Để tìm hiểu các nhân vật trong truyện, GV chia lớp thành 3 nhóm, mỗi nhóm tìm hiểu một nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ.
Lần lượt đại diện từng nhóm trình bày, các nhóm khác góp ý bổ sung ( nhóm sau không nhắc lại nội dung nhóm trước đã trình bày)
Giáo viên định hướng, nhận xét và nhấn mạnh những ý cơ bản.
- Tràng là nhân vật có bề ngoài thô, xấu, thân phận lại nghèo hèn, mắc tật hay vừa đi vừa nói một mình, là dân ngụ cư (lớp người bị xã hội khinh nhất trong quan niệm lúc bấy giờ), lại đang sống trong những ngày tháng đói khát nhất nạn đói 1945.
- Nhưng ở Tràng lại là con người tốt bụng và cởi mở: giữa lúc đói khát nhất - bản thân mình cũng đang cận kề với cái đói cái chết. vậy mà Trang sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ ăn 4 bát bánh đúc.
- Chi sau hai lần gặp gỡ và cho ăn 4 bát bánh đúc, vài câu nói nửa đùa nửa thật( ).
- Niềm hạnh phúc khi có vợ :
+ Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư: Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ.
+ Tràng khi đưa vợ về đến nhà: Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt.
+ Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau: Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”. Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi. Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
Tương tự như vậy, GV có thể đưa ra các câu hỏi khác để HS thảo luận:
+ Trong cái đói khát, khi ranh giới giữa sự sống và cái chết gần kề, những nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau, em có nhận xét gì về tinh thần “tương thân tương ái” trong xã hội hiện nay?
+ Truyện ngắn Vợ nhặt được bao bọc bởi không gian “tối sầm vì đói khát” nhưng nhân vật nào cũng ánh lên niềm tin vào tương lai để vượt qua ranh giới giữa sự sống và cái chết. Suy nghĩ của em về vai trò của niềm tin trong cuộc sống?
+ Sự xuất hiện của người vợ nhặt đã đem đến cho gia đình Tràng nguồn sinh khí mới. Suy nghĩ của em về vai trò của người phụ nữ đối với gia đình?
S đã nắm được nhiệm vụ hay chưa. + Các vấn đề đưa ra cho HS hợp tác nhóm dược biên soạn trong phiếu học tập hoặc bảng phụ và chỉ giao cho HS một làn. Các phiếu được biên soạn đơn giản, rõ mục đích, có tính trực quan cao, không gây khó hiểu hoặc mất thời gian. + Trong thời gian HS làm việc, GV phải thường xuyên theo dõi để hướng dẫn, giúp đỡ các nhóm trao đổi, thảo luận đúng yêu cầu bài học, hoặc GV gợi mở thêm kiến thức và giáo dục kỹ năng sống cho HS. Ví dụ: GV tổ chức thảo luận nhóm: Chia lớp thành 4 nhóm, phát phiếu học tập và cùng thảo luận một nội dung : Cảm nhận của anh (chị) về diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng (lúc quyết định để người đàn bà theo về, trên đường về xóm ngụ cư, buổi sáng đầu tiên có vợ). Để tìm hiểu các nhân vật trong truyện, GV chia lớp thành 3 nhóm, mỗi nhóm tìm hiểu một nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ. Lần lượt đại diện từng nhóm trình bày, các nhóm khác góp ý bổ sung ( nhóm sau không nhắc lại nội dung nhóm trước đã trình bày) Giáo viên định hướng, nhận xét và nhấn mạnh những ý cơ bản. - Tràng là nhân vật có bề ngoài thô, xấu, thân phận lại nghèo hèn, mắc tật hay vừa đi vừa nói một mình, là dân ngụ cư (lớp người bị xã hội khinh nhất trong quan niệm lúc bấy giờ), lại đang sống trong những ngày tháng đói khát nhất nạn đói 1945. - Nhưng ở Tràng lại là con người tốt bụng và cởi mở: giữa lúc đói khát nhất - bản thân mình cũng đang cận kề với cái đói cái chết. vậy mà Trang sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ ăn 4 bát bánh đúc. - Chi sau hai lần gặp gỡ và cho ăn 4 bát bánh đúc, vài câu nói nửa đùa nửa thật(). - Niềm hạnh phúc khi có vợ : + Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư: Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ. + Tràng khi đưa vợ về đến nhà: Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt. + Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau: Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”. Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi. Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Tương tự như vậy, GV có thể đưa ra các câu hỏi khác để HS thảo luận: + Trong cái đói khát, khi ranh giới giữa sự sống và cái chết gần kề, những nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau, em có nhận xét gì về tinh thần “tương thân tương ái” trong xã hội hiện nay? + Truyện ngắn Vợ nhặt được bao bọc bởi không gian “tối sầm vì đói khát” nhưng nhân vật nào cũng ánh lên niềm tin vào tương lai để vượt qua ranh giới giữa sự sống và cái chết. Suy nghĩ của em về vai trò của niềm tin trong cuộc sống? + Sự xuất hiện của người vợ nhặt đã đem đến cho gia đình Tràng nguồn sinh khí mới. Suy nghĩ của em về vai trò của người phụ nữ đối với gia đình? 3.2. Thiết kế và sử dụng phiếu học tập Phiếu học tập( PHT) là phương tiện định hướng hoạt động độc lập của học sinh trong quá trình dạy học. Trên cơ sở của phiếu học tập, HS độc lập tiếp thu kiến thức mới hoặc củng cố kiến thức đã học. Phiếu học tập còn là phương tiện rèn luyện cho học sinh các kĩ năng nhận thức như: Phân tích - so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá... phiếu học tập đưa học sinh vào hoạt động tìm tòi, khám phá. Trên cơ sở đó rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh. Thông qua tổ chức các hoạt động bằng phiếu học tập, giáo viên có thể thu được thông tin ngược về kiến thức và kĩ năng của học sinh để có biện pháp điềuchỉnh kịp thời. Phiếu học tập phải được thiết kế sẵn trước giờ dạy. Nội dung phiếu học tập phải vừa đủ, bám sát mục tiêu bài học và chuẩn kiến thức kĩ năng, phù hợp đối tượng học sinh lớp giảng dạy, phù hợp với trình độ, hoạt động của học sinh, với lượng thời gian thích hợp. Hình thức phiếu học tập phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu thể hiện tính sư phạm, tạo hứng thú cho học sinh. Sử dụng phiếu học tập cần kết hợp với các tài liệu và phương tiện dạy học khác như sách giáo khoa, tranh ảnh, tài liệu tham khảo... Giáo viên công bố đáp án kịp thời, đúng cách. Đặc biệt, không được lạm dụng phiếu học tập. Nội dung phiếu học tập cần lựa chọn hình thức biểu hiện phù hợp, có những dữ liệu nên trình bày bằng văn bản bình thường, có loại đưa vào sơ đồ, biểu mẫu, bài tập thực hành, bài tập xử lí tình huống... Tất cả đều phải phù hợp với đối tượng học sinh và nội dung bài học. Để thiết kế một PHT tốt, đáp ứng được các vai trò trên, theo tôi phải tuân thủ các quy tắc sau: - Có mục đích rõ ràng, nội dung ngắn gọn, chính xác trong diễn đạt ý. - Có khối lượng công việc vừa phải, có phần chỉ dẫn nhiệm vụ rõ ràng. - Có khoảng trống phù hợp để học sinh điền kết quả của công việc đã làm. - Có quy định thời gian hoàn thành. - Trình bày phiếu khoa học. - Có đánh số thứ tự nếu biên soạn nhiều phiếu học tập trong một tiết học + Phát phiếu học tập VD: anh/ chị hãy điền vào khoảng trống các chi tiết miêu tả nhân vật Tràng: PHIẾU HỌC TẬP - Họ tên:........ - Tổ:.......nhóm..... Nhân vật Tràng Đánh giá chung về nhân vật Lai lịch . . ........................................ ........................................ ........................................ ........................................ ........................................ ........................................ Ngoại hình . . Tính cách . . . Khát vọng hạnh phúc . . . Nhận xét của giáo viên: .. .. .. .. .. 3.4. Đặt học sinh vào những câu hỏi khám phá, tình huống có vấn đề để giáo dục ý thức, phẩm chất. Hệ thống câu hỏi là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động dạy học nêu vấn đề. Tuy nhiên người giáo viên cần có sự lựa chọn các câu hỏi khai thác nội dung sao cho phù hợp. Các kỹ năng đặt câu hỏi cần được chú ý. Câu hỏi phải bám sát nội dung bài học và có sự mở rộng vấn đề để kích thích sự tìm tòi của các em. Trên cơ sở những hiểu biết vừa được trang bị, các em giải quyết được các vấn đề đi từ tác phẩm văn học ra hiện thực đời sống, áp dụng vào những tình huống thiết thực trong đời sống đáp ứng nhu cầu phát triển năng lực của HS, đổi mới kiểm tra đánh giá của ngành giáo dục. Thông qua dạy tác phẩm văn học để dạy các kỹ năng sống. Những vấn đề GV nêu ra đặt HS trước những “tình huống có vấn đề”, đây cũng là nhân tố kích thích tâm lí chủ thể HS, khiến chủ thể tích cực chủ động vận dụng những hiểu biết của mình vào hoạt động tư duy. Tình huống là điểm khởi đầu của hoạt động tư duy, khơi dậy nhu cầu tư duy và là điều kiện để hình thành, phát triển tư duy sáng tạo. Khi “tình huống có vấn đề” trở thành “vấn đề” đối với bản thân chủ thể, chủ thể sẽ có nhu cầu giải quyết “vấn đề” đó và do đó, chủ thể sẽ tích cực vận dụng hiểu biết vào hoạt động tư duy. Và với loại tư duy sáng tạo này - tư duy từ bên trong, là nội lực, không mang tính nhất thời mà tích cực diễn ra trong suốt quá trình giải quyết tình huống - chủ thể sẽ phát huy được tính chủ động, tích cực nhận thức từ đó phát triển tiềm năng sáng tạo của bản thân. Sáng tạo ở đây được hiểu là tìm thấy những kiến thức mới đối với riêng bản thân, không phải là một phát minh khoa học hay sáng tạo ra một cái gì mới cho xã hội. Khi HS biết chuyển tri thức vào giải quyết một nhiệm vụ nhận thức là đã biết cách chiếm lĩnh tri thức mới và hình thành kĩ năng mới. Tuy nhiên, điều quyết định kết quả của một giờ dạy học văn không phải chỉ ở khâu xây dựng “vấn đề” từ các “tình huống có vấn đề” mà chính là ở phương pháp: triển khai vấn đề và xử lí tình huống như thế nào ở GV, HS. Xác định được hệ thống “vấn đề” mới chỉ là bước xác định nội dung của bài dạy, nội dung này quy định phương pháp, nhưng ngược lại, phương pháp tốt sẽ đem lại hiệu quả tối ưu cho nội dung. Vì thế khả năng xử lí “vấn đề” của GV là rất quan trọng, điều này phụ thuộc vào nhiều năng lực: lựa chọn “vấn đề”, tạo tâm thế cảm thụ, gợi mở phát hiện “tình huống” xây dựng “vấn đề” và giải đáp “vấn đề”, sơ kết, làm chủ về thời gian... GV càng có nhiều những năng lực này, hiệu quả của một giờ dạy học nói chung, dạy học nêu vấn đề nói riêng sẽ càng cao. Câu hỏi nêu vấn đề liên quan chặt chẽ đến vấn đề và tình huống có vấn đề. Trong nhiều trường hợp khi đã xác định được vấn đề, nhờ câu hỏi mà GV tạo được tình huống có vấn đề, tức là xác định được cái chưa biết, cuốn hút sự quan tâm của HS và tiên đoán được khả năng giải quyết của các em. Câu hỏi nêu vấn đề có hình thức gần gũi với các loại câu hỏi thường gặp khi phân tích một tác phẩm văn chương. Tuy nhiên, chỉ những câu hỏi nhằm xác định rõ vấn đề và tạo ra tình huống có vấn đề mới được coi là câu hỏi nêu vấn đề. Vì vậy, câu hỏi nêu vấn đề phải làm rõ hoặc đặt ra được vấn đề, đưa người nghe vào tình huống có vấn đề. Một lưu ý khi xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề là GV phải tùy thuộc vào trình độ tiếp nhận của HS để xây dựng hệ thống câu hỏi sao cho phù hợp. Các câu hỏi có thể theo mức độ từ dễ đến khó. Câu hỏi phải kích thích được sự cảm thụ của HS và phải giúp cho HS phát hiện được hết các chi tiết nghệ thuật có giá trị và toàn bộ cấu trúc tác phẩm. Trong một giờ dạy học văn, câu hỏi đóng vai trò hết sức quan trọng. Nếu như trước đây chúng ta quan niệm câu hỏi là sự đặt ra một cách ngẫu hứng để giáo viên kiểm tra kiến thức của HS thì giờ đây câu hỏi được đưa ra để dẫn dắt HS đi tìm hiểu ngọn nguồn của chân lí. Câu hỏi chính là sự trao đổi kiến thức, các nguồn thông tin giữa GV và HS, tạo ra một cuộc đối thoại trong văn chương giữa giáo viên - nhà văn (tác phẩm) - học sinh. Ở lứa tuổi THPT, kiến thức, kinh nghiệm đời sống xã hội các em còn hạn chế cho nên trong quá trình dạy học GV cần đi từ cái có sẵn, dần dần tới mức độ cao hơn. Việc xây dựng hệ thống câu hỏi phục vụ cho bài học cũng cần tuân theo nguyên lí đó. Với hệ thống câu hỏi nêu vấn đề, GV có thể xây dựng câu hỏi ở các mức độ với các dạng như dạng câu hỏi tái hiện kiến thức; dạng câu hỏi nêu vấn đề, mang tính nhận xét, khám phá. Ví dụ 1: Nếu là Tràng, em có đưa người “vợ nhặt” đó về nhà mình không? Hành động đó của Tràng cho thấy vẻ đẹp nào trong tâm hồn và tính cách của nhân vật? Giáo viên chuẩn bị những tình huống mà học sinh có thể đưa ra sau câu hỏi
Tài liệu đính kèm: