Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc học sinh dân tộc Thiểu số tiếp thu chậm.
Khi thực hiện bất cứ một công việc gì, thì tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những tình trạng và hậu quả đó là vô cùng quan trọng. Để có những giải pháp thích hợp đem đến hiệu quả.
Ví dụ: Một giáo viên muốn tìm ra phương pháp giáo dục phù hợp cho đối tượng học sinh tiếp thu chậm ở lớp mình phụ trách, thì phải biết nguyên nhân vì sao một số em học sinh đó không chịu hợp tác với cô giáo trong giờ học, hoặc vì sao có em một chữ cái học đi học lại không thể nhớ, em khác thì trong giờ học chỉ nhìn ra ngoài sân
Vì vậy để thực hiện tốt các kế hoạch giáo dục đề ra, thì giải pháp tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc học sinh dân tộc Thiểu số tiếp thu chậm là vô cùng cần thiết tạo tiền đề cho các giải pháp tiếp theo có thành công hay không.
Để thực hiện giải pháp này, tôi thực hiện các biện pháp sau:
+ Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình: Tôi cùng với một số giáo viên chủ nhiệm trong khối 1 đi thực tế thăm gia đình của từng em thì đa số các em 100% là gia đình có hoàn cảnh khó khăn, em thì bố mẹ mãi kiếm sống, em thì bố mẹ bỏ nhau sống với họ hàng, em thì mồ côi cha hoặc mẹ Nên các em thiếu thốn về mọi mặt, sách vở, đồ dùng học tập chưa thật đầy đủ và bữa ăn sáng lúc đến trường bữa đói, bữa no, trong gia đình hoàn toàn giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, nhiều phụ huynh mù chữ. Do trình độ dân trí thấp nên nhận thức của họ về việc đi học và tiếp thu học tập như thế nào của con em mình vẫn còn thơ ơ, phó mặc cho giáo viên. Dẫn đến nhiều em đi học chưa chuyên cần, từ thực tế trên tôi cùng một số giáo viên chủ nhiệm khác phối hợp nhịp nhàng với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất cũng như tinh thần dành cho đối tượng những học sinh trên. Vận động gia đình thường xuyên cho các đi học chuyên cần, động viên các con đến trường vui vẻ và khen ngợi các con thường xuyên.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KRÔNG ANA TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐINH TIÊN HOÀNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ TIẾP THU CHẬM Ở LỚP 1 Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Linh Đơn vị công tác: Trường TH Đinh Tiên Hoàng Trình độ đào tạo: Đại học Môn đào tạo: Giáo viên Tiểu học Krông Ana, tháng 4 năm 2019 MỤC LỤC STT Nội dung Trang Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU 3 I Đặt vấn đề 3 II Mục đích (mục tiêu) nghiên cứu 3 Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3 I Cơ sở lí luận của vấn đề 3 II Thực trạng vấn đề 4 III Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 5-7 IV Tính mới của giải pháp 7 V Hiệu quả SKKN 7 Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị 8 I Kết luận 8 II Kiến nghị 8 Tài liệu tham khảo 10 Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề Ở Tiểu học, lớp Một được ví là cái móng đặt nền tảng cho cả cấp học, mỗi học sinh được hướng đến nền giáo dục phát triển toàn diện thì kĩ năng cơ bản của các em học xong lớp1 là phải biết đọc, biết viết, đặc biệt là các em học sinh dân tộc Thiểu số biết ngôn ngữ phổ thông để chiếm lĩnh kiến thức khi học dần lên. Hiện nay ở trường tôi vẫn có một số trường hợp học sinh DTTS tiếp thu chậm khi học xong lớp 1, khi lên các lớp trên qua