SKKN Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi qua di tích lịch sử địa phương

SKKN Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi qua di tích lịch sử địa phương

 Y Blốk Êban sinh năm 1920, tại buôn Chư Dluê, Buôn Ma Thuột trong một gia đình có 7 anh chị em. Là con trai út cho nên Y Blốk Êban là người chịu nhiều thiệt thòi nhất khi mới được 2 tuổi thì cha mình, ông Y Chăm Byă qua đời. Có lẽ do được “Yàng” ban phước nên từ nhỏ Y Blốk Êban rất thông minh và ham học hỏi. Học hết tiểu học khi chưa tròn 15 tuổi, Y Blốk Êban bị Pháp bắt vào lính khố xanh làm phục dịch và sau đó làm gác tù tại Nhà đày Buôn Ma Thuột. Ngay sau khi đặt chân lên mảnh đất Tây Nguyên, chính sách chia rẽ dân tộc ở đây được thực dân Pháp áp dụng một cách triệt để kể cả trong chốn lao tù. Tại nhà đày Buôn Ma Thuột, bên cạnh các sỹ quan người Pháp, thực dân Pháp sử dụng hầu hết cai tù là người Êđê bản địa. Với âm mưu lấy người Việt trị người Việt, thực dân Pháp nghĩ rằng, mối liên kết giữa người Kinh với người Thượng, giữa người Êđê với các dân tộc khác sẽ bị chia cắt. “Nhưng chúng không ngờ rằng, tại nơi được mệnh danh là “địa ngục trần gian” này lại chính là trường học cách mạng của những người yêu nước”, ông nhớ lại. Trong những lần đưa tù nhân đi lao động khổ sai, Y Blốk Êban đã được những chiến sỹ cách mạng đang bị giam cầm tại đây giác ngộ. Ông đã tận mắt chứng kiến sự kiên trung bất khuất của những chiến sỹ cách mạng đang bị giam cầm tại đây. Vì thế, khi được tuyên truyền giác ngộ, ông đã nhanh chóng đi theo lý tưởng cách mạng.

doc 34 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 655Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi qua di tích lịch sử địa phương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tỏa tinh thần cách mạng. Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc 9 năm kháng chiến chống Pháp. Đến lượt Mỹ nhảy vào thế chân Pháp âm mưu thôn tính nước ta, nhà đày Buôn Ma Thuột tiếp tục được sử dụng và mở rộng thêm. Thời Pháp, nhà đày Buôn Ma Thuột được xây dựng trên diện tích gần 2ha, với 4 bức tường bao quanh, cao 4m, dày 40cm, 4 góc đều có vọng gác và lính canh túc trực. Phía trong có 6 dãy lao tập thể giam giữ tù nhân. Bên cạnh cổng chính ở phía Nam là dãy xà lim, giam giữ tù nhân chính trị được cho là nguy hiểm. Ngoài ra còn có nhà xưởng, bàn giấy, nhà kho và bếp ăn, đây là kiểu bố trí nhà tù truyền thống của thực dân Pháp, mục đích tạo không gian khép kín để giám sát tù nhân . 
      Thời Mỹ, nhà đày Buôn Ma Thuột được xây thêm một bức tường ngăn đôi, một bên làm trung tâm cải huấn và một bên làm kho quân nhu, đồng thời mở hai cổng mới ở phía Tây của nhà đày, xây thêm nhà Quốc thái dân an, nhà Nguyện, phòng biệt giam, nhà lao nữphục vụ cho các mục đích giam giữ và tra khảo.
Trong thời gian hoạt động, Nhà đày Buôn Ma Thuột đã giam giữ nhiều chiến sỹ yêu nước, nhiều người về sau đảm nhận những vị trí quan trọng của chính phủ như các đồng chí Võ Chí Công, Phan Đăng Lưu, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu. Nhà đày còn là một trong những nơi ươm mầm cho hạt giống cách mạng ở Đắk Lắk. Vượt lên trên tất cả sự tàn bạo của địch là tinh thần đấu tranh bền bỉ, kiên trung của những người tù Cộng sản. Những năm tháng đấu tranh oanh liệt của họ tại Nhà đày Buôn Ma Thuột đã viết thành một bản anh hùng ca về chủ nghĩa yêu nước, ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập nước nhà thoát khỏi xiềng xích.
      Nhà đày Buôn Ma Thuột, đây là một trong những di tích lịch sử quan trọng nhất của tỉnh ĐăkLăk, nơi biểu trưng tội ác dã man của bọn thực dân đế quốc xâm lược, đồng thời cũng là nơi phản ánh ý chí kiên cường bất khuất của các chiến sĩ cách mạng không sợ hy sinh gian khổ, trung thành với lí tưởng của Đảng, quyết đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ Quốc. 
Hình ảnh nhà đày nhìn từ trên cao và hình ảnh học sinh trường THCS Nguyễn Trãi đang nghe hướng dẫn viên nhà đày thuyết trình(2016-2017)
 Tại đây thực dân Pháp thi hành chính sách tra tấn hết sức tàn bạo, tất cả tù nhân đều bị đóng dấu trên lưng, bị đánh đập tàn nhẫn, lao động khổ sai, hàng ngày họ phải đi lao dịch nặng nề như đi xây cây cầu Krông Ana, xây các đồn bốt cho giặc, làm đường 14 đia Sài Gòn..vv. Bữa ăn hàng ngày chỉ có cơm hẩm với muối, bất cứ lúc nào tù nhân cũng có thể bị phạt vạ vô căn cứ hoặc bị thủ tiêu giết chết.
                      Hình ảnh tù nhân bị bắt đi lao độngtrên công trường làm đường 14 đi Sài Gòn và bị đánh đập dã man
 Cũng chính trong hoàn cảnh đó nổi bật hàng loạt tấm gương đấu tranh anh dũng của các chiến sĩ cách mạng như Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Chí Thanh. Cũng tại đây năm 1940 một chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương ra đời đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của tù nhân chống lại chính sách dã man của bọn thực dân đối với các chiến sĩ cách mạng, nhà đày cũng là nơi bồi dưỡng cơ sở cách mạng, truyền bá chủ nghĩa yêu nước của đồng bào Đăklăk. 
       Nhà Đày Buôn MaMT được thực dân Pháp xây dựng xong vào năm 1930 -1931 trong khi các nhà tù của nước ta đã chật ních, nhưng vẫn còn dư ra hàng nghìn tù nhân. Chúng chọn Đăk Lăk làm nơi xây dựng nhà Đày nhằm làm lung lạc ý chí đấu tranh của nhân dân ta. Bởi lẽ Đăklăk là nơi có khí hậu khắc nghiệt, dân cư thưa thớt chủ yếu là người bản địa, giao thông lại khó khăn. Thực dân Pháp sử dụng những người dân bản địa nơi đây để làm cai ngục nhằm thực hiện thủ đoạn dùng người Việt để trị người Việt. Tù nhân ở đây bị tra tấn hết sức dã man, thường xuyên phải lao động khổ sai, ăn uống thì bẩn thỉu, thiếu thốn gây ra rất nhiều bệnh tật. 
Ví dụ: Ngày ăn700 g gạo, gạo trộn lẫn sạn, chúng dùng báng súng, roi có quất dây thép ở đầu để tra tấn..vv. Mặc dù vậy tinh thần đấu tranh của nhân dân ta trong các nhà đày trong đó có nhà Đày Buôn Ma Thuột là vô cùng quyết liệt, các đồng chí vẫn không lùi bước, tìm mọi cách để đấu tranh và bí mật hoạt động cách mạng. Hình thức đấu tranh rất phong phú, đa dạng nhưng lúc đầu thì gặp rất nhiều khó khăn. Thực dân Pháp đưa những người bản địa là đồng bào dân tộc thiểu số làm quản ngục để lợi dụng sự bất đồng về ngôn ngữ để ngăn chặn không cho tù nhân liên lạc ra bên ngoài. Nhưng bọn chúng đâu có biết chính âm mưu của chúng lại càng thúc đẩy tinh thần cho các tù nhân quyết tâm học tiếng bản địa với phương châm, người biết nhiều dạy người biết ít, người biết ít dạy người không biết. Tù đó nhà Đày được coi như một trường học. Cũng nhờ học tiếng bản địa mà các tù nhân đã cảm hóa được một số quản ngục là người Ê đê như ông Y Blốc Ê ban, Y Jônh, Y Bun Knông, Y Bih Alê ô, Y Som Ê ban,
 Y Blốc Êban Ban chỉ huy quân sự đầu tiên của Đăk Lăk
 (Hình ảnh trưng bày tại nhà Đày) Từ trái sang phải:Y Wung Niê Kdăm, 
 YNgông Niê,Y Blôk Êban
Y Som Ê Ban -Y tá trong nhà đày Ông Y Jonh là lính khố xanh
Thời kỳ năm 1930 -1945, người dân tộc 	trong nhà đày Buôn Ma Thuột
Êđê đầu tiên được giác ngộ cách mạng	giác ngộ cách mạng
Đây là hình ảnh các tù nhân bàn cách đấu tranh chống lại bọn thực dân Pháp
 Ngoài ra các tù nhân còn đấu tranh bằng hình thức tuyệt thực tập thể để phản đối việc thực dân Pháp ngược đãi tù nhân. Cuối cùng thì bọn thực dân phải nhượng bộ và tăng khẩu phần ăn lên cho tù chính trị. Tinh thần bất khuất luôn được các tù nhân đề cao. Mặc dù bị đánh đập tra tấn rất dã man: chân tay xây xước, mặt mũi toàn là máu, toàn thân tím đen, mỗi tuần chỉ được tắm nắng có 15 phút nhưng là lúc giữa trưa (12h), ăn uống bẩn thỉu thiếu thốn, nơi giam cầm thì tối tăm, chật hẹp, bẩn thỉu, tù nhân khát nước nhưng cũng không có nước để uống mà có khi phải uống cả nước tiểu của mình .
Hình ảnh các chiến sĩ cách mạng bị giam tại nhà đày, hai ống tre một ống đựng nước uống và một ống đựng nước tiểu, chúng tra tấn bằng cách một tuần mới cho một ống nước vì vậy tù nhân buộc phải uống nước tiểu của mình để duy trì sự sống.
 Thử hỏi ngày nay nếu chúng ta, những con người khoẻ mạnh bình thường, phải chịu những nỗi khổ như vậy chúng ta có chịu đựng nổi không? Hay là tìm đến cái chết để giải thoát. Nhưng không, các tù nhân vẫn kiên cường chịu đựng vì họ có niềm tin tuyệt đối vào sự nghiệp cách mạng, họ cố chịu đựng để nuôi hi vọng được sống và được trở về hoạt động cách mạng dù là hy vọng rất mong manh.
Một trong những nhân chứng lịch sử của tỉnh ĐăkLăk là vị tướng YBlôk Êban
Vị tướng đầu tiên của các dân tộc Tây Nguyên.
 Y Blốk Êban sinh năm 1920, tại buôn Chư Dluê,  Buôn Ma Thuột  trong một gia đình có 7 anh chị em. Là con trai út cho nên Y Blốk Êban là người chịu nhiều thiệt thòi nhất khi mới được 2 tuổi thì cha mình, ông Y Chăm Byă qua đời. Có lẽ do được “Yàng” ban phước nên từ nhỏ Y Blốk Êban rất thông minh và ham học hỏi. Học hết tiểu học khi chưa tròn 15 tuổi, Y Blốk Êban bị Pháp bắt vào lính khố xanh làm phục dịch và sau đó làm gác tù tại Nhà đày Buôn Ma Thuột. Ngay sau khi đặt chân lên mảnh đất Tây Nguyên, chính sách chia rẽ dân tộc ở đây được thực dân Pháp áp dụng một cách triệt để kể cả trong chốn lao tù. Tại nhà đày Buôn Ma Thuột, bên cạnh các sỹ quan người Pháp, thực dân Pháp sử dụng hầu hết cai tù là người Êđê bản địa. Với âm mưu lấy người Việt trị người Việt, thực dân Pháp nghĩ rằng, mối liên kết giữa người Kinh với người Thượng, giữa người Êđê với các dân tộc khác sẽ bị chia cắt. “Nhưng chúng không ngờ rằng, tại nơi được mệnh danh là “địa ngục trần gian” này lại chính là trường học cách mạng của những người yêu nước”, ông nhớ lại. Trong những lần đưa tù nhân đi lao động khổ sai, Y Blốk Êban đã được những chiến sỹ cách mạng đang bị giam cầm tại đây giác ngộ. Ông đã tận mắt chứng kiến sự kiên trung bất khuất của những chiến sỹ cách mạng đang bị giam cầm tại đây. Vì thế, khi được tuyên truyền giác ngộ, ông đã nhanh chóng đi theo lý tưởng cách mạng.
Bộ trưởng Trần Đại Quang đến thăm Thiếu tướng Y Blốk Êban nhân kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng Buôn Ma Thuột.
 Sau khi được giác ngộ lý tưởng, ông được giao nhiệm vụ vận động những người lính gác ngục bỏ hàng ngũ đi theo cách mạng, và Y Blốk Êban đã âm thầm xây dựng lực lượng trong lòng địch để chờ thời cơ. Ngày 20/8/1945, ông đã dẫn đầu trung đội lính khố xanh biến buổi chào cờ của Trần Trọng Kim do phát xít Nhật dựng lên thành cuộc mít tinh ủng hộ cách mạng và giành chính quyền về tay nhân dân. Hành động táo bạo, bất ngờ và bí mật của Y Blốk Êban dưới sự chỉ đạo của Tỉnh bộ Việt Minh và Ban lãnh đạo lâm thời tỉnh Đắk Lắk đã khiến cho chính quyền Trần Trọng Kim không kịp trở tay. Với chiến công đầu tiên này, đã đưa Y Blốk Êban đứng hẳn vào hàng ngũ cách mạng, ông được tham gia vào Ủy ban lâm thời của tỉnh Đắk Lắk. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, hầu hết cán bộ ở Tây Nguyên nói riêng và miền Nam nói chung đều tập kết ra Bắc. Trong khi đó, Liên khu V lại muốn Y Blốk Êban ở lại để hoạt động trong lòng địch, giữ vững cơ sở cách mạng ở Đắk Lắk. Tư lệnh Liên khu V lúc bấy giờ là đồng chí Nguyễn Chánh đã ký quyết định bổ nhiệm Y Blốk Êban làm Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 120 để đưa ra Bắc huấn luyện. Trong suốt quãng thời gian học tập ở miền Bắc đã giúp ông trưởng thành rất nhiều. Ở đó, ông được gặp Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp; được bồi dưỡng thêm về lý tưởng cách mạng, nhất là tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Nhờ có tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chống kẻ thù xâm lược của các bậc tiền bối, những anh hùng dân tộc mà ngày nay chúng ta được sống trong hòa bình, cơm no áo ấm, chúng ta không thể nào quên được sự hy sinh to lớn mà ông cha ta đã trải qua. Đến ngày 13/1/2018 do tuổi cao nên tướng Y Blốk Êban đã qua đời trong niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân Đăk Lăk nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. 
Toàn cảnh học sinh trường THCS Nguyễn Trãi đang tham quan tại khu trưng bày của nhà đày Buôn Ma Thuột và nghe thuyết trình từ hướng dẫn viên của nhà đày Buôn Ma Thuột(2016-2017). Hình ảnh bên phải là tên Moshin, một trong những tên quản ngục độc ác nhất lúc bấy giờ. Y dùng roi có đóng đinh để tra tấn tù nhân, y đánh vào đầu, vào lưng tù nhân đến khi nào hả dạ mới thôi. Đặc biệt y được mệnh danh là tên khát máu người, ngày nào y không đánh đập tù nhân và không đâm chém thì như rằng ngày đó y ăn không ngon ngủ không yên.
Đây là hình ảnh các chiến sĩ của ta bị thực dân Pháp giam trong một phòng giam tập thể, các chiến sĩ bị còng một chân, thực dân Pháp dùng đòn roi tra trấn một cách dã man và tàn bạo.
Tù nhân bị bắt phải làm việc
.
 Khi đến Nhà đày, mỗi tù nhân được phát một bộ quần áo vải xanh, một chăn mỏng. Những thứ đó không đủ ấm trong những đêm lạnh thấu xương giữa miền núi rừng âm u. Tù nhân không có màn phải chịu cực hình của nạn muỗi mòng, bọ chó. Không những bị giam cầm, cùm kẹp, bị đánh đập dã man, tù nhân ở Buôn Ma Thuột còn phải đi lao dịch khổ sai. Ngoài việc tận dụng sức lực của tù nhân vào mục đích kinh tế, chúng còn nhằm hành hạ họ cả về thể xác lẫn tinh thần, làm cho tù nhân kiệt sức mà rã rời ý chí đấu tranh, từ bỏ lý tưởng cách mạng. Trên công trường, cứ 5m có một lính khố xanh canh giữ. Tù nhân nào vì ốm yếu, mệt mỏi, không đủ sức làm việc theo lệnh chúng, đều bị lính dùng roi trúc, gậy gỗ đánh vào lưng, vào đầu. Ở Nhà đày chính, mỗi ngày tù nhân được ăn 700 gram gạo; còn đi lao dịch trên công trường được ăn hơn một chút (800 gram gạo), thức ăn thì có cá khô mục và bí đỏ đưa từ Nha Trang lên hoặc đưa từ Cam-pu-chia sang. Bữa ăn của tù nhân chỉ được quy định trong mấy phút, nếu vì lý do nào đó mà bữa ăn quá giờ quy định thì họ bị đánh.
 Trong tình cảnh của chế độ Nhà đày như thế, tù nhân chỉ có hai con đường: hoặc là chết mòn trong yên lặng, trong sự nhục nhã ê chề, hoặc là đoàn kết tổ chức nhau lại để đấu tranh đòi bọn thống trị phải thực hiện các yêu cầu của họ trong khuôn khổ chế độ tù chính trị và cuối cùng các tù nhân chọn con đường đấu tranh.
 Năm 1930, khi quyết định xây Nhà đày Buôn Ma Thuột, thực dân Pháp ở Đắc Lắc dự tính, hàng năm tỉ lệ tù nhân chết ít nhất là 10%, nhưng sang năm 1931, chúng ước tính tỉ lệ đó tới 25%. Trong hai năm 1931-1932 đã có tới hơn 100 tù nhân chết, nhiều người trong số đó chôn ở nghĩa địa Lạc Giao (tài liệu lưu trữ tại Viện lịch sử Đảng).Theo đó thì chỉ trong khoảng 5 năm, số tù nhân ở Đắc Lắc sẽ chết hết. Năm 1935, theo các báo chí công khai ở Huế tổng kết, trong số 100 tù nhân chết ở Buôn Ma Thuột thì có 24 người bị sốt rét đái ra máu. Trong 100 tù nhân thì 99 người có ký sinh trùng sốt rét trong máu. Có những bệnh nhân sốt gần 40 độ liên tục trong 4-5 ngày mà không được một viên thuốc nào và vẫn phải đi lao dịch trên công trường. Trong tình cảnh Nhà đày như thế, tù nhân chỉ có hai con đường: Hoặc là chết mòn trong yên lặng, trong mọi sự nhục nhã ê chề, hoặc đoàn kết tổ chức nhau lại để đấu tranh đòi bọn thống trị phải thực hiện các yêu cầu của họ trong khuôn khổ chế độ tù chính trị, giữ vững khí tiết và giành lấy sự sống. Cuộc đấu tranh phản đối khủng bố, đánh đập, bắn giết tù nhân càng ngày càng mạnh mẽ. Có những lúc toàn thể Nhà đày dấy lên những loạt hô khẩu hiệu như sấm: “Phản đối đánh đập dã man”, có người còn trích máu khẩu hiệu lên tường nhà lao: “Đả đảo tên giết người Moshine” (Lịch sử Nhà đày Buôn Ma Thuột 1930 - 1945, Tỉnh ủy Đắc Lắc)
Tên quản ngục tàn ác Moshine
“Ngày nào không đánh, đá được lính tráng, không đánh đập, giết chết được phạm nhân thì tối về ăn không ngon cơm” đó là câu nói hàng ngày của Moshine, một trong những tên quản ngục khét tiếng nhất tại Nhà đày Buôn Ma Thuột. Quản ngục Mahomed Moshine là một “giống lai” quốc tế, một điển hình về mất tính người, tập trung tính hung ác, thú vật của “giống” thực dân khát máu và tàn bạo đến cực điểm. Chính cái “thú tính” đã được thực dân Pháp “thuần hóa” mà Moshine nhiều lần được trọng dụng làm sếp lao tại Nhà đày Buôn Ma Thuột. 
 Để đàn áp các cuộc đấu tranh của tù nhân, Moshine dùng mọi thủ đoạn hành hạ, tra tấn từ cùm chân, trói tay, dùng gậy có đóng đinh và vồ đập lên đầu đến dội nước phân, nước tiểu lên người tù. Độc ác hơn, hắn dùng lưỡi lê đâm vào chân, vào bụng của người tù rồi liếm máu trên lưỡi lê. Nửa đêm hắn nhảy vào phòng giam ôm ghì đầu người tù cắn tai, cắn mũi, liếm máu nhe nanh, nhăn trái, cười khì khì rồi nói một câu rùng rợn: “Tao khát máu chúng mày, tao phải uống máu chúng mày”. 
 Trong cuộc đời làm quản ngục ở Nhà đày Buôn Ma Thuột, Moshine đã gặp không ít các cuộc đấu tranh, biểu tình đòi tống cổ ra khỏi Nhà đày. Từ năm 1930 đến 1943, Moshine bị đưa đi chuyển về ba lần. Lần đầu vào năm 1934, lần thứ hai vào năm 1937, lần cuối cùng vào năm 1943. Phẫn nộ trước hành động giết người dã man của hắn, tập thể tù nhân đã tổ chức đấu tranh quyết liệt buộc chính quyền thực dân Pháp tại Đắk Lắk phải cách chức và chuyển hắn đi, chấm dứt thời gian cai quản của y tại nhà Đày Buôn Ma Thuột. 
 Tổng số tù bị đày đến Buôn Ma Thuột qua các phong trào cách mạng có hàng nghìn lượt đồng chí. Có gia đình bị địch giam cầm ở đây 2-3 anh em (như Lê Chưởng, Lê Hùng và Lê Vụ; Lê Tự Nhiên, Lê Tự Cuộc và Lê Tự Đồng; Lê Viết Lượng và Lê Viết Thanh; Trần Văn Quang và Trần Anh Bình) có đồng chí bị giam ở đây 2-3 lần (như Trần Hữu Dục, Bùi San). Có những người bị giam ở đây từ năm 1930 cho đến những ngày tiền khởi nghĩa năm 1945. Trong số tù nhân của Nhà đày Buôn Ma Thuột, đại bộ phận là đảng viên cộng sản, một số người trước khi vào tù đã giữ những chức vụ quan trọng trong các cấp bộ Đảng.
 Thực dân Pháp dùng chế độ nhà tù tàn khốc để giết dần giết mòn những người tù cộng sản về thể xác và tinh thần. Nhưng với tinh thần bất khuất, các chiến sĩ cộng sản đã thắng, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về hoạt động và sự trưởng thành của các chiến sĩ cách mạng bị lao đày trong lời khai mạc lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng năm 1960: “Biến cái rủi thành cái may, các đồng chí ta đã lợi dụng những tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngăn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại, nó trở nên một thứ lửa thử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng thêm cứng rắn. Mà kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”.
 Ngoài ra Đăk Lăk cũng là nơi sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc anh em như Êđê, Ba na...vv, để giáo dục tinh thần yêu nước cho các em, bản thân tôi đã nêu lên một số tấm gương tiêu biểu, những tấm gương anh dũng trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, đánh đuổi giặc ngoại xâm như AmaJao, Y Jut, Nơ Trang Lơngvv
Ama Jhao (1840-1905)
Ama Jhao tên thật là Y Yên, họ Ayũn, sinh năm 1840 tại buôn Tung, cách thành phố Buôn Ma Thuột ngày nay 16km về phía đông bắc, (có tài liệu cho là buôn Kô Tăm). Sinh ra trong một gia đình Êđê có uy tín trong vùng, nổi tiếng nhờ tài săn voi cho nên ông được nhiều người yêu quý, kính trọng. Lớn lên Y Yên lấy cô H’Pang Niê Blô, con tù trưởng Ama Phi buôn Ea Yông (xã Ea Yông, huyện Krong Pak) và sang ở rể bên phía nhà vợ. Khi bố vợ ông mất, ông được dân làng bầu lên làm Tù trưởng - địa vị được dân làng kính trọng và có thể đại diện cho dân làng trong nhiều trường hợp. Ama Jhao là một tù trưởng giàu có, ngôi nhà của ông rộng 4m, dài 220m, có trong tay 1.000 con trâu, 15 con voi và hàng trăm nô lệ. Uy tín của ông nổi lên mạnh mẽ và lan sang những vùng khác. Tài liệu của Pháp công nhận: “Ama Jhao là một lãnh tụ Rađê lừng lẫy được cả vùng Hinterland cũng như Khánh Hoà, Phú Yên biết đến với một cái tên khá khoa trương: “Vua của người Mọi”.Ama Jhao sinh trưởng trong thời buổi mà người Pháp bắt đầu xúc tiến những bước đi đầu tiên nhằm thiết lập quyền kiểm soát của mình trên miền Thượng. Chúng vừa sử dụng bạo lực đàn áp, khủng bố tinh thần người dân, lại vừa phỉnh nịnh, mua chuộc những người tù trưởng, già làng. Nhận thấy được tầm ảnh hưởng to lớn của Ama Jhao, hết Bourgeois (công sứ đầu tiên của tỉnh Darlac), Yersin (người phát hiện ra cao nguyên Lang Biang năm 1893) đã tìm mọi cách lôi kéo ông về phía Pháp. Tên Khâm sứ tại Lào là Tournier đến hăm doạ: “Ông rất dễ dàng nhận ra là ông thuộc quyền cai trị của ai. Nếu ông uống nước chảy xuôi phía biển Đông là thuộc quyền của ông lớn người Pháp như tôi bên kia Trường Sơn. Còn nếu ông uống nước chảy về phía Tây thì thuộc quyền cai trị của tôi”. Ama Jhao đã bình tĩnh trả lời rằng: “Tôi biết rõ là các ông muốn gì. Nhưng tôi chỉ uống nước ao”. Những cố gắng kiểu đó của Pháp đã không có hiệu quả, còn về phần mình, Ama Jhao không thể duy trì tình trạng hoà bình được lâu trước dã tâm ngày càng bộc lộ rõ của thực dân Pháp, ông đã chuẩn bị cho khởi nghĩa.
 Năm 1889, thực hiện ý đồ xây dựng một con đường nối liền Buôn Ma Thuột với Ninh Hòa (tỉnh Khánh Hoà) (trước là quốc lộ 12, nay là quốc lộ 26, dài 130km), nhà cầm quyền thực dân đã cho thi hành nhiều biện pháp cưỡng chế buộc các bộ tộc Êđê Kpẵ vùng Krông Păk phải di dời làng. Công trình của thực dân đã đụng chạm đến những vùng đất, những khu rừng, khe suối thiêng liêng của người dân, cùng với những biện pháp mất lòng khác đã gây nên nỗi bất bình sâu sắc trong lòng Ama Jhao và dân làng. Ông nói: “Đất là lưng ông bà ta, rừng cây, khe suối là của ông bà ta, sao ta lại chịu bỏ nhà, bỏ buôn đi làm đường cho bọn Ó trắng để chúng giẫm lên lưng ông bà ta, phá phách rừng núi của ông bà ta”. Năm 1890, Ama Jhao tổ chức mai phục một toán quân Pháp trên đường từ Củng Sơn (huyện Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên) tiến lên chiếm Buôn Ma Thuột. Tại Ea Yông, toán quân này đã bị các nghĩa quân Ama Jhao chặn đánh dữ dội. Ông tuyên bố: “Đây là đất của người Rađê, sào huyệt của Ama Jhao, không một ai có quyền đặt chân đến, nếu không có sự mời đón của tù trưởng; các ông phải lui quân, nếu không tức khắc sẽ bị tiêu diệt”. Bất lực và sợ hãi, toán quân Pháp rủ nhau rút chạy.
 Năm 1901, Ama Jhao dẫn đầu một đoàn các tù trưởng, già làng kéo xuống Phú Yên phản đối việc mở đường, tự tiện sáp nhập đất đai của ngưởi Êđê vào Lào.
Năm 1903, Ama Jhao tổ chức phục kích một toán lính Pháp ở km 42 đường 21, tiêu diệt hai tên và thu 2 xe bò chở muối. Pháp ra lệnh bao vây khu vực buôn Ea Yông; đồng thời phái một tiểu đoàn bộ binh thuộc phân khu Huế cùng lực lượng bảo an M’Drăk tạo thành mũi bao vây thứ nhất, mộ

Tài liệu đính kèm:

  • docNGUYEN THI TAI.doc