SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 tuổi học tốt môn làm quen văn học tại trường mầm non Cư Pang

SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 tuổi học tốt môn làm quen văn học tại trường mầm non Cư Pang

Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp.

 Để thực hiện tốt các giải pháp và biện pháp trên cần dựa tinh hình thực tể của lớp, của địa phương nơi mình công tác, Nguyên vật liệu làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ trong hoạt động là nguyên vật liệu mở, dễ tìm. và cần phải xây dựng kế hoạch cho trẻ theo từng quý xuyên suốt trong một năm học:

 Ví dụ:

 Tháng 9 và tháng 10: Tôi chú ý chọn những bài tập luyện tai nghe cho trẻ nhằm phát triển thính giác ( cho trẻ nghe những bài hát, những câu chuyện, những bài thơ, đồng dao theo chủ đề ). Tôi tạo mọi điều kiện để trẻ tập trung chú ý luyện khả năng chú ý thính giác cho trẻ thông qua các bài tập, trò chơi (Nghe thấu đoán tài, tai ai thính, ai đoán giỏi ), bản thân tôi cố gắng phát âm đúng, không phát âm sai vì trẻ ở lứa tuổi này có đặc điểm hay bắt chước. Sửa lỗi phát âm cho trẻ khi phát âm sai mọi lúc mọi nơi trong các hoạt động hàng ngày.

 Tháng 11 và tháng 12: Tôi tập trung vào việc làm thế nào để phát triển và tăng vốn từ cho trẻ?

 Lời nói của giáo viên cần phải chuẩn mực, nói diễn cảm, rõ ràng, giải thích nghĩa của từ khó giúp cho trẻ hiểu, nhớ và vận dụng được từ để đặt câu. Để đẩy mạnh sự phát triển khả năng vận động các cơ quan phát âm cần tập cho trẻ các bài tập luyện cơ quan phát âm thích hợp.

 

doc 21 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 1030Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 tuổi học tốt môn làm quen văn học tại trường mầm non Cư Pang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn, tình cô tròTrẻ cũng dần nhận ra có một xã hội ràng buộc con người với nhau trong lịch sử đấu tranh cách mạng, trong tình làng nghĩa xóm. Văn học có thể cần đề cập đến những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy và cả những phép màu còn tồn đọng trong tâm thức dân tộc. Đây cũng là đối tượng miêu tả của văn học làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần.
 Tâm lý học lứa tuổi mầm non của tác giả “Nguyễn Thị Ánh Tuyết – NXB Giáo dục 1994”.
 2. Thực trạng:
 Năm học 2015-2016 là năm học tiếp tục hưởng ứng và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các cuộc vận động do ngành phát động, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục dạy và học, nhưng để chất lượng giáo dục được nâng cao, tôi thiết nghĩ cả cô và trò chúng tôi cần phải cố gắng hơn trong quá trình thực hiện chương trình giáo dục mầm non. Riêng đối với trẻ năm tuổi sẽ phải chuẩn bị kỹ hơn về mọi mặt để trẻ có thể bước tiếp vào một môi trường hoàn toàn mới lạ đó là môi trường của trường tiểu học. Nhưng trẻ lại gặp khó khăn trong quá trình làm quen với tác phẩm văn học. Chính vì vậy nhiệm vụ của người giáo viên mầm non không chỉ giúp trẻ chiếm lĩnh được những kiến thức, những kỹ năng ở trường mầm non mà còn cần phải tạo cho trẻ có một tâm thế vững vàng, sẵn sàng bước vào lớp một để trẻ có thể mạnh dạn, tự tin tiếp cận môi trường của trường tiểu học một cách nhanh nhất và để làm được những điều đó thì việc chúng ta nên làm cho trẻ trước hết là cần phát triển ngôn ngữ rõ ràng mạch lạc cho trẻ, trẻ phải nghe, hiểu được lời nói thì mới có thể cảm nhận được tác phẩm văn học tốt hơn, 
           Do đặc điểm tâm lý của trẻ rất hiếu động, thích khám phá, tìm tòi, nên trẻ không thể chỉ ngồi nhìn và nghe cô giáo kể và đọc thơ. Chính vì vậy nếu không có đồ dùng  trực quan, không cho trẻ thao tác thực hành trên đồ vật đối tượng nhận biết thì trẻ dễ bị phân tán chú ý, mức độ hứng thú không cao, tri thức lĩnh hội được không sâu và hay bị quên, bước đầu thực hiện nội dung này tôi đã gặp những thuận lợi và không ít khó khăn.
2.1 Thuận lợi, khó khăn
 *Thuận lợi:
 Được sự quan tâm của ban lãnh đạo nhà trường, đã tạo mọi điều kiện về trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi, về cơ sở vật chất
 Bộ phận chuyên môn luôn tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp tập huấn, chuyên đềgiúp nâng cao hơn nữa chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên
 Bộ phận chuyên môn luôn cập nhập thông tin, xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục theo chương trình Mầm non mới, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình Mầm non mới.
 Phụ huynh quan tâm đến con em mình, luôn có sự phối hợp với giáo viên trong việc dạy dỗ các cháu và thường xuyên ủng hộ những nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và vui chơi cho các cháu.
 Học sinh cùng một độ tuổi.
 *Khó khăn
Trẻ ở lớp 100% là con em dân tộc thiểu số, đời sống kinh tế của các gia đình còn nhiều khó khăn.
Đa số các cháu lần đầu tiên đi học lớp mẫu giáo
Hơn 70% trẻ chưa nói rõ được tiếng phổ thông, trẻ giao tiếp với nhau chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ.
Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ thường bỏ bớt từ khi nói hoặc nói mất dấu
80% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức về mặt ngôn ngữ còn hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng.
70% trẻ nói, phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ của trẻ (Trẻ nói không có dấu)
Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp cũng như qua các hoạt động ở trường, đặc biệt là hoạt động cho trẻ tập làm quen với tác phẩm văn học.
2.2 Thành công, hạn chế 
*Thành công
Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua bộ môn làm quen văn học, tôi đã lên kế hoạch chương trình một cách cụ thể, lựa chọn các tác phẩm văn học phù hợp với độ tuổi của trẻ, kể cho trẻ nghe và sau đó cho trẻ kể lại truyện, tăng cường cho trẻ đọc thơ, chơi đóng kịch và đóng vai theo chủ đề
Dạy trẻ kể lại truyện, Dạy trẻ đọc thơ diễn cảm: Trẻ tái hiện lại một cách mạch lạc, diễn cảm tác phẩm văn học mà trẻ đã được nghe. Trẻ phải kể bằng ngôn ngữ của chính mình, truyền đạt nội dung một cách tự do thoải mái, sáng tạo nhưng phải đảm bảo nội dung cốt truyện.
Yêu cầu đối với trẻ: Kể nội dung chính của câu truyện, không yêu cầu trẻ kể chi tiết toàn bộ nội dung tác phẩm. 
Tôi đặc biệt lưu ý khi trẻ kể: Trẻ phải quay mặt xuống các bạn, kể với tốc độ vừa phải, giọng rõ ràng, tư thế tự nhiên. Trong quá trình kể, trẻ đứng sai tư thế, phát âm sai cô nên để trẻ kể xong mới sửa cho trẻ.
Khi cô gọi trẻ lên, trẻ không kể, cô nên đặt câu hỏi gợi ý để trẻ trả lời giúp trẻ mạnh dạn, có thói quen giao tiếp tốt.
 Bước đầu thực hiện đề tài đã mang lại cho tôi những thành công như: đến lớp trẻ hứng thú tham gia các hoạt động hơn, trẻ đã mạnh dạn tự tin hơn trong giao tiếp với mọi người cũng như trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cô giao trong các hoạt động, đặc biệt trẻ tích cực tham gia vào hoạt động đóng kịch hay đóng vai theo chủ đề 
 *Hạn chế:
 Bên cạnh những thuận lợi thì bản thân tôi cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài như: việc dạy trẻ đóng kịch còn có nhiều hạn chế, chưa sáng tạo trong quá trình hướng dẫn trẻ đóng kịch, nội dung trò chơi cũng cố cho hoạt động văn học còn hạn chế, trẻ chưa có sự chủ động nhập vai khi tham gia trò chơi đóng kịch dẫn nên câu truyện trở nên kém hấp dẫn.
 Đa số phụ huynh khi trò chuyện với con em họ đều sử dụng tiếng mẹ đẻ, trong khi ở trường cô giáo khuyến khích trẻ nói tiếng Việt thì ngược lại phụ huynh của các em lại sử dụng tiếng mẹ đẻ với các em, dẫn đến quá trình truyền tải kiến thức đến các em gặp nhiều khó khăn.
2.3 Mặt mạnh, mặt yếu 
*Mặt mạnh:
Nhà trường có cơ sơ vật chất, trang thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi tuy chưa được đa dạng nhưng vẫn tạo được sự mới lạ đối với trẻ, bản thân giáo viên luôn có ý thức cũng như tinh thần trách nhiệm cao trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
 Trẻ hứng thú tham gia các hoạt động một cách tích cực
 Trẻ thích được thể hiện mình trong trò chơi đóng kịch cũng như trong quá trình đọc thơ, kể chuyện  
 *Mặt yếu: 
 Khả năng trẻ cảm nhận các tác phẩm văn học còn hạn chế, giọng đọc và cách phối hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ, minh họa của cô đôi lúc chưa bộc lộ cảm xúc hấp dẫn lôi cuốn trẻ, phương pháp lồng ghép tích hợp chưa linh hoạt sáng tạo, trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ dùng dạy học chưa có khoa học, dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý hiệu quả trên tiết học chưa cao.
 2.4 Nguyên nhân và yếu tố tác động
 Khả năng cảm nhận tác phẩm văn học của trẻ còn hạn chế .
 Trẻ nói tiếng việt chưa lưu loát, phần lớn trẻ sử dụng câu cụt, trong quá trình đọc thơ, kể chuyện trẻ còn nhút nhác, chưa mạnh dạng. 
 Khả năng chuyển thể từ chuyện kể sang kịch bản sân khấu của cô còn hạn chế, không tạo ra được tính kịch - sự kiện - sự biến, lời thoại còn dài dòng khó hiểu, còn nặng nề trong việc dẫn chuyện làm cho kịch bản trở nên rời rạc kém hấp dẫn, phương pháp lồng ghép tích hợp chưa linh hoạt sáng tạo.
 2.5 Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng:
 *Mặt mạnh
Tác phẩm văn học thể hiện hiện thực cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật. Đối với trẻ mẫu giáo lớn thì sự quan tâm tới tác phẩm văn học sẽ giúp trẻ hiểu được nội dung tác phẩm, các nhân vật trong tác phẩm trở nên gần gũi dễ hiểu hơn. 
Làm quen với tác phẩm văn học còn là công việc mà cô giáo tổ chức để trẻ hứng thú bước vào hoạt động văn học nghệ thuật một cách tự nhiên như đọc thơ diễn cảm, kể lại truyện một cách sáng tạo, hóa thân vào các vai diễn trong trò chơi đóng kịchĐể trẻ trở thành một chủ thể hoạt động văn học nghệ thuật một cách tích cực, sáng tạo.
Bản chất giàu xúc cảm và tình cảm là nét tâm lý nổi bật của trẻ thơ khiến trẻ nhanh chóng bộc lộ cảm xúc, tình cảm khi nghe đọc và nhận thấy sự thể hiện của cô giáo. Tiếp nhận văn học của trẻ em ít bị ràng buộc bởi lí trí và chứa đựng tưởng tượng mạnh mẽ. 
	Khả năng chuyển thể từ chuyện kể sang kịch bản sân khấu của cô còn hạn chế, chưa tạo ra được tính kịch - sự kiện - sự biến, lời thoại trong câu truyện còn dài dòng, khó hiểu, còn nặng nề trong việc dẫn chuyện làm cho kịch bản trở nên rời rạc, kém hấp dẫn. trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ dùng dạy học chưa có khoa học, dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý hiệu quả trên tiết học chưa cao
3.Giải pháp, biện pháp:
 3.1.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 
Tìm ra các giải pháp, biện pháp giúp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học một cách tốt nhất, từ đó nhằm kích thích sự hứng thú sáng tạo...trong hoạt động làm quen với văn học của trẻ. 
 3.2.Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
 a.Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ
 Trên thực tế cho ta thấy tính cách cũng như đặc điểm tâm sinh lý của trẻ hoàn toàn khác nhau, mỗi trẻ có những đặc điểm riêng, có trẻ nhanh nhẹn nhưng cũng có trẻ rất nhút nhác chính vì vậy mà chúng ta cần tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để từ đó giáo viên có kế hoạch cũng như biện pháp phù hợp để hướng trẻ vào hoạt động.
Để hiểu được trẻ muốn gì? Trẻ cần gì? Trước hết người giáo viên phải gần gũi với trẻ, phải hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, luôn lắng nghe tâm tư nguyện vọng của trẻ, từ đó ta mới hiểu được trẻ cần gì 
Đặc điểm phát âm: Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, rõ. Trẻ vẫn còn phát âm sai những âm thanh khó hoặc phát âm bị mất dấu như: thịt - thich, quả bí – quả Bi ,Con Gấu - Con Gâu.. Tuy nhiên lỗi sai đã ít hơn.
Đặc điểm vốn từ: Vốn từ của trẻ tuy nghèo nàn song đã có sự phát triển rõ rệt
 Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian như: Cao - thấp, dài- ngắn, rộng - hẹp, các từ chỉ tốc độ như: nhanh - chậm, các từ chỉ màu sắc: Đỏ, vàng, trắng, đen. Ngoài ra các từ có khái niệm tương đối như: Hôm qua, hôm nay, ngày maimột số trẻ dùng từ còn chưa chính xác. Song bên cạnh đó một số trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như : xanh lá cây, tím, hồng
 Đa số trẻ biết sử dụng các từ cao, thấp, dài, ngắn, rộng, hẹp. có 75% số trẻ đếm được từ 1 – 10. Tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác. 
 Đặc điểm ngữ pháp: Câu trẻ dùng đã chính xác và dài hơn. Ví dụ: Cô ơi, Bạn Y Lok bị ốm không đi học (Cháu H’ Wăt )
Trẻ đã sử dụng các loại câu phức khác nhau. Ví dụ: Câu phức đẳng lập: Dê trắng run sợ. Dê trắng bị chó Sói ăn thịt
Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ dùng từ trong câu vẫn chưa thật chính xác: Ví dụ: Cô ơi! Không có áo (Khi cháu mở tủ cất áo mà chưa thấy áo của cháu) .
Trẻ có khả năng kể lại chuyện dưới sự hướng dẫn, hay gợi ý của cô
Chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tâm lý là điều vô cùng quan trọng, trẻ có một tinh thần tốt, luôn thoải mái, vui vẽ, hứng thú tham gia mọi hoạt động, và giải quyết tốt nhiệm vụ cô giao, điều này sẽ giúp trẻ có một niềm tin khi tham gia vào các hoạt động nói chung và hoạt động làm quen với tác phẩm văn học nói riêng. Văn học là phương tiện hiệu quả mạnh mẽ không chỉ đối với việc giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ mà nó còn ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
 Nội dung cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học được xác định theo hướng tích hợp chủ đề. Khi tiến hành chương trình đã đưa ra những nội dung thực hiện: 
 Kể và đọc truyện, cũng như đoc thơ cho trẻ nghe, dạy trẻ kể lại truyện, tổ chức trò chơi đóng kịch dựa vào tác phẩm văn học, dạy trẻ đọc thơ qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua diễn đạt bằng lời nói. 
b.Tạo môi trường học tập, rèn luyện cho trẻ:
Khi trẻ hoạt động tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các góc trong lớp cũng như sắp xếp đồ dùng, dụng cụ học tập sao cho vừa tầm của trẻ để trẻ có thể dễ dàng hoạt động với đồ dùng khi cần, luôn tạo môi trường vui chơi, học tập thoải mái cho trẻ.
Ví dụ: Khi thực hiện các hoạt động làm quen văn học mà trọng tâm là dạy kể chuyện sáng tạo thì tôi luôn tận dụng không gian lớp học để bày dụng cụ kể chuyện, khung sân sấu, sắp đặt tranh và các con rối sao cho trẻ dễ sử dụng, kích thích trẻ hoạt động tích cực hơn, tự chủ hơn.
Chú ý đến khả năng phát âm của trẻ để có sự điều chỉnh và sửa sai, rèn luyện khả năng ngôn ngữ cho trẻ.
Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể, cách sử dụng tranh, sách tranh, rối, mô hình để giúp trẻ cảm thụ đước tác phẩm văn học đó một cách tốt nhất.
c.Sử dụng các loại rối, trang phục, mô hình, học cụ thu hút sự chú ý của trẻ:
Do đặc điểm tâm lý của trẻ rất hiếu động, thích khám phá, tìm tòi, nên trẻ không thể chỉ ngồi nhìn và nghe cô giáo kể và đọc thơ. Chính vì vậy nếu không có đồ dùng  trực quan, không cho trẻ thao tác thực hành trên đồ vật đối tượng nhận biết thì trẻ dễ bị phân tán chú ý, mức độ hứng thú không cao, tri thức lĩnh hội được không sâu và hay bị quên. Nắm được tâm lý của trẻ Tôi sử dụng các nguyên vật liệu mở như: Ống tre, thanh tre, ly nhựa, hộp nhựa, hộp sữa, lõi giấy vệ sinh, các loại quả khô để làm thành những con rối, con vật ngộ nghĩnh. Trẻ cũng có thể sử dụng được để kể chuyện theo ý thích.
Ví dụ: Từ lõi giấy vệ sinh ta kết hợp với quả banh làm phần đầu, phần mình con rối, tóc làm bằng sợi len, miếng xốp trái cây bọc ra ngoài lõi giấy làm áo đầm và chú ý trang trí đa dạng màu sắc để thu hút trẻ. Có thể hướng dẫn để cháu làm theo.
Hoặc từ quả cau khô có thể làm thành con gà, hay từ quả mướp khô có thể làm thành con voi xinh sắn 
Để làm trang phục cho trẻ tôi dùng: Vải vụn, xốp bitis, giấy, túi nilon, lá cây tạo nhiều kiểu dáng trang phục lạ mắt.
Ví dụ: Từ những tờ giấy nilon gói quà có thể làm trang phục biểu diễn, đóng kịch Các đồ dùng trực quan tôi chuẩn bị cho trẻ theo mức độ từ đơn giản đến phức tạp. Khi trẻ sử dụng thành thạo tôi động viên khuyến khích trẻ, nếu trẻ còn lúng túng chưa thành thạo thì cô hướng dẫn tỉ mỉ các thao tác và sữa sai cho trẻ.
 Qua việc cho trẻ sử dụng các đồ dùng, đồ chơi tự tạo một cách trực tiếp và nhất là với những sản phẩm cô và trò tự tay làm tôi thấy trẻ tập trung chú ý một cách hứng thú, và trẻ hoạt động với các đồ dùng tích cực hơn.
 d.Tổ chức tiết học nhẹ nhàng, linh hoạt
Để tiết học của trẻ được vào một cách nhẹ nhàng, và gây hứng thú cho trẻ điều trước tiên đòi hỏi người giáo viên ngoài tình yêu nghề, mến trẻ cần phải có năng lực sư phạm trình độ chuyên môn tốt, hiểu được tâm lý trẻ. 
Từ những điều đó, bản thân tôi luôn tìm hiểu và sưu tầm những “Nghệ thuật lên lớp” để sử dụng vào bài một cách sinh động để thu hút sự chú ý của trẻ.
 Ví dụ: Chủ đề: “ Thế giới động vật” khi dạy với chủ đề: Một số con vật sống trong rừng. Kể chuyện: “ Dê con nhanh trí”, tôi sử dụng phương pháp làm đạo diễn dựng phim cho trẻ xem phim hoạt hình để gây sự hứng thú cho trẻ.
Tổ chức hoạt động đa dạng dựa vào hoạt động trọng tâm.
Ví dụ: Khi trọng tâm là kể chuyện sáng tạo, tôi cho trẻ lựa chọn cách sử dụng trang phục, đồ dùng phù hợp với nội dung câu chuyện trẻ sẽ kể dựa theo các hình thức khác nhau. 
Trẻ biết chia nhóm kể chuyện, tạo cho trẻ cảm giác tự tin, mạnh dạn, nhanh nhẹn và linh hoạt qua việc trẻ biểu diễn hoặc đóng kịch.
Tạo điều kiện cho trẻ tự thỏa thuận và tự chọn vai kể theo ý thích về sự sáng tạo của trẻ. Có thể dùng lời để khuyến khích , động viên trẻ thực hiện các vai diễn sáng tạo
 e. Làm quen văn học thể loại truyện kể kết hợp với các bộ môn khác:
Theo phương pháp dạy học tích hợp các bộ môn làm quen văn học có thể lồng ghép, kết hợp với tất cả các bộ môn khác và giúp cho các bộ môn khác trở nên sinh động hơn.
 Ví dụ: Môn Âm nhạc:
 Đề tài: Câu truyện: “ Nhổ củ cải ”có thể cho trẻ hát và vận động bài “Gieo hạt, trồng cây” hoặc cô có thể chuyển tải lời dẫn trong câu truyện thành câu hát để gây thêm hứng thú cho trẻ.
 Môn làm quen với môi trường xung quanh:
	 Đề tài: Động vật sống trong rừng, câu truyện “Chú Dê đen”, trẻ biết tên, đặc điểm, nơi sống của một số con vật nuôi trong rừng để từ đó trẻ có cách giải quyết vấn đề nhanh hơn khi gặp phải những tình huống xảy ra trong câu truyện (Vd : Con Dê là gia súc, chân có móng, đầu có sừng...những đặc điểm của con vật này trẻ đã nắm được trong môn làm quen với môi trường xung quanh và khi nhập vào vai với câu truyện thì trẻ đã có sẵn những kiế thức đó để diễn đạt. Qua các giờ học khác ta tích hợp cho trẻ làm quen văn học vào những lúc trò chuyện với trẻ theo đề tài đưa vào thơ chuyện, đồng dao vào giờ học. Bên cạnh việc cung cấp vốn từ cho trẻ còn giúp trẻ tìm hiểu về xung quanh. Hình thành cho trẻ tình cảm đối với con người, cuộc sống, giúp cho các giờ học hấp dẫn, lôi cuốn hơn, tránh sự nhàm chán và điều này sẽ giúp trẻ lĩnh hội kiến thức dễ dàng hơn trong hoạt động.
 g.Tổ chức ôn luyện mọi lúc mọi nơi, ôn luyện thông qua lễ hội:
 Thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội ở trường cũng như của lớp tôi đã mạnh dan đưa nội dung cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học vào lồng ghép, tổ chức hoạt động kể chuyện, đóng kịch theo một chương trình biểu diễn văn nghệ mà 100% trẻ được tham gia nhằm giúp trẻ hứng thú với bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể cho trẻ.
	Ví dụ: Lễ hội 20/11 trẻ kể truyện sáng tạo về thầy cô giáo, các hội thi bé kể chuyện giỏi, hoặc trong các buổi văn nghệ khai mạc lễ hội hay tọa đàm chúng tôi luôn lồng ghép các tiêt mục bé đọc thơ vào cho trẻ biểu diễn trẻ rất thích thể hiện và được khen, điều này giúp trẻ phát triển về trí tuệ, nhanh nhẹn, mạnh dạn trước mọi người và cảm nhận được vẽ đẹp, cái hay của văn học. Qua việc áp dụng một số biện pháp trong và ngoài giờ học. Lớp tôi chất lượng về môn Làm quen năn học tăng lên khá rõ, Các cháu rất thích học bộ môn này, cháu đã mạnh dạn hơn khi giao tiếp, thích trò chuyện cùng người lớn và đặc biệt rất thích tham gia vào hoạt động nói chung và hoạt động làm quen văn học nói riêng.
 h.Thực hiện tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh:
 Ở đội tuổi đến trường môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu. Chúng ta có thể tìm các nguồn nhiên liệu để làm đồ dùng từ phía phụ huynh. Ngay đầu năm học tôi đã tổ chức họp phụ huynh, tuyên truyền với phụ huynh về tầm quan trọng của việc cho trẻ đến trường để trẻ được làm quen với trường lớp, với các bạn, giao lưu với các bạn. Ngoài ra tôi còn trao đổi với phụ huynh về vấn đề chăm sóc và giáo dục trẻ ở trường cũng như ở nhà để cô giáo và phụ huynh cùng kết hợp dạy và chăm sóc cho trẻ tốt hơn. Đặc biệt tôi đề cập đến tầm quan trọng của việc đưa trẻ đến trường đúng độ tuổi vì khi đến trường trẻ sẽ được tham gia các hoạt động nói chung và hoạt động làm quen văn học nói riêng đây là môn học giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một các mạch lạc, giúp trẻ phát triển khả năng cảm thụ văn học, qua các tác phẩm trẻ hiểu biết về thế giới xung quanh .
  Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu , nguyên liệu như : giấy, sách, những lọ nhựa, vải vụn để làm rối kể chuyện cho trẻ.
 Làm bảng tin về chương trình dạy theo chủ đề và thay tin hàng tuần để phụ huynh biết và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm cho trẻ ở nhà, thường xuyên trao đổi, động viên phụ huynh cố gắng dành thời gian để trò chuyện với trẻ và lắng nghe trẻ nói. 
Khuyến khích hoặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. 
	3.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp.
	Để thực hiện tốt các giải pháp và biện pháp trên cần dựa tinh hình thực tể của lớp, của địa phương nơi mình công tác, Nguyên vật liệu làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ trong hoạt động là nguyên vật liệu mở, dễ tìm. và cần phải xây dựng kế hoạch cho trẻ theo từng quý xuyên suốt trong một năm học:
 Ví dụ:
	Tháng 9 và tháng 10: Tôi chú ý chọn những bài tập luyện tai nghe cho trẻ nhằm phát triển thính giác ( cho trẻ nghe những bài hát, những câu chuyện, những bài thơ, đồng dao theo chủ đề). Tôi tạo mọi điều kiện để trẻ tập trung chú ý luyện khả năng chú ý thính giác cho trẻ thông qua các bài tập, trò chơi (Nghe thấu đoán tài, tai ai thính, ai đoán giỏi), bản thân tôi cố gắng phát âm đúng, không phát âm sai vì trẻ ở lứa tuổi này có đặc điểm hay bắt chước. Sửa lỗi phát âm cho trẻ khi phát âm sai mọi lúc mọi nơi trong các hoạt động hàng ngày.
	Tháng 11 và tháng 12: Tôi tập trung vào việc làm thế nào đ

Tài liệu đính kèm:

  • docVO THI HIÊN.doc