thời gian hè các em dường như tái mù chữ, quên một số vần, từ khó, một số em viết tốc độ cực kì chậm và viết sai lỗi chính tả Vậy làm thế nào để học sinh dân tộc Thiểu số tiếp thu chậm ở lớp 1 có kĩ năng đọc được Tiếng Việt, đồng thời nắm được một số yêu cầu nội dung cần học ? Làm thế nào để học sinh tham gia học “ tiếng Việt ” một cách hứng thú ? Qua quá trình dạy học, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm “ Rèn kỹ năng đọc cho học sinh dân tộc Thiểu số tiếp thu chậm ở lớp Một”. II. Mục đích (mục tiêu) nghiên cứu Đề tài chỉ ra sự hình thành kỹ năng đọc yêu cầu mỗi học sinh đạt được trong môn Tiếng Việt trong chương trình lớp1. Giúp học sinh tiếp cận với những kỹ năng đọc đa dạng trong hệ thống câu hỏi rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt trong sáng và phong phú. Giúp các em kiểm tra lại kiến thức vốn từ và bổ sung thêm nhiều vốn từ mới . Đề tài giúp giáo viên lớp Một có thêm những kinh nghiệm dạy kĩ năng đọc trong môn tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số tiếp thu chậm ở lớp Một. Các em học sinh dân tộc thiểu số tiếp thu chậm có kĩ năng đọc được môn Tiếng Việt thì các em sẽ giao tiếp cởi mở, tự tin mạnh dạn trình bày ý kiến trong học tập, ham mê đọc sách, có nhiều vốn từ phong phú khi học phân môn Tập làm văn, có kỹ năng sử dụng từ ngữ phong phú và phù hợp trong các tình huống hằng ngày. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu và chữ viết, sử dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe, và dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc. Kỹ năng đọc là kỹ năng cần trau dồi thường xuyên, lâu dài nhất để mỗi cá nhân hình thành và phát triển bền vững năng lực học tập. Ở Mầm non các em được làm quen môn tiếng Việt qua bài hát, bài thơ, câu chuyện được giáo viên dạy đi dạy lại nhiều lần là chỉ cần thuộc lòng không cần biết mặt chữ, giai đoạn chơi nhiều hơn học. Nhưng bước qua giai đoạn cấp tiểu học khi đến với môn Tiếng Việt các em không chỉ đọc mà còn ghi nhớ, nhớ lại từ vựng để đọc và viết ra. Bắt đầu làm quen với âm, vần, tiếng từ, câu, đoạn văn và cả văn bản, ít nhất phải có kĩ năng tái hiện lại những kiến thức đã đọc, đã học để nghe viết và viết ra cho đúng chính tả. Từ đó nhằm nâng cao chất lượng học Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 đặc biệt đối tượng tiếp thu chậm học sinh dân tộc thiểu đạt hiệu quả là mối quan tâm của mỗi giáo viên dạy lớp 1 ngay từ đầu năm, đã tạo ra môi trường nói tiếng Việt thân thiện phong phú ở khắp mọi nơi. II. Thực trạng vấn đề Trường tôi nằm trên địa bàn buôn ÊCăm tỉ lệ học sinh dân tộc Thiểu số ngày càng tăng và hiện nay đã chiếm trên 70%. Khối 1 tổng số học sinh tiếp thu chậm môn Tiếng Việt 100% là học sinh dân tộc Thiểu số Ê Đê. Bên cạnh sự quan tâm và làm việc sáng tạo của Ban giám hiệu và có sự phối hợp khá nhịp nhàng của các đoàn thể trong và ngoài nhà trường với đội ngũ giáo viên khối 1 có kinh nghiệm và còn trẻ vui vẻ, gần gũi, thân thiện, thì trong quá trình giảng dạy giáo viên gặp không ít khó khăn. Từ phía gia đình của những em tiếp thu chậm môn tiếng Việt, 100% là dân tộc Thiểu số và có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ không có thời gian quan tâm vì cuộc sống mưu sinh và trình độ dân trí thấp, thậm chí nhiều phụ huynh mù chữ. Các em bước vào lớp Một với bao bỡ ngỡ, lạ thầy, lạ cô, lạ với môi trường học tập mới và thua các bạn dân tộc Kinh gần 2000 từ vựng là một rào cản ngôn ngữ, qua một mùa hè bảng 29 chữ cái học trước quên sau. Phần lớn đối tượng tiếp chậm rất rụt rè, thiếu tự tin. Qua quá trình dạy học và khảo nghiệm tôi có bẳng thống kê 2 năm gần đây của khối 1 như sau: Năm học Hoc sinh dân tộc Thiếu số tiếp thu chậm chưa biết đọc của khối 1. Đầu năm HK1 Tuần 32 2017-2018 10 6 4 2018-2019 14 10 III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Đầu năm học sau một vài tuần ổn định tôi bắt đầu khảo sát tình hình học tập và tiếp thu kiến thức của các em để phân loại đối tượng học sinh trong lớp và có phương pháp dạy học thích hợp. Tôi và các giáo viên trong khối Một, qua nhiều năm dạy học, có rất nhiều trăn trở, đã áp dụng những giải pháp và biện pháp khác nhưng tôi thấy hai giải pháp cơ bản dưới đây được thực hiện tại trường tôi đưa lại hiệu quả cao, được các tổ chuyên môn và giáo viên hưởng ứng, đồng tình, đặc biệt là Ban giám hiệu nhà trường khen ngợi, khích lệ thực hiện. Giải pháp 1: Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc học sinh dân tộc Thiểu số tiếp thu chậm. Khi thực hiện bất cứ một công việc gì, thì tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những tình trạng và hậu quả đó là vô cùng quan trọng. Để có những giải pháp thích hợp đem đến hiệu quả. Ví dụ: Một giáo viên muốn tìm ra phương pháp giáo dục phù hợp cho đối tượng học sinh tiếp thu chậm ở lớp mình phụ trách, thì phải biết nguyên nhân vì sao một số em học sinh đó không chịu hợp tác với cô giáo trong giờ học, hoặc vì sao có em một chữ cái học đi học lại không thể nhớ, em khác thì trong giờ học chỉ nhìn ra ngoài sân Vì vậy để thực hiện tốt các kế hoạch giáo dục đề ra, thì giải pháp tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc học sinh dân tộc Thiểu số tiếp thu chậm là vô cùng cần thiết tạo tiền đề cho các giải pháp tiếp theo có thành công hay không. Để thực hiện giải pháp này, tôi thực hiện các biện pháp sau: + Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình: Tôi cùng với một số giáo viên chủ nhiệm trong khối 1 đi thực tế thăm gia đình của từng em thì đa số các em 100% là gia đình có hoàn cảnh khó khăn, em thì bố mẹ mãi kiếm sống, em thì bố mẹ bỏ nhau sống với họ hàng, em thì mồ côi cha hoặc mẹNên các em thiếu thốn về mọi mặt, sách vở, đồ dùng học tập chưa thật đầy đủ và bữa ăn sáng lúc đến trường bữa đói, bữa no, trong gia đình hoàn toàn giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, nhiều phụ huynh mù chữ. Do trình độ dân trí thấp nên nhận thức của họ về việc đi học và tiếp thu học tập như thế nào của con em mình vẫn còn thơ ơ, phó mặc cho giáo viên. Dẫn đến nhiều em đi học chưa chuyên cần, từ thực tế trên tôi cùng một số giáo viên chủ nhiệm khác phối hợp nhịp nhàng với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất cũng như tinh thần dành cho đối tượng những học sinh trên. Vận động gia đình thường xuyên cho các đi học chuyên cần, động viên các con đến trường vui vẻ và khen ngợi các con thường xuyên. + Tìm hiểu tâm tư, dành thời gian tâm sự với học sinh: Tôi quan sát và tìm hiểu trong quá trình dạy học ở lớp, giờ ra chơi, tiết Sinh hoạt tập thể hay trong các tiết của các thầy cô khác dạy và ở nhà của các em, mỗi em mỗi tính cách khác nhau em thì rụt rè nhưng khá chăm chỉ, em thì quá hiếu động không chịu hợp tác, có em thì chữ cái dạy trước quên sau dạy hôm nay ngày mai lại quênLúc này tôi kết hợp với các giáo viên bộ môn khác trao đổi những hoàn cảnh và tính cách của các em để cùng động viên khích lệ các em trong mọi hoàn cảnh, luôn vui vẻ, gần gũi thân thiện tạo cho các em cảm giác mỗi ngày đến trường là một niềm vui. Phối kết hợp với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường giúp đỡ bằng nhiều hình thức khác nhau như: trao quà dành cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn, quyên góp quần áo, sách giáo khoa cũ, gạo hay bánh chưng ngày tết, kẹo bánh, mì tôm ở những vùng thuận lợi để giúp đỡ động viên các em kịp thời, thường xuyên vào nhà động viên khuyến khích các em cố gắng trong học tập. + Tìm hiểu từ phía giáo viên: Một số giáo viên chưa thật sự chịu khó học hỏi đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên có vấn đề gia đình Tôi đã đề xuất ban giám hiệu phân công phù hợp và trong khối sắp xếp thời khóa biểu hợp lí, tổ chức các chuyên đề trong khối, dự giờ cùng trao đổi trong cuộc họp chuyên cùng thảo luận tìm cách thảo gỡ những khó khăn giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, công đoàn thăm hỏi, động viên giáo viên kịp thời, cố gắng trong công tác. Qua thời gian tìm hiểu nguyên nhân của từng đối tượng học sinh dân tộc Thiểu số tiếp thu chậm, chúng tôi dường như đã gần gũi các em hơn thông cảm ,chia sẻ kêu gọi sự giúp đỡ kịp thời của các đoàn thể trong và ngoài nhà trường cho những hoàn cảnh khó khăn khác nhau của các em. Các em không còn cảm thấy tự ti mặc cảm nhiều vì được thầy cô bạn bè thường xuyên đến nhà chơi, nói chuyện vui cười, cùng thổi lửa, quét nhà. Sau khi xác minh được các nguyên nhân trên thì giáo viên chủ nhiệm trong khối Một, đã lập danh sách các em học sinh tiếp thu chậm gửi về chuyên môn và đề xuất phân công thêm giáo viên phụ đạo thêm 2 buổi trên tuần và ngoài ra giáo viên chủ nhiệm chủ động dành thời gian để phụ đạo lớp của mình nhưng qua một gia đoạn học tập, đến thời gian đó các em ít nhất đạt chuẩn phải đọc được nhưng phần nhiều các em vẫn chưa đọc được, số lượng học sinh rất ít tiến bộ. Lúc này chúng tôi rất trăn trở phải tìm ra giải pháp gì để 100% các em học xong lớp Một ít nhất phải biết đọc, biết viết, giáo viên chủ nhiệm kết hợp với tổ chuyên môn, đề xuất cùng ban giám hiệu nhà trường tham gia cuộc họp khối sau khi thảo luận thực hiện giải pháp sau: Giải pháp 2: Phân loại theo nguyên nhân, gộp cùng đối tượng trong khối 1 thành một nhóm tổ chức dạy kèm riêng, rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh. + Qua công tác tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư của học sinh, phân loại theo nguyên nhân để thực hiện đồng thời các biện pháp tác động khác như những em chăm chỉ nhưng còn rụt rè giáo viên luôn tạo không khí vui vẻ nhẹ nhàng, quan tâm hỏi han, dù các em tiếp thu chậm hay quên thì vẫn kiên trì nhẫn nại khích lệ khen ngợi những tiến bộ của bản thân các em dù nhỏ nhất, dần dần các sẽ hòa nhập, cởi mở và tự tin hơn. + Lập các tổ, nhóm học tập gồm trên lớp hay giờ ra chơi mọi lúc mọi nơi có các bạn năng khiếu môn học kèm cặp thêm lập thành đôi bạn cùng tiến, lựa chọn các bạn ở gần nhà tổ chức học tập theo nhóm vừa để kèm cặp vừa để động viên giúp đỡ nhau, phát huy tinh thần tương thân tương ái. Cuối tuần giáo viên cùng cả lớp khen ngợi kịp thời những đôi bạn đã biết chia sẻ giúp đỡ nhau trong học tập và cuộc sống. Một tháng một lần kết hợp Đội khen ngơi tuyên dương các em trước cờ. + Một nhóm tất cả học sinh tiếp thu chậm môn tiếng Việt của ba lớp ở khối 1 sẽ được gộp lại học chung một lớp trong thời gian là 10 tuần, tôi đã tự nguyện chủ nhiệm lớp này, với thời khóa biểu tập trung chủ yếu học hai môn Toán và Tiếng việt. Các thầy cô tham gia dạy lớp này dạy như dạy kèm phụ đạo. Nhận biết và thuộc lòng và viết ra được bảng chữ cái học theo phương châm học đâu chắc đó. Ví dụ: Khi dạy chữ a giáo viên cho học đi đọc lại nhiều lần, tìm chữ a có trong sách giáo khoa, truyện, trong lớp ở khắp mọi nơi, hướng dẫn viết bảng con, viết vở. Sau đó phải quay lại kiểm tra lại các em phải tự nhớ lại tái hiện được viết ra bảng con và vào vở ô li vở và tiếp tục tìm được bao nhiêu chữ a có trong một câu, đoạn, khổ thơ, tìm theo cặp đôi hoặc nhóm thi đua. Theo phương pháp dạy như trên dần dần học sinh thuộc bảng chữ cái, ở trong lớp cùng một đối tượng nên các em thấy tự tin, bạn cũng giống mình cùng nhau tiến bộ khá nhanh. Ghép vần, đọc thành tiếng: biến chữ thành âm thanh ngôn ngữ. Bắt đầu từ việc nhận diện các chữ cái, ghép vần các từ đơn giản, nhận biết các thành phần cấu tạo tiếng (âm, vần), biết cách đọc thành tiếng những từ dài, khó, với tốc độ hợp lý khi đọc thành tiếng và ngày càng nhanh khi đọc thầm. Ví dụ: Học những vần kết thúc bằng chữ n thì ghép các nguyên âm với âm cuối n ta được các vần sau: an, ân, ăn on, en, ên, un, ưn, in... Đọc phân tích a- nờ- an, tương tự ang, âng, ăng ong,ông, eng, êng, ung, ưng, ingđọc đến đâu viết ra đến đó, học đâu nhớ đó. Các em biết nhận diện bảng chữ cái, vần, đến phần tiếng các em sẽ tập làm quen phân tích chia nhỏ ra để đọc. Ví dụ: Khi đọc tiếng trang các em sẽ đọc phân tích từng phần như sau: a-ngờ - ang; trờ - ang - trang, khi các em học sinh đọc tiến bộ hơn thì sẽ đánh vần trong miệng đọc trơn ra và tăng dần tốc độ đọc. Trong quá trình dạy học các em dân tộc thiểu số tiếp thu chậm thì ta phải đọc đến đâu cho các học sinh viết đến đó, viết ra nhiều lần để nhớ, tăng dần độ khó lên khi các em đã tiến bộ, viết âm, vần, tiếng câu đọc tốc độ đọc chậm và có thể xen kẻ phân tích khi viết tiếng khó, nghe viết là hiệu quả nhất, không nên nhìn chép. Sau khi thực hiện dạy từ dễ đến khó dần lên đến đạt chuẩn theo kiểu mưa dầm thấm lâu, học đâu chắc đó. Qua thời gian mười tuần từ tuần 23 đến tuần 33 100% các em đã biết đọc. Tóm lại việc gộp đối tượng học sinh dân tộc Thiểu số tiếp thu chậm vào cùng một nhóm để dạy kèm riêng như hình thức một lớp riêng biệt đã phân loại được đối tượng học sinh và có cùng một phương pháp đem đến đến hiệu quả cao các em từ không thể thuộc bảng chữ cái đến nay em nào cũng đọc được, viết được. Có ý thức học tập và hòa đồng cùng các bạn. IV. Tính mới của giải pháp Là khối trưởng Một qua nhiều năm tôi cùng giáo viên trong tổ đã thực hiện rất nhiều giải pháp khác nhau để dạy và phụ đạo đối tượng học sinh tiếp thu chậm có kết quả nhưng chưa cao. Qua nhiều trăn trở thảo luận tôi mạnh dạn đề xuất với Ban giám hiệu nhà trường thực hiện giải pháp gộp 14 em học sinh dân tộc Thiểu số tiếp thu chậm này thành một nhóm dạy như một lớp học hàng ngày chỉ ưu tiên 2 môn Toán và Tiếng Việt đã đưa đến kết như mong đợi. Tính mới qua đúc kết kinh nghiệm và đã có kết quả khảo nghiệm, đối chứng: Từ kết quả cách làm cũ của những năm trước thì học sinh chưa đạt chuẩn khi học xong lớp1 của học sinh dân tộc thiểu số khá cao, qua áp dụng giải pháp mới đến nay tuần 32 học sinh dân tộc thiểu số 100% đã đạt chuẩn môn tiếng Việt. V. Hiệu quả SKKN Sáng kiến kinh đã được áp dụng ở khối 1 tại trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng, đối tượng là học sinh tiếp thu chậm chưa có kĩ năng đọc môn Tiếng Việt của các em học sinh dân tộc Thiểu số. Sau khi áp dụng sáng kiến và so sánh với những năm trước có sự tiến bộ vượt bậc như sau: Năm học Hoc sinh dân tộc Thiếu số tiếp thu chậm chưa biết đọc của khối 1. Đầu năm HK1 Tuần 32 2017-2018 10 6 4 2018-2019 14 10 0 Với kết quả trên trường chúng tôi sẽ áp dụng giải pháp trên cho những khối lớp khác và duy trì cho khối lớp 1 trong những năm tiếp theo. Sau nhiều năm là giáo viên trực tiếp đứng lớp1 đồng thời quản lý tổ khối nơi tôi giảng dạy với những kế hoạch sự nổ lực không nhỏ của mỗi giáo viên, hội cha mẹ học sinh, trưởng thôn buôn... Ngày qua ngày cố gắng đem từng cái chữ, những nụ cười, những giọt nước mắt, nhớ những ngày các cô giáo chạy tất bật ngược xuôi qua các con đường đến từng nhà tìm cho được các em trong mùa kiểm tra học kỳ. Nhưng bù đắp lại là các em đến trường ít nhất biết cái chữ biết đọc, biết viết. Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị I. Kết luận Khi mà tình hình thế giới ngày càng phát triển phức tạp về mọi mặt chính trị - kinh tế - xã hội thì giữ vững lập trường tư tưởng chính trị cũng như hướng về quê hương, đất nước là nhiệm vụ thiêng liêng của mỗi người con Việt nam. Để thế lực thù địch không dễ lôi kéo, kích động, thì người dân phải có sự hiểu biết và nền dân trí đồng đều. Vậy đóng góp của nền giáo dục vô cùng quan trọng. Đặc biệt là hoạt động giáo dục học sinh DTTS có hiệu quả thì phải biết một cách khoa học nhất có tầm nhìn xa. Để đảm bảo chất lượng thật, đặc biệt là môn Tiếng Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số và học sinh không ngồi nhầm lớp và bỏ học giữa chừng, giáo viên cần quan tâm phân loại các đối tượng học sinh và có kế hoach giảng dạy phù hợp ngay từ đầu năm. Từ việc hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên, qua việc rèn luyện thường xuyên, các em học sinh không còn rụt rè, e ngại mà tự tin trong học tập và giao tiếp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Do thời gian và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế nên một số vấn đề chưa thể đề cập hết được đó là hướng nghiên cứu tiếp của sáng kiến kinh nghiệm. II. Kiến nghị Về phía phụ huynh học sinh hợp tác tốt hơn với giáo viên trong phương pháp giáo dục toàn diện cho học sinh. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân, tôi rất mong sự góp ý của đồng chí đồng nghiệp giúp tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Buôn Trấp, ngày 20 tháng 4 năm 2019 Người viết Nguyễn Thị Thanh Linh NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN TÀI LIỆU THAM KHẢO STT Tên tài liệu Tác giả 01 Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở Tiểu học –Tài liệu cho giáo viên lớp 1 Nhà xuất bản giáo dục 03 Sách giáo khoa, sách thiết kế giáo dục công nghệ 1 Tiếng Việt 1( tập 1,2,3) Tác giả Hồ Ngọc đại 04 Các chuyên đề giáo dục Tiểu học Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
Tài liệu đính kèm: