Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giảng dạy ca dao trong chương trình Ngữ văn THPT

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giảng dạy ca dao trong chương trình Ngữ văn THPT

 Ở đây con sông không thực mà cái cầu lại càng ảo. Có con sông ấy thì mới có cái cầu ấy. Nó đích thực là cái cầu tình yêu trong ca dao mà lại là cái cầu của người con gái chủ động bắc cho người mình yêu trong sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến . Nó táo bạo, mãnh liệt nhưng cũng rất trữ tình ý nhị biết bao bởi nó là cái yếm vật mềm mại luôn quấn quýt bên người con gái: Nó chính là người con gái Người con gái muốn dùng cái vật thân thiết gần gũi nhất của mình để bắc cầu mời mọc người mình yêu. Cái cầu dải yếm được tạo nên từ chính máu thịt, cuộc đời, trái tim rạo rực yêu đương của những người con gái làng quê.Nó trở thành cái cầu tình yêu đẹp nhất trong ca dao và chỉ có tư duy nghệ thuật dân gian thì mới sáng tạo ra được một cái cầu như thế: Vừa gần gũi thân quen vừa táo bạo mà trữ tình đằm thắm đầy nữ tính. Trong hệ thống hình ảnh cái cầu của ca dao, nó là kết tinh đẹp đẽ nhất bởi từ cái cầu- dải yếm này không chỉ có tâm hồn đẹp của người lao động trong tình yêu mà còn có cả cách nói đẹp của họ trong việc biểu đạt tình yêu đó.

doc 32 trang Người đăng Hoài Minh Ngày đăng 16/08/2023 Lượt xem 189Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giảng dạy ca dao trong chương trình Ngữ văn THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ữ tình là thống nhất vì đó là tiếng nói tâm tình trực tiếp của người lao động. Ở những bài ca dao mà nhân vật trữ tình là người phụ nữ ( Người vợ lẽ, vợ lính, nàng dâu) chắc chắn tác giả ban đầu của chúng cũng là những người phụ nữ có cảnh ngộ và tâm trạng đúng như cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật trữ tình mà bài ca dao phản ánh. 
 -Thân em như tấm lụa đào 
 Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai? 
 - Thân em như con hạc đầu đình
 Muốn bay không cất nổi mình mà bay. 
Những câu ca dao như vậy chắc chắn là sự tự bộc lộ của tác giả do đó tác giả và nhân vật trữ tình chỉ là một. 
 Trong ca dao cổ nhất là bộ phận ca dao trữ tình việc xác định nhân vật trữ tình gắn liền với xác định đối tượng trữ tình của nó. Nhân vật trữ tình chính là chủ thể bộc lộ tình cảm còn đối tượng trữ tình chính là chủ thể tiếp nhận tình cảm. Hai loại chủ thể này đồng thời là đối tượng trao đổi tình cảm của nhau. Trong ca dao đối đáp nam nữ hai loại nhân vật này thường xuyên đổi vị trí cho nhau. Khi bên này là chủ thể bộc lộ thì bên kia là chủ thể tiếp nhận và ngược lại:
 - Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
 Tre non đủ lá đan sàng nên chăng? 
 - Đan sàng thiếp cũng xin vâng
 Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng ? 
Ở câu trên nhân vật là chàng trai( Anh) đối tượng trữ tình là cô gái( Nàng). Còn ở câu dưới thì ngược lại cô gái là chủ thể , chàng trai là đối tượng trữ tình. 
Trong trường hợp bài ca dao chỉ là một vế của sự đối hoặc đáp thì việc xác định nhân vật trữ tình thuận lợi hơn xác định đối tượng trữ tình vì ở đây đối tượng trữ tình lặng yên không nói. Trong trường hợp như vậy thì việc xác định đối tượng trữ tình chỉ có thể làm một cách gián tiếp thông qua nhân vật trữ tình căn cứ vào lời lẽ xưng hô, bộc lộ tình cảm của nhân vật trữ tình mà đoán định 
 Bài ca dao “ Khăn thương nhớ ai” có thể xác định nhân vật trữ tình chính là cô gái qua cách xưng hô” Em” và bộc lộ tâm trạng thương nhớ người yêu với nỗi nhớ thương triền miên da diết khắc khoải trong mọi không gian và thời gian. 
 Bài ca dao “ tát nước đầu đình” ta biết đối tượng trữ tình là cô gái , một cô gái chưa chồng , người bạn cùng làng của chàng trai , căn cứ vào cách xưng hô của chàng trai với các đại từ “em” “cô ấy” và câu : 
 Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho
Việc xác định đối tượng trữ tình là công việc quan trong có ý nghĩa phương pháp luận đối với việc giảng dạy ca dao. Nếu hiểu không đúng đối tượng trữ tình có thể dẫn đến sự hiểu sai bài ca dao. 
 Ví dụ bài ca dao: “ Cái bống đi chợ cầu Nôm” nếu không chú ý đến đối tượng trữ tình của nó ( đứa trẻ đang rất ngây thơ bé bỏng) và chủ thể trữ tình của nó ( Người mẹ , người bà, người chị) thì không thể nào hiểu được bài ca dao ấy, thậm chí có thể rơi vào sự suy diễn thiếu căn cứ.
 Trong mỗi bài ca dao đối tượng trữ tình có thể là một cũng có thể là một số nhân vật khác nhau. Bài “ Tóc quăn chải lược đồi mồi” nhân vật trữ tình là người con ở đang bất bình với chủ nhà cao độ và quyết định bỏ chủ ra về. Đối tượng trữ tình gồm nhiều nhân vật thuộc những đối tượng khác nhau ( Chúng bạn chăn trâu, cái rổ, cái rế, cái cọc cầu ao, con trâu và có lúc là tất cả mọi người như là than thở với đời chứ không phải riêng ai) 
Vì thế đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất trong bài ca rất phong phú và thay đổi tùy từng đối tượng. Với chúng bạn, người con ở xưng mình là “ tớ” một cách thân mật , tự nhiên:
 Giã ơn chúng bạn chăn trâu
 Tớ về Đồng Bãi hái dâu chăn tằm
 Tớ ở chưa được nửa năm
 Chúa nhà mắng tớ, tớ nằm không yên.
Với những công cụ lao động, những đồ dùng thân thuộc hàng ngày anh xưng “ tao” và “ mày” coi chúng như người bạn đặc biệt của mình.
 Giã ơn cái rổ cái sề
 Tao chẳng ở nữa tao về nhà tao
 Giã ơn cái cọc cầu ao
 Nửa đêm gà gáy có tao có mày 
 Giã ơn con trâu kéo cày
 Tao không ở nữa ai chăn mày trâu ơi!
 Ca dao thường sử dụng biểu tượng nên khi tìm hiểu bài ca dao cần xem xét biểu tượng trong bài. Bài ca dao “ Khăn thương nhớ ai” nỗi thương nhớ được diễn tả cụ thể và gợi cảm. Đó là nhờ cách nói riêng mang tính nghệ thuật của ca dao. Nỗi niềm thương nhớ của cô gái đối với người yêu được biểu lộ cụ thể sinh động bằng các biểu tượng “ Khăn , đèn , mắt” đặc biệt là hình ảnh Khăn. Khăn , đèn được nhân hóa, còn mắt là phép hoán dụ để nói đến nhân vật trữ tình. Cô gái hỏi khăn, đèn , mắt chính là cô tự hỏi lòng mình và hẳn là nhớ thương bồn chồn lắm cô mới hỏi dồn dập đến vậy. Khăn , đèn , mắt là biểu tượng cho nỗi niềm thương nhớ của cô gái đang yêu. 
 Câu ca dao: Thân em như hạt mưa rào
 Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa 
Hạt mưa chỉ thân phận của người con gái .
 Ca dao còn sử dụng nhiều hình ảnh biểu tượng khác như: Bến sông chỉ sự chờ đợi ngóng trông :
 Thuyền về có nhớ bến chăng? 
 Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
 Mận, đào, trúc , mai, loan ,phượng chỉ sự gắn bó trong tình yêu . Mỗi biểu tượng đều có một cơ sở lịch sử văn hóa xã hội và ngữ nghĩa nhất định , trong quá trình phân tích cần tìm được cái hay , cái đẹp mà biểu tượng ấy thể hiện.
 Khi phân tích một bài ca dao cần phối hợp giữa phân tích tổng thể tác phẩm và từng chi tiết vừa phân tích sự kiện vừa phân tích lối dùng từ ngữ hình ảnh.
 Ước gì sông rộng một gang
 Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.
Đây là ước muốn của cô gái cũng là lời cô thầm nói với người yêu của mình. Cô đã thổ lộ ước muốn đó trong một ý tưởng táo bạo bằng một hình ảnh độc đáo: Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi 
Trong ca dao tình yêu cái cầu là là chi tiết nghệ thuật quen thuộc và đặc sắc , xuất hiện với tần số khá lớn trở thành biểu tượng để chỉ nơi hẹn hò , gặp gỡ của những đôi lứa đang yêu, là phương tiện để họ đến với nhau. Cái cầu đó có khi là cành hồng, cành trầm , nhiều khi là ngọn mồng tơi . Đó là những cái cầu không có thực được dệt nên bằng ước mơ táo bạo của con người. Nhưng chính những cái cầu ảo đó lại đem đến một vẻ đẹp rất dân gian , rất đồng quê mà chỉ ca dao mới có được. 
Đặt trong hệ thống hình ảnh cái cầu nói trên càng thấy rõ vẻ đẹp của cái cầu dải yếm. Ước muốn đã độc đáo tạo ra cái cầu để thực hiện ước muốn đó lại càng độc đáo hơn. 
 Ước gì sông rộng một gang
 Bắc cầu dải yếm đẻ chàng sang chơi
 Ở đây con sông không thực mà cái cầu lại càng ảo. Có con sông ấy thì mới có cái cầu ấy. Nó đích thực là cái cầu tình yêu trong ca dao mà lại là cái cầu của người con gái chủ động bắc cho người mình yêu trong sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến . Nó táo bạo, mãnh liệt nhưng cũng rất trữ tình ý nhị biết bao bởi nó là cái yếm vật mềm mại luôn quấn quýt bên người con gái: Nó chính là người con gái Người con gái muốn dùng cái vật thân thiết gần gũi nhất của mình để bắc cầu mời mọc người mình yêu. Cái cầu dải yếm được tạo nên từ chính máu thịt, cuộc đời, trái tim rạo rực yêu đương của những người con gái làng quê.Nó trở thành cái cầu tình yêu đẹp nhất trong ca dao và chỉ có tư duy nghệ thuật dân gian thì mới sáng tạo ra được một cái cầu như thế: Vừa gần gũi thân quen vừa táo bạo mà trữ tình đằm thắm đầy nữ tính. Trong hệ thống hình ảnh cái cầu của ca dao, nó là kết tinh đẹp đẽ nhất bởi từ cái cầu- dải yếm này không chỉ có tâm hồn đẹp của người lao động trong tình yêu mà còn có cả cách nói đẹp của họ trong việc biểu đạt tình yêu đó. 
 Mặt khác trong ca dao cũng có những mô típ , đó là sự lặp lại các hình ảnh quen thuộc như: Con cò , bến nước, cây đa,hay lối lặp từ ngữ như: Chiều chiều , thân em 
 Hiện tượng liên kết tác phẩm thành chuỗi diễn ra phổ biến ở ca dao. Vì vậy khi giảng dạy tác phẩm văn học dân gian không thể bỏ qua đơn vị “ Chuỗi” đồng thời không thể phủ nhận tính chất độc lập tương đối của những đơn vị nhỏ trong đó. Có những chuỗi ca dao gồm những bài trùng nhau về đề tài , chủ đề nhưng hoàn toàn độc lập chứ không phải là dị bản của nhau. Vì vậy trong quá trình giảng dạy ca dao cần lưu ý học sinh tìm thêm những câu ca dao khác có chung chủ đề nằm trong hệ thống đơn vị “ chuỗi” với cách mở đầu đã thành mô típ quen thuộc: 
 - Thân em như hạt mưa rào
 Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
 - Thân em như hạt mưa sa
 Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
 - Thân em như miếng cau khô
 Người thanh chuộng mòng, người thô tham dày.
 - Thân em như con cá rô thia
 Ra sông mắc lưới, vào đìa mắc câu.
Ca dao được mở đầu bằng câu nói quen thuộc thương thay, con cò vv...
 - Thương thay thân phận con rùa
 Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia!
 - Thương thay thân phận quả dừa
 Non thì khoét mắt, già cưa mất đầu 
 - Con cò mỏng mảnh mỏng manh
 Nó ngồi nó vá tấm xanh tấm vàng 
 - Con cò bắt tép bờ sông 
 Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non!
 - Con cò đi đón cơn mưa
 Tối tăm mù mịt ai đưa cò về. 
 Khi bài ca dao đã xác định được thời kì xuất hiện, địa bàn lưu hành , thể loại, nhân vật trữ tình thì ta có cơ sở để phân tích chủ đề, nội dung nghệ thuật và ý nghĩ hiện đại của nó. Cái khó là vấn đề vận dụng cụ thể , trong đó bao gồm vấn đề cảm thụ cái hay của bài ca dao và khả năng truyền đạt thể hiện sự cảm thụ ấy. Ở đây người giảng ca dao phải biết kết hợp chặt chẽ hai loại tư duy: Tư duy lô gic bằng khái niệm qua hệ thống thuật ngữ nghiên cứu văn học dân gian và tư duy hình tượng với hệ thống ngôn ngữ phong phú đa dạng giàu tính cụ thể và gợi cảm của đời sống. Sự kết hợp này được thể hiện bằng việc phân tích chủ đề qua việc phân tích nội dung nghệ thuật, đến việc tìm đến mối quan hệ của bài ca dao với đời sống hiện nay hoặc qua phân tích đặc điểm nghệ thuật mà rút ra nội dung ròi từ việc phân tích nội dung, chủ đề bài ca dao mà rút ra ý nghĩa hiện đại của nó. 
 Chẳng hạn bài ca dao “ Con cò mà đi ăn đêm” là bài ca dao trữ tình có tính chất ngụ ngôn độc đáo. Lí tưởng thẩm mĩ, triết lí sống cao đẹp được tác giả trình bày dưới hình thức một câu chuyện ngụ ngôn về con cò gặp tai nạn trong lúc kiếm ăn. Bài ca dao có hai nhân vật “ Con cò” và “ Ông” đều do nhân dân sáng tác ra để bộc lộ tư tưởng thẩm mĩ và triết lý sống cao đẹp của mình. Cần tập trung khai thác sâu vào hình tượng con cò. Con cò rất yêu đời, han sống: “ Ông ơi ông vớt tôi nao” đó là lời khẩn cầu tha thiết về sự yêu đời ham sống của nó. Ham sống nhưng không sợ chết. Vì thế con cò trong cơn hoạn nạn “ Lộn cổ xuống ao” vẫn đủ tỉnh táo để lường trước cái chết có thể đến với mình. Và nó yêu cầu điều thứ hai nếu điều thứ nhất là cứu sống không được chấp nhận. 
 Có xáo thì xáo nước trong
 Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
 Con cò không muốn chết nhưng điều làm cho nó sợ hơn cả cái chết là sự chết trong “ nước đục”. Nó chủ động chọn cái “chết trong” nếu phải chết. Sự lựa chọn ở đây vừa đau xót vừa cao thượng. Cái cao thượng và cái bi ở đây bắt nguồn từ triết lí sống “ Chết trong còn hơn sống đục”.
 Khi tìm hiểu, giảng dạy về ca dao viết về thân phận con người ( Ca dao than thân) đặc biệt là hình ảnh về người phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, người giáo viên cần làm cho học sinh thấy được thân phận bị phụ thuộc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, họ không tự quyết định được số phận mình. Nội dung đó được diễn tả bằng những hình ảnh so sánh và ẩn dụ khác nhau. 
 - Thân em như tấm lụa đào
 Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
 - Thân em như miếng cau khô 
 Người thanh chuộng mỏng, người thô tham dày.
Những sự vật: tấm lụa đào, miếng cau khô, giếng nước giữa đang được dẫn ra chủ yếu với nội dung nói về “giá trị sử dụng” thì đây lại là so sánh hay để nói về thân phận người phụ nữ xưa chỉ được chú ý ở mặt sử dụng. Từ ý nghĩa về giá trị sử dụng đó các câu ca dao còn làm rõ thân phận bị phụ thuộc của họ. Điều đó có nghĩa là ta có thể khai thác từ phân tích giá trị nghệ thuật để rút ra nội dung.
 Ngoài ra khi phân tích bình giảng ca dao cần làm rõ hai yếu tố “ Sự” và “ tình” Sự do tình mà nảy sinh, tình nhờ sự mà bộc lộ. Tình cảm và sự việc trong ca dao gắn bó như hồn với xác. Không có tình cảm chân thực thiết tha thì sự việc trong bài ca dao sẽ trở thành cái xác không hồn và không có sự việc thì tình cảm giống như hồn không có xác không nơi nương tựa và không thể tồn tại. 
 Hỡi cô cắt cỏ bên sông
 Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang 
“ Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang” là cái “ Sự” hư cấu bịa đặt nhưng cái “tình” ở đây thì hoàn toàn chân thực thiết tha. Chính sự chân thực thiết tha cao độ của tình cảm là điều kiện thúc đẩy trí tưởng tượng của tác giả ( chàng trai) giúp cho tác giả hư cấu và bịa đặt được cái “ Sự” độc đáo và nên thơ đó. Sự gắn bó giữa sự và tình giữa hư và thực trong câu ca dao này chính là ở chỗ đó. Sự trong ca dao bao gồm sự việc và cảnh vật, nó có thể là có thực hoàn toàn hoặc hư cấu hoàn toàn hoặc vừa có thực vừa hư cấu. Nhưng dù thé nào thì sự có mặt của nó trong bài ca dao cũng là do yêu cầu của tình cảm và nhằm bộc lộ tình cảm 
 Vì vậy sự và tình trong ca dao có sự kết chặt như hòa nhập vào nhau không thể tách rời. Dạy ca dao nếu sa vào sự việc, cảnh vật mà quên mất tình cảm hoặc coi nhẹ tình cảm của tác giả thì không đạt hiệu quả. 
 Có thể thấy rằng quá trình lĩnh hội phân tích lí giải một bài ca dao bao gồm nhiều khâu , nhiều bước cụ thể. Người giáo viên văn học khi dạy ca dao cần làm cho học sinh hiểu : Bài ca dao ra đời trong hoàn cảnh và trường hợp nào? Được lưu hành sớm nhất và nhiều nhất ở đâu? Thuộc thể loại nào? Chủ thể nhân vật trữ tình của bài ca dao là gì? hay bài ca dao là tiếng nói của ai? Người ấy như thế nào? Đối tượng trữ tình của bài ca là gì? Xác định nội dung truyền đạt phô diễn của bài ca dao là gì? ( Vấn đề chủ yếu mà tác giả bài ca dao muốn nói) Hình thức nghệ thuật bài ca dao là gì? ( Sự phô diễn tâm tư tình cảm bằng phương pháp ,phương tiện nghệ thuật như thế nào) Ngoài ra cần làm rõ bài ca dao có mối liên hệ gì với cuộc sống hiện nay?
Thứ tự trước sau của các khâu các bước trên diễn ra linh hoạt thay đổi theo từng đối tượng cụ thể bởi trong thực tế khi tìm hiểu ca dao có nhiều bài khác nhau. Nhưng cho dù thế nào thì cũng không thể thay đổi nguyên tắc chung và tinh thần nội dung cơ bản của chúng.
 3. Thực trạng học sinh học tập bộ môn văn 
Từ thực trạng học sinh nói chung và học sinh trường THPT số 1 Mường Khương còn ngại học văn, không yêu thích môn học bởi đây là môn học khó cần ở học sinh khả năng cảm thụ văn chương tốt, trí tưởng tượng phong phú, sự ham hiểu biết, vốn sống, vốn kinh nghiệm mà lứa tuổi học sinh THPT chưa có kinh nghiệm sống, sự hiểu biết cuộc sống xã hội còn nhiều hạn chế. Hơn nữa đối tượng học sinh của trường chủ yếu là học sinh vùng dân tộc thiểu số trình độ nhận thức, khả năng tiếp thu kiến thức còn nhiều hạn chế, năng lực cảm thụ văn chương còn yếu thì vấn đề đặt ra đối với mỗi người giáo viên đứng lớp là phải lựa chọn phương pháp giảng dạy tối ưu để nâng cao chất lượng giờ lên lớp cũng như hiệu quả học tập của học sinh.
 Trong chương trình Ngữ văn THPT có hai bộ phận văn học: văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian chiếm dung lượng khá lớn với nhiều thể loại phong phú một trong những thể loại học sinh yêu thích đó là ca dao. Tuy vậy đây cũng là thể loại khó đòi hỏi người giáo viên Ngữ văn phải có hiểu biết về kiến thức văn học dân gian, có năng lực cảm thụ văn chương và phương pháp thiết kế bài học , cách tổ chức hoạt động học tập đặc biệt phải nắm được đặc trưng thể loại để có phương pháp giảng dạy phù hợp giúp học sinh chủ động tiếp thu kiến thức nhằm đạt hiệu quả cao trong giảng dạy 
Trước thực trạng đó đòi hỏi mỗi giáo viên cần phải học tập nghiên cứu tự bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy, áp dụng các kĩ thuật dạy học phù hợp kiểu bài lên lớp và đối tượng học sinh. 
4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm :
 Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu về văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng, ở mỗi thể loại người giáo viên ngữ văn cần xác định rõ về cách thức tổ chức giờ học và sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp với kiểu bài, thể loại thực hiện theo nguyên tắc chung và tinh thần cơ bản của chúng. 
 Việc đi nghiên cứu về phương pháp giảng dạy ca dao trước hết giúp người giáo viên có cái nhìn đúng đắn về một thể loại tiêu biểu trong bộ phận văn học dân gian để từ đó có phương pháp tiếp cận khai thác các giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản về tác phẩm mà còn làm cho tâm hồn người học thêm phong phú, yêu quý văn học dân gian hiểu được vẻ đẹp tâm hồn của người bình dân xưa qua ca dao.
 Đối với giáo viên việc tập trung vào tìm hiểu phương pháp giảng dạy theo đặc trưng thể loại đã có hiệu quả nhất định trong giảng dạy, luôn có ý thức đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng yêu cầu giáo dục trong thờì đại mới. Với đề tài trên đã tạo được sự thống nhất về phương pháp tiếp cận, giảng dạy ca dao, một thể loại văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn THPT nhằm phát huy khả năng tích cực chủ động của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
THỰC HÀNH SOẠN GIẢNG:
Ngày soạn : 
Ngày giảng:
Tiết 26+ 27 
CA DAO THAN THÂN YÊU THƯƠNG TÌNH NGHĨA 
A. Mục tiêu bài học:
1. Kiến thức:
	- Nắm được khái niệm ca dao qua tác phẩm cụ thể.
	- Cảm nhận được tiếng hát than thân và lời ca yêu thương tình nghĩa của người bình dân trong xã hội phong kiến qua nghệ thuật đậm màu sắc dân gian của ca dao.
	- Vận dụng kiến thức về đặc trưng thể loại để phân tích những tác phẩm cụ thể.
*Kiến thức trọng tâm: 
-Tiết 1: Cảm nhận tiếng hát than thân và lời ca yêu thương tình nghĩa qua bài ca dao số 1,2,3
-Tiết 2: Cảm nhận tiếng hát than thân và lời ca ythương tình nghĩa qua bài ca dao số 4,5,6
Giáo viên tập trung vào dạy bài ca dao 1,4 6 còn lại các bài 2.3.5 học sinh tự học theo sự hướng dẫn của giáo viên 
2.Kĩ năng:
- Rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm và phân tích thơ trữ tình dân gian.
3. Thái độ:
	- Có thái độ đồng cảm, trân trọng đối với vẻ đẹp tâm hồn người lao động và yêu quý những sáng tác của họ.
B.Tổ chức giờ học:
1.Kiểm ta bài cũ(3 phút): Y/n phê phán của 2 truyện cười đã học?
2.Khởi động : GV dẫn vào bài, HS lắng nghe.
3.Tổ chức các hoạt động:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV- HS
NỘI DUNG CẦN ĐẠT 
HĐ 1: Tìm hiểu chung 
-Tgian: 7 phút
-Ptiện: SGK
-Ppháp: Giảng, vấn đáp.
Nhắc lại khái niệm ca dao. 
Căn cứ vào nội dung người ta chia ca dao ra làm mấy loại?
Các thể thơ thường được sử dụng trong các sáng tác ca dao?
Đặc trưng nghệ thuật của ca dao?
I.Tìm hiểu chung:
1. Khái niệm : ( SGK)
2. Phân loại: - Ca dao than thân
 - Yêu thương tình nghĩa
 - Ca dao hài hước
3. Thể thơ: Lục bát, lục bát biến thể, thể vãn
4. Nghệ thuật: Nghệ thuật truyền thống, mang đậm sắc thái dân gian.
Khái quát nội dung của ca dao?
- Giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ
- Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, dễ hiểu, có lối diễn đạt mang tính công thức.
5. Nội dung: Diễn tả đ/s tâm hồn, tinh thần, t/c của nd trong các mqh gia đình, XH, đất nước.
HĐ 2: Đọc văn bản:
-Tgian: 8 phút
-Ptiện: SGK
-Ppháp: Giảng, vấn đáp, thảo luận-sử dụng kĩ thuật Khăn trải bàn
GV định hướng cách đọc, đọc mẫu.
Gọi HS sinh.
Kết hợp phân tích với chú thích chân trang để giải thích từ khó.
GV cho HS thảo luận nhóm 2 trong 2 phút theo câu hỏi: Chia nhóm các bài ca dao theo chủ đề?
GV nhận xét, chốt ý.
II. Đọc văn bản:
1.Đọc:
2.Giải thích từ khó:
3.Bố cục:
-Bài 1,2:Lời than thân của ng phụ nữ trong XH cũ
-Bài 3:Duyên kiếp không thành nh nghĩa tình vẫn bền vững, sắt son.
-Bài 4:Nỗi niềm nhớ thương

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_giang_day_ca_dao_trong_chu.doc