SKKN Một số kinh nghiệm tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy văn bản ở môn ngữ văn bậc Trung học cơ sở

SKKN Một số kinh nghiệm tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy văn bản ở môn ngữ văn bậc Trung học cơ sở

*Tích hợp dọc. Tích hợp dọc là sự tích hợp kiến thức giữa ba phân môn Văn( Phần văn bản) – Tiếng Việt – Tập làm văn lớp trong cấu tạo chương trình của lớp học trên với lớp dưới, và ngược lại của lớp dưới và lớp trên.

* Tích hợp liên môn: Tích hợp liên môn là sự tích hợp những kiến thức có liên quan ở các bộ môn khác có liên quan đến nội dung văn bản.

 Đó là những hình thức tích hợp có thể vận dụng dễ dàng trong dạy học Ngữ văn. Tuy nhiên, tích hợp trong dạy học Ngữ văn không những đòi hỏi giáo viên phải nắm vững và có cái nhìn bao quát nội dung chương trình mà còn có sự hiểu biết nhất định về nội dung các môn học khác (Lịch sử, Địa lý, GDCD, Âm nhạc, Mĩ thuật, .) để chủ động lựa chọn và linh hoạt hướng dẫn học sinh liên hệ, đối chiếu, vận dụng kiến thức của các môn học đó vào quá trình phân tích,tìm hiểu và giải quyết các vấn đề liên quan trong quá trình học tập phần văn bản. Ví dụ khi dạy bài thơ Viếng lăng Bác - Lớp 9

Đối với tích hợp ngang. Khi dạy bài này, GV tích hợp với văn tự sự có sử dụng yếu tố miêu tả, biểu cảm. Vì thế, giáo viên cần hướng dân HS tìm hiểu yếu tố tự sự, miêu tả và nghị luận trong bài thơ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố đó đã giúp tác giả thể hiện sâu sắc hơn niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng thành kính vừa tự hào vừa đau xót của tác giả khi vào lăng viếng Bác. Từ đó giúp HS có thêm kinh nghiệm để viết bài văn tự sự có hiệu quả.

 

doc 25 trang Người đăng Hoài Minh Ngày đăng 15/08/2023 Lượt xem 432Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy văn bản ở môn ngữ văn bậc Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hín mùa xuân”vv. Giao cho một số em có năng khiếu Âm nhạc chuẩn bị nội dung hát bài Viếng lăng Bác của nhạc sĩ Trần Hoàn phổ thơ Viễn Phương. Một nhóm khác thì chuẩn bị tìm hiểu về quá trình, hoàn cảnh, những tư liệu hình ảnh liên quan đến Lăng Bác Hồ. Một nhóm chuẩn bị sưu tầm những bài thơ, đoạn thơ câu thơ viết về trăng của Bác hoặc một số câu thơ, bài thơ ca ngợi về Bác.
- Giải pháp 2: 
+ Nội dung: Phát triển năng lực học sinh qua hoạt động khởi động giới thiệu bài).
+ Cách thức thực hiện giải pháp:
 Mỗi tác phẩm văn học là một sáng tạo nghệ thuật, thông qua hình tượng văn học - hình tượng thơ, hình tượng nhân vật. Văn chương đến với người tiếp nhận bằng sự rung động của trái tim. Chính bởi vậy khi chuẩn bị vào tìm hiểu một tác phẩm văn chương thì việc tạo tâm thế cho học sinh giống như một sự khơi gợi và dẫn dắt học sinh đi vào tác phẩm tìm hiểu và cảm nhận nó một cách sâu sắc nhất, hiệu quả nhất. Như vậy khâu vào bài ( giới thiệu bài) là hết sức quan trọng và có ý nghĩa. Để thực hiện khâu vào bài hiệu quả mà quan trọng nhất là cách tổ chức sao cho phát huy được năng lực người học mới là khâu then chốt. Nếu như trước đây, trước khi vào bài mới giáo viên giới thiệu bài bằng cách thuyết giảng một mình, học sinh nghe, thì dạy học theo định hướng phát triển năng lực cách vào bài được thực hiện bằng nhiều cách như, tùy vào điều kiện, nội dung, tính chất từng bài và thực tế mà chúng ta lựa chọn cách thực hiện sao cho phù hợp, sau đây là một số cách vào bài:
* Cách thứ nhất: Yêu cầu học sinh trình bày những ngữ liệu văn học liên quan đến đề tài, nội dung của văn bản đang học. Ví dụ khi học bài thơ: Đồng chí của Chính Hữu giáo viên yêu cầu học sinh trình bày một số đoạn thơ viết về đề tài người lính trong thời kháng chiến chống Pháp chẳng hạn : Chín năm làm một Điện Biên- Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng (Tố Hữu) Từ những câu thơ, đoạn thơ hay các ngữ liệu liên quan học sinh sẽ tự trình bày cảm nhận cá nhân về nội dung ngữ liệu. Từ đó liên hệ sang nội dung văn bản sẽ học. Như vậy với giải pháp này học sinh sẽ có cơ hội phát huy năng lực giao tiếp, năng lực cảm thụ thẩm mĩ.
* Cách thứ hai: Giáo viên cung cấp ngữ liệu bằng những đoạn Video clip, những đoạn phim tư liệu liên quan đến đề tài, hoặc một vấn đề nào đó của nội dung bài học. Ví dụ khi dạy văn bản: Cô Tô, giáo viên sẽ cung cấp đoạn phim tư liệu về vùng đảo Cô Tô. Sau khi xem xong giáo viên sẽ phát phiếu học tập hoặc trực tiếp đặt câu hỏi để học sinh trình bày ý kiến riêng của cá nhân, từ cảm nhận chung ấy về vùng đảo Cô Tô giáo viên sẽ liên kết qua nội dung bài mới.
* Cách thứ ba: Tạo tình huống giả định liên quan đến nội dung văn bản để học sinh giải quyết. Khi đặt học sinh vào tình huống có vấn đề học sinh vừa phát huy năng lực tư duy, năng lực giao tiếp tiếng Việt và một số năng lực khác, đặc biệt là học sinh từ tình huống đó sẽ kích thích sự tò mò khám phá,tìm hiểu nội dung văn bản đang học. Ví dụ: Khi dạy văn bản: Bức tranh của em gái tôi, giáo viên giới thiệu bài bằng cách tạo tình huống: Trong cuộc thi Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề trong thực tế vừa qua, bạn Nguyễn Văn A của lớp mình đạt giải Nhất cấp Huyện, còn em thì không đạt giải gì cả, trước thành công của bạn A, tâm trạng của em như thế nào và thái độ của em với bạn lúc đó ra sao? Trước tình huống này mỗi em học sinh sẽ bày tỏ ý kiến của riêng mình và chắc chắn sẽ có nhiều ý kiến khác nhau. Có thể có em là sự vui mừng, có thể có em buồn, có em ghen tị; còn thái độ đối với bạn A có em là chơi thân với bạn hơn, có em thì giữ khoảng cách. Từ ý kiến của các em giáo viên dẫn dắt và liên kết sang bài mới. Hoặc khi dạy văn bản: Cuộc chia tay của những con búp bê giáo viên giới thiệu bài bằng cách tạo tình huống: giả sử chúng ta đang sống trong một gia đình êm ấm hạnh phúc, bỗng một ngày được bố mẹ thông báo bố mẹ sẽ chia tay nhau, em phải sống với bố hoặc mẹ, tâm trạng em lúc đó sẽ như thế nào? Từ tình huống này học sinh sẽ trình bày suy nghĩ của mình, từ đó giáo viên dẫn dắt vào nội dung Bài học.
- Giải pháp 3: 
+ Nội dung: Phát huy năng lực học sinh qua các hoạt động dạy học bài mới.
+ Cách thức thực hiện giải pháp:
Đây là bước quan trọng nhất vì các hoạt động dạy học sẽ tập trung ở dạy học bài mới. Các năng lực chung và năng lực chuyên biệt sẽ được thể hiện chủ yếu qua các hoạt động dạy học bài mới. Vì vậy trước tiên giáo viên phải xác định rõ những năng lực nào sẽ hình thành cho học sinh và ứng với những năng lực đó là các hoạt động nào? Như vậy mấu chốt của việc phát triển năng lực học sinh ở khâu dạy bài mới là cách điều hành tổ chức của người thầy. Trong đó việc đầu tiên là khâu đặt câu hỏi. Trong quá trình đi tìm hiểu phân tích một tác phẩm hay đoạn trích bên cạnh các câu hỏi thông thường bấy lâu nay chúng ta vẫn sử dụng thì tăng thêm các loại câu hỏi đòi hỏi học sinh phải có sự tư duy mới trả lời được. Qua các câu hỏi này học sinh sẽ phát huy các năng lực của mình. Ở đây cần phân loại một số dạng câu hỏi đặc trưng như sau:
Dạng câu hỏi so sánh liên hệ: Dạng câu hỏi này phát sinh khi bắt gặp một vấn đề trong văn bản liên quan đến một nội dung của một vắn bản đã học trước đó, khi thực hiện dạng câu hỏi này một mặt giúp học sinh ôn lại nội dung kiến thức đã học đồng thời liên hệ, so sánh với nội dung mới nảy sinh. Ví dụ khi dạy bài Viếng lăng Bác khi phân hai câu thơ: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng - Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” giáo viên đặt câu hỏi: hình ảnh mặt trời trong hai câu thơ khiến em liên tưởng đến một hình ảnh ẩn dụ là mặt trời trong một bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã được học, em hãy nhận xét về điểm giống nhau và khác nhau trong cách diễn đạt cũng như nội dung ý nghĩa. Từ câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải tư duy, liên hệ rồi so sánh để trình bày ý kiến của mình. Hay khi phân tích khổ thơ cuối trong bài Viếng lăng Bác giáo viên đặt câu hỏi: so sánh ước nguyện của nhà thơ Viễn Phương với ước nguyện của nhà thơ Thanh Hải được thể hiện trong bài Mùa xuân nho nhỏ. Câu hỏi này sẽ giúp học sinh phát huy được nhiều năng lực như năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực giao tiếp tiếng Việt và các năng lực khác để tìm ra điểm giống nhau, sự gặp nhau về ý tưởng về những ước nguyện đẹp đẽ của mỗi nhà thơ, có sự giống nhau nhưng cũng có sự khác nhau. 
Dạng câu hỏi sắm vai giả định: dạng câu hỏi này sẽ yêu cầu học sinh sắm vai hoặc giả định là nhân vật trong văn bản để học sinh tự thể hiện tâm trạng, suy nghĩ hành động của nhân vật, tức là học sinh sẽ được trải nghiệm mình là nhân vật, học sinh phải có sự liên tưởng, nhập vai và có sự hiểu biết về nhiều mặt mới giải quyết được, như vậy vừa tạo sự hứng thú mà năng lực cá nhân của học sinh sẽ được bộc lộ (Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là học sinh sẽ làm sai lệch nội dung, ý nghĩa của truyện) Ví dụ khi dạy văn bản: Chuyện người con gái Nam Xương sau khi phân tích xong chi tiết “cái chết của Vũ Nương” giáo viên đặt câu hỏi. nếu em là Vũ Nương trong xã hội ngày nay thì trước sự vu oan của chồng em sẽ hành động như thế nào. Câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải tư duy bởi đây là một tình huống mà đòi hỏi học sinh phải có kiến thức về xã hội, vừa phải đặt mình vào nhân vật trong truyện. Nhân vật Vũ Nương là nhân vật trong xã hội phong kiến, còn ở đây tình huống là trong xã hội ngày nay, khi hoàn cảnh sống đã thay đổi, số phận người phụ nữ đã thay đổi, họ không chỉ được đối xử bình đẳng mà họ còn được pháp luật bảo vệ. Như vậy với dạng câu hỏi này sẽ giúp học sinh phát huy được nhiều năng lực của mình. Học sinh còn được bày tỏ chính kiến, cách giải quyết vấn đề của riêng mình.
- Giải pháp 4: 
+ Nội dung: Phát huy năng lực học sinh qua tổ chức hoạt động theo nhóm.
+ Cách thức thực hiện giải pháp: Tổ chức hoạt động theo nhóm là phương pháp dạy học tích cực và hiệu quả. Tuy nhiên để làm được điều này thì cách tổ chức của người thầy là vô cùng quan trọng. Nếu giáo viên không biết cách tổ chức và điều hành thì vô hình chung sẽ tạo cơ hội cho một số em có thói quen ỷ lại trở nên lười biếng, không tham gia vào các nhiệm vụ chung của nhóm. Hình thức và cách thức thảo luận nhóm trong quá trình dạy học khá phong phú như thảo luận theo bàn, thảo luận theo cặp, nhóm nhiều học sinh. Khi thảo luận nhóm có thể sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực. Tuy nhiên với điều kiện về cơ sở vật chất như hiện nay đặc biệt là với thời gian của một tiết dạy 45 phút thì việc áp dụng thảo luận nhóm theo kĩ thuật Khăn trải bàn là một trong những sự lựa chọn phù hợp và hiệu quả nhất. Bởi khi thảo luận bằng kĩ thuật khăn trải bàn thì mỗi cá nhân của nhóm đều phải thực hiện và ghi kết quả của mình vào bảng, sau đó cả nhóm thống nhất chọn lọc, tổng hợp kết quả để ghi vào kết quả của nhóm. Như vậy với hình thức thảo luận này thì cá nhân cũng làm việc, phải tư duy nhưng sau đó lại phải liên kết, thống nhất thông tin mà vấn đề giáo viên đặt ra. Phần cơ sở vật chất cho kĩ thuật này cũng đơn giản, không tốn kém. Cách thực hiện như sau: giáo viên giao nhiệm vụ thảo luận, nội dung, thời gian. Mỗi nhóm sẽ trình bày vào một tờ giấy được chia đều cho các thành viên trong nhóm, mỗi thành viên sẽ trình bày ý kiến của mình vào một góc, sau đó nhóm trưởng sẽ chắt lọc, lấy ý kiến của từng thành viên trong nhóm đi đến thống nhất. Có thể mô phỏng hình thức thảo luận nhóm theo kĩ thuật Khăn trải bàn như sau:
 ( Nguồn: Tài liệu tập huấn chuyên môn dành cho vùng khó khăn nhất)
Bên cạnh đó thì tùy vào điều kiện và thời gian giáo viên có thể lựa chọn các kĩ thuật dạy học tích cực khác. Để việc thảo luận nhóm đạt hiệu quả dạy học cao và quan trọng là phát huy được năng lực người học thì người thầy đóng vai trò quan trọng. Trong đó khâu đầu tiên là lựa chọn nội dung thảo luận và xác định những năng lực sẽ được thể hiện và phát huy qua hoạt động thảo luận này. Khi lựa chọn những nội dung thảo luận phải lựa chọn những vấn đề lớn, những vấn đề đòi hỏi sự hợp tác tư duy, trí tuệ tập thể; tránh lựa chọn những vấn đề đơn giản, thảo luận theo hình thức đối phó thì việc thảo luận không đạt hiệu quả. Ví dụ khi dạy đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích khi phân tích-tìm hiểu về nỗi nhớ của Thúy kiều giáo viên chọn câu hỏi: Dưới xã hội phong kiến chữ “hiếu” luôn đặt lên trên chữ “tình”, và ngay cả với Thúy Kiều phải đặt trong sự lựa chọn “bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn” Kiều đã chọn bán mình cứu cha và gia đình mà phụ tình Kim trọng. Thế nhưng trong đoạn trích này khi diễn tả nỗi nhớ của Thúy Kiều dành cho người thân Kiều lại nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau? Hoặc khi dạy 
 bài thơ: Đồng chí của Chính Hữu khi phân tích- tìm hiểu khổ thơ cuối:
 “Đêm nay rừng hoang sương muối
 Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
 Đầu súng trăng treo”
 Giáo viên có thể đặt câu hỏi để thảo luận nhóm như sau: Hình ảnh súng và trăng gợi ra những ý nghĩa liên tưởng nào?
	Với những nội dung câu hỏi thảo luận như vậy, đòi hỏi học sinh phải huy động sự hiểu biết của mình không chỉ ở nội dung văn bản đang học mà còn sự liên tưởng, suy luận kết hợp với sự liên kết kiến thức ở nhiều phương diện khác. Như vậy học sinh sẽ phát huy hết các năng lực tư duy như năng lực giao tiếp và sử dụng tiếng Việt, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực hợp tácvv.
- Giải pháp 5: 
 + Nội dung: Phát huy năng lực học sinh qua việc tích hợp kiến thức.
 + Cách thức thực hiện giải pháp: Chương trình Ngữ văn THCS hiện hành gồm 03 phân môn: Văn bản – Tiếng Việt – Tập làm văn. Nội dung của chúng được biên soạn theo nguyên tắc đồng tâm, trên cơ sở lấy 06 kiểu văn bản- sáu phương thức biểu đạt chính: tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết minh, điều hành làm trục đồng quy với một sự tiếp nối, kế thừa và phát triển nâng cao rất lôgíc và hợp lí. Vì thế, một trong những yêu cầu quan trọng của bộ môn Ngữ văn là dạy học tích hợp. Tích hợp trong dạy học Ngữ văn không nằm ngoài mục đích giúp học sinh nắm vững, hiểu sâu và biết vận dụng kiến thức trong học tập cũng như trong hoạt động giao tiếp hằng ngày. Tích hợp trong dạy học Ngữ văn gồm có một số hình thức sau: 
*Tích hợp dọc. Tích hợp dọc là sự tích hợp kiến thức giữa ba phân môn Văn( Phần văn bản) – Tiếng Việt – Tập làm văn lớp trong cấu tạo chương trình của lớp học trên với lớp dưới, và ngược lại của lớp dưới và lớp trên.
* Tích hợp liên môn: Tích hợp liên môn là sự tích hợp những kiến thức có liên quan ở các bộ môn khác có liên quan đến nội dung văn bản.
 Đó là những hình thức tích hợp có thể vận dụng dễ dàng trong dạy học Ngữ văn. Tuy nhiên, tích hợp trong dạy học Ngữ văn không những đòi hỏi giáo viên phải nắm vững và có cái nhìn bao quát nội dung chương trình mà còn có sự hiểu biết nhất định về nội dung các môn học khác (Lịch sử, Địa lý, GDCD, Âm nhạc, Mĩ thuật, ...) để chủ động lựa chọn và linh hoạt hướng dẫn học sinh liên hệ, đối chiếu, vận dụng kiến thức của các môn học đó vào quá trình phân tích,tìm hiểu và giải quyết các vấn đề liên quan trong quá trình học tập phần văn bản. Ví dụ khi dạy bài thơ Viếng lăng Bác - Lớp 9
Đối với tích hợp ngang. Khi dạy bài này, GV tích hợp với văn tự sự có sử dụng yếu tố miêu tả, biểu cảm. Vì thế, giáo viên cần hướng dân HS tìm hiểu yếu tố tự sự, miêu tả và nghị luận trong bài thơ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố đó đã giúp tác giả thể hiện sâu sắc hơn niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng thành kính vừa tự hào vừa đau xót của tác giả khi vào lăng viếng Bác. Từ đó giúp HS có thêm kinh nghiệm để viết bài văn tự sự có hiệu quả.
Đối với tích hợp dọc, giáo viên chủ động, linh hoạt hướng dẫn HS liên hệ, đối chiếu bài thơ “Viếng lăng Bác” với bài thơ “ Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ về đề tài: Lãnh tụ. Nhưng cách thể hiện của mỗi lại khác nhau cho nên tuy giống nhau về chủ đề nhưng cách thể hiện không lại không trùng lặp. Điều này vừa cho thấy sự sáng tạo của các nhà thơ khiến cho mỗi tác phẩm đều có một sức lôi cuốn, hấp dẫn riêng.
Tích hợp liên môn. Nguyên tắc dạy học Ngữ văn là phải đặt tác phẩm trong hoàn cảnh phát sinh, vì bất kì tác phẩm văn chương nào cũng mượn những vật liệu có ở thực tại để phản ánh cuộc sống. Nói như vậy có nghĩa là dạy học tác phẩm văn chương có mối quan hệ mật thiết với kiến thức lịch sử và địa lí. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được Viễn viết năm 1976 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ vừa kết thúc, đất nước thống nhất, lăng Bác cũng vừa được khánh thành, cho nên giáo cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu một số nét nổi bật về hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trong giai đoạn này để hiểu bài học được bền vững và sâu sắc hơn. Ngoài ra, giáo viên cũng có thể liên hệ kiến thức Giáo dục công dân, môn Mĩ thuật để vừa giáo dục tình cảm, thái độ sống tích cực, vừa rèn luyện khiếu thẩm mĩ cho các em.
 Từ những nội dung tích hợp của giáo viên trong quá trình dạy học, học sính sẽ biết vận dụng những kiến thức liên môn để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập. Ví dụ khi phân tích bốn câu thơ đầu trong bài mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải- Ngữ văn 9 :
 “Mọc giữa dòng sông xanh
 Một bông hoa tím biếc
 Ơi con chim chiền chiện
 Hót chi mà vang trời”
Với bốn câu thơ này bên cạnh việc am hiểu kiến thức về văn học thì để cảm thu được vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên đất trời mà Thanh Hải miêu tả trong bốn câu thơ thì học sinh phải vận dụng sự hiểu biết kiến thức môn Mĩ thuật để phân tích bức tranh xuân đẹp, hài hòa từ màu sắc đến bố cục, kiến thức về Địa lí: tìm hiểu về Huế để hiểu thêm về “dòng sông xanh” mà Thanh Hải nhắc đến trong bài thơ.Như vậy nếu không có kiến thức về môn Mĩ thuật, môn Địa lí thì học sinh không thể làm hiểu một cách thấu đáo sâu sắc nội dung, nghệ thuật bốn câu thơ này,không thể cảm nhận được hết vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên đất trời vừa có những nét chung nhưng cũng có những nét đặc trưng của xứ Huế.
- Giải pháp 6: 
 + Nội dung: Phát huy năng lực học sinh qua luyện tập, làm bài tập, kiểm tra.
 + Cách thức thực hiện giải pháp: Đối với phần văn bản thì trong một bài, một tiết nội dung các bài tập ở phần luyện tập ít. Chính bởi vậy đôi khi giáo viên xem nhẹ. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc cho học sinh thực hiện các bài tập, tăng luyện tập cho học sinh rất quan trọng. Bởi nhiều lí do như kiểm tra được sự lĩnh hội kiến thức củ học sinh, tạo điều kiện để các em vận dụng kiến thức đã được học, kết hợp với các năng lực của bản thân để giải quyết nội dung các bài tập. Tuy nhiên để làm được điều này thì điều quan trọng nhất là nội dung các bài tập. Lâu nay theo thói quen sau khi dạy xong bài mới nếu còn thời gian thì giáo viên sẽ cho làm một số bài tập trong sách giáo khoa hoặc thôi. Như vậy việc luyện tập chưa phát huy hết năng lực học sinh. Như vậy để phát huy năng lực người học qua hoạt động luyện tập,làm bài tập đạt hiệu quả thì cần tập trung vào các dạng bài tập sau:
Dạng bài tập vận dụng nâng cao: Ví dụ sau khi học xong “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” -Phạm Tiến Duật, Giáo viên ra bài tập: 
 Đọc kĩ hai câu thơ sau và trả lời câu hỏi:
 Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
 Chỉ cần trong xe có một trái tim
Nêu ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh trái tim trong hai câu thơ trên,Từ đó hãy nêu suy nghĩ về trách nhiệm của con người Việt Nam đối với đất nước.
 Như vậy với bài tập này học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức đã học về bài thơ, về kiến thức phân môn Tiếng Việt, vừa kết hợp với kiến thức lịch sử, xã hội để liên hệ mở rộng từ ý nghĩa của một hình ảnh có trong văn bản. Các năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực sử dụng tiếng Việt và các năng lực khác sẽ được phát huy.
Dạng bài tập sử dụng ngữ liệu có trong văn bản để khai thác câu hỏi, dạng câu hỏi này là dạng phổ biến hiện nay khi đặc biệt với học sinh bậc THCS theo đánh giá chuẩn PISA, thường xuyên xuất hiện trong đề thi học kì, đề thi tốt nghiệp THPT và đề thi đại học, như vậy với học sinh bâc THCS khi ra đề dạng này thì cần lực chọn nội dung phù hợp hơn để học sinh vừa vận dụng những kiến thức đã được học vừa có sự tư duy về nhiều mặt để giải quyết, đồng thời vừa được làm quen với dạng đề ở cấp học cao hơn đó bậc THPT. 
 Ví dụ 1:
 Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng vươn vai nói to: 
 - Hà, nắng gớm, về nào
 Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú: 
 - Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ mỗi đứa cho một nhát! 
 Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi.Ông thoáng nghĩ tới mụ chủ nhà.
 Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường(). Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầuÔng lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên:
Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.
 (Trích truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân, SGK Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục). 
Đọc kĩ đoạn trích trên và thực hiện các yêu cầu sau: 
 	a, Đoạn trích trên đã thể hiện tâm trạng của nhân vật ông Hai như thế nào? Tình huống nào dẫn đến tâm trạng đó của ông ?
b,Xác định hình thức độc thoại, độc thoại nội tâm có trong đoạn trích trên? Căn cứ vào đâu để em xác định được các hình thức đó? 
 	 c, Từ diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai trong đoạn trích trên đã gợi cho em những suy nghĩ gì về tình yêu quê hương, đất nước của con người Việt Nam. (Trình bày bằng một đoạn văn khoảng 7 dòng trên tờ giấy thi)
 Ví dụ 2: Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi .
“ Chúng tôi, mọi người - kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi. Nhưng thật lạ lùng, đến lúc này, tình cha con như bỗng trỗi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu lên :
 - Ba... a... a... ba!
Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan của mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ ba” như vỡ tung ra từ lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó dựng đứng lên.”
a, Đoạn văn trên trích trong văn bản nào? Nêu tên tác giả?
b, Đoạn văn trên đã thể hiện thái độ và hành động của nhân vật bé Thu trong hoàn cảnh nào? Nêu suy nghĩ của em về thái độ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_to_chuc_cac_hoat_dong_day_hoc_theo_d.doc