo chọn được 3 ý tưởng để đầu tư thành dự án và 3 dự án tham gia thi cấp tỉnh, trong đó 1 dự án thi quốc gia đạt giải. Có thể nói số lượng đó không nhiều nhưng cũng không nhỏ. Kết thúc cuộc thi năm học này đã bắt đầu cuộc thi năm học tiếp theo. Hiệu quả sau mỗi cuộc thi Sự tác động không nhỏ từ thành tựu đạt được đã tác động tích cực đến mỗi giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh và những người quan tâm đến lĩn vực giáo dục. Nó khẳng định không phải chỉ có học sinh giỏi mới có thể đạt được thành tích trong quá trình học tập, không phải chỉ có các môn văn hóa là sân chơi bổ ích và duy nhất trong đối tượng học sinh. Trường lấy kết quả, hình ảnh trong Hội thi để tuyên truyền khích lệ, so sánh với chất lượng và năng lực Thầy – Trò nhà trường, giao nhiệm vụ, triển khai ngay cuộc thi tới, căn cứ bài học kinh nghiệm rút ra trong năm qua, khắc phục hạn chế đến mức tối đa để thực hiện tốt năm học tới. Công tác vinh danh, trao thưởng cũng là vấn đề rất cần thiết, cần được quan tâm trong nhà trường. Học sinh và giáo viên đạt giải Khen thưởng kịp thơì, tiếp tục đề nghị khen thưởng lên cấp trên. Tiếp tục bồi dưỡng giáo viên, đề xuất bổ nhiệm để giáo viên tiếp tục phát huy, cống hiến. Kết luận Ý nghĩa Đây là một hoạt động chuyên môn rất bổ ích, có giá trị đối với các nhà trường ở vùng không thuận lợi, học sinh hạn chế về khả năng nhận thức các môn văn hóa cơ bản, nhưng lại cần cù chăm chỉ, mong muốn được tiến bộ. Công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ và chất lượng giáo dục cũng từ đó nâng lên. Chất lượng mũi nhọn được cải thiện và hy vọng ngaoif phong trào thi đua dạy tốt, học tốt còn là hướng đi của các trường vùng khó khăn trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tạo tâm thế và thành tích cho các nhà trường. Trong cuộc thi các cấp đã làm tăng mối quan hệ mật thiết, thân thiện, thực tiễn giữa nội dung chương trình với cuộc sống hàng ngày. Giúp học sinh có cách tiếp cận khác, góc nhìn khác về việc học tập. Khả năng áp dụng và phát triển Đây là kinh nghiệm, có thể áp dụng cho một số đơn vị trường có cùng điều kiện ở vùng khó khăn, vùng chậm phát triển. Giúp cho hoạt động chuyên môn của các đơn vị trường phong phú thêm. Ngoài ra các trường ở vùng thuận lợi có thể tham khảo. Bài học kinh nghiệm Trước hết Hiệu trưởng phải l
Tài liệu đính kèm: