Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Tiếng Anh lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Tiếng Anh lớp 3

Cần phải được thiết kế, bố trí, sắp xếp để phù hợp với nhu cầu của nhiều loại trí tuệ khác nhau ở HS. Ứng với mỗi loại trí tuệ, cần đặt một số câu hỏi theo gợi ý sau: Từ ngữ dùng trong lớp học đã phù hợp với HS chưa? HS được tiếp xúc với chữ viết như thế nào? (Ngôn ngữ); Thời gian biểu đã phù hợp với HS chưa (logic/toán học); Bàn ghế, các thiết bị dạy học trong lớp bố trí hợp lí chưa?

Có thuận tiện cho hoạt động thực nghiệm (như sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột, hay học nhóm, vẽ bản đồ tư duy, ) hay chỉ kê bàn ghế theo một kiểu, một dãy bàn thẳng từ trên xuống dưới? Trang trí lớp học như thế nào? Trần, tường, ánh sáng như thế nào? HS có được chiêm ngưỡng trang trí đẹp mắt, thân thiện không, có tranh ảnh, hội họa không? Hay chỉ là mảng tường trống, phòng học trống không?,

Chằng hạn, về trang trí lớp học, năm học 2016- 2017, các thầy cô trong trường TH Nguyễn Thị Minh Khai đã trang trí lớp học theo mô hình trường học mới rất thành công, các lớp được trang trí rất thân thiện, vui mắt, tường lớp học được sơn sửa và trang trí bằng những những hình ảnh gần gũi thiên nhiên và địa phương.

Vận dụng đa trí tuệ trong dạy học, giáo viên cần vận dụng các phương pháp dạy học tích cực một cách linh hoạt, mềm dẻo, đa dạng phù hợp với các loại trí thông minh khác nhau của HS lớp mình đang giảng dạy.

 

doc 26 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 4617Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Tiếng Anh lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trẻ em. Stern cho rằng dùng tuổi trí tuệ (MA) chia cho tuổi thực là cách để đo lường tốc độ học tập (để tránh các số lẻ, người ta nhân kết quả với 100). ông William Stern đã gọi đó là “chỉ số tuổi trí tuệ”.
Năm 1916, nhà tâm lý học người Mỹ thuộc Trường đại học Stanford là ông Lewis Terman (1877-1956) đã sửa đổi các bài trắc nghiệm của Alfred Binet thành bài trắc nghiệm Stanford-Binet và đưa ra ý niệm về “chỉ số thông minh” IQ.
Năm 1949, nhà tâm lý học David Wechsler cho phổ biến “thước đo thông minh Wechsler” dùng cho các thiếu niên từ 5 tới 15 tuổi, thước đo trí thông minh dùng cho người trưởng thành (năm 1955) dùng để trắc nghiệm mọi người từ 16 - 64 tuổi, phần tiêu chuẩn đặc biệt dùng cho người cao tuổi từ 60 - 75 tuổi.
Để xác định tuổi trí tuệ (MA), các nhà giáo dục và tâm lý học đã dùng tới các bài trắc nghiệm để đo lường khả năng trí tuệ của các em học sinh. Các câu hỏi được xếp đặt từ dễ đến khó và liên quan tới trí nhớ, cách lý luận, các định nghĩa, khả năng tính các con số và khả năng nhớ lại các dữ kiện. Theo cách tính theo IQ, điểm trung bình là 100 theo các bậc, ví dụ từ 132 trở lên là cực kỳ thông minh, 121-131 rất thông minh, 89-110 thông minh trung bình, 79-88 kém thông minh, dưới 67 là đần độn.
Nhưng bản thân những bài trắc nghiệm đo trí thông minh khó đánh giá một cách công bằng các khả năng của mọi người. Ví dụ: Nếu bài trắc nghiệm bằng tiếng Anh, khiến những người bản xứ sẽ thuận lợi hơn. Một người đi du lịch nhiều sẽ có điểm trắc nghiệm cao hơn người khác trong lĩnh vực này.
Các bài trắc nghiệm về trí thông minh chỉ giới hạn phạm vi đo lường vào các khả năng lý luận toán học và ngôn ngữ, mà hầu như đã bỏ quên những năng khiếu khác như sự khéo tay, năng khiếu thể thao, khả năng giao tiếp, âm nhạc và nghệ thuật... Mặt khác, IQ test đã không xét tới các tài năng và khuynh hướng thường không được xếp hạng như tài thuyết phục, tài thương lượng...
Năm 1988, thuyết Đa trí tuệ (trí thông minh đa dạng) được Giáo sư Tâm lý học Howard Gardner của đại học Harvard giới thiệu lần đầu trong quyển “Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences”. Ông phản bác quan niệm truyền thống về khái niệm thông minh, vốn được đồng nhất và đánh giá dựa theo các bài trắc nghiệm IQ. Ông cho rằng khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ khả năng tri thức đa dạng của con người.
Ông đã chỉ ra rằng mỗi người trong chúng ta đều tồn tại một vài kiểu thông minh trong số 8 loại: ngôn ngữ, lôgic/toán học, âm nhạc, không gian, vận động cơ thể, giao tiếp (tương tác cá nhân), nội tâm (hướng nội), thiên nhiên (tự nhiên học). Tuy nhiên, ứng với mỗi cá nhân sẽ có những loại trí thông minh vượt trội hơn các trí thông minh còn lại.
2. Thực trạng
 * Thuận lợi
- Môn Tiếng Anh là môn mới được áp dụng đối với học sinh tiểu học trong những năm gần đây. Vì vậy một số học sinh cảm thấy có hứng thú, hoặc yêu thích với môn học còn mới mẻ này, nên mỗi khi lên lớp đa số học sinh rất tích cực.
- Được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường; sự quan tâm của cha mẹ học sinh, giáo viên chủ nhiệm lớp.
- Trường có tương đối đầy đủ về thiết bị, đồ dùng dạy học như : băng đài, đĩa, máy chiếu phục vụ cho việc dạy và học. Có cơ sở vật chất và xây dựng phòng học, đóng bàn ghế theo chuẩn.
- Có nhiều cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học hành của con em. Học sinh ngoan, ham mê học Tiếng Anh.
- Có được sự hợp tác tốt giữa giáo viên và học sinh.
 - Qua quá trình học tập, tìm hiểu qua sách báo, tài liệu cũng như quá trình giảng dạy đã giúp cho tôi có những kinh nghiệm thiết thực trong khi thực hiện.
 * Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì vẫn còn một số khó khăn còn gặp phải:
 + Hầu hết học sinh ở đây đều là con em thuần nông, con em dân tộc thiểu số nên điều kiện đầu tư cho các em còn hạn chế, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần học tập của các em;
 + Trường chưa có phòng học chức năng riêng biệt với đầy đủ trang thiết bị;
 + Do điều kiện và hoàn cảnh, phụ huynh chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của môn Tiếng Anh, nên chưa quan tâm, đốc thúc các em học môn học này, dẫn đến một số em không có điều kiện mua sách vở đầy đủ. 
+ Do điều kiện phát triển về mọi mặt còn hạn chế, điều kiện để các em học sinh tiểu học được tiếp xúc với các thông tin đại chúng, các chương trình giải trí sử dụng Tiếng Anh còn ít. Dẫn đến khả năng giao tiếp của các em còn hạn chế, huống hồ là giao tiếp bằng Tiếng Anh.
 + Bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh chỉ học qua loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu cầu các em sẽ không thành công.
 + Hơn nữa các em cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn để tự học ở nhà. Bởi vì là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết. 
3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Thuyết Đa trí tuệ cho rằng, mỗi cá nhân hầu như đều đạt đến một mức độ nào đó ở từng “phạm trù thông minh” khác nhau. Đặc biệt, mức độ này không phải là “hằng số” trong suốt cuộc đời của mỗi người mà có thể sẽ thay đổi (tăng hay giảm) tùy vào sự trau dồi của mỗi cá nhân.
Theo Howard Gardner, trí thông minh đa dạng cho thấy mỗi con người có khả năng biểu đạt tri thức của mình theo 8 cách khác nhau và học theo cách tốt nhất như thế nào.
Khi áp dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học, lực học của HS sẽ được nhìn nhận dưới góc độ tích cực hơn và nhân văn hơn, định nghĩa về “giỏi” trong học tập sẽ mang tính tổng quát hơn so với hiện nay. Điều này giúp HS tự tin vào bản thân và có thể khám phá và mở rộng năng lực cá nhân của mình từ đó khơi gợi tiềm năng, tạo điều kiện học tập theo các hướng khác để HS thành công và tỏa sáng hơn trong tương lai.
Gardner đã chỉ ra rằng: Trường học thông thường chỉ đánh giá một trẻ học sinh thông qua 2 loại trí thông minh là trí thông minh về ngôn ngữ và trí thông minh về logic, và điều này là không chính xác. Trường học đã bỏ rơi các em có thiên hướng học tập thông qua âm nhạc, vận động, thị giác, giao tiếp nhiều học sinh đã có thể học tập tốt hơn nếu chúng được tiếp thu kiến thức bằng chính thế mạnh của chúng. Vì vậy khi áp dụng thuyết đa trí tuệ , GV có thể giúp HS phát triển khả năng của mình hơn, không đánh đồng hay cào bằng khả năng riêng của mỗi HS từ đó có cái nhìn nhân văn hơn với khả năng và thành tích của HS.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
GV cần coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi HS
Nhiều nhà tâm lý học, nhà giáo dục đã thử ứng dụng thuyết này vào quá trình nghiên cứu của mình. Trong số đó, Thomas Armstrong đã ứng dụng thành công một phần thuyết đa trí tuệ của H. Gardner vào việc giảng dạy và giáo dục.
Ông đã công bố một số cuốn sách nổi tiếng như: 7 loại hình trí thông minh, Bạn thông minh hơn bạn nghĩ, Đa trí tuệ trong lớp học, các cuốn sách này chủ yếu viết về các vấn đề giáo dục và hướng dẫn cha mẹ giáo dục con cái, giúp giáo viên dạy học theo các phương pháp nhằm phát huy các năng lực trí tuệ nổi trội của con em mình.
 * Vận dụng trong dạy học: 
Giáo viên cần coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi học sinh, mỗi loại trí tuệ đều quan trọng và mỗi học sinh đều có ít nhiều khả năng theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh phải là nơi giúp đỡ, khơi gợi tiềm năng, tạo điều kiện học tập theo các hướng khác nhau cho các chủ nhân tương lai của xã hội.
*Về phương pháp dạy học: 
Thuyết đa trí tuệ giúp giáo viên cách suy ngẫm, chọn lựa phương pháp dạy học sao cho hay nhất và phù hợp nhất với bản thân họ và họ hiểu thấu đáo vì sao phương pháp đó là hiệu quả hoặc chỉ hiệu quả với HS này mà không hiệu quả với HS kia.
Thuyết này cũng giúp GV áp dụng linh hoạt hơn các PPDH và kĩ năng sử dụng các tài liệu, các thiết bị dạy học đa dạng hơn, phong phú hơn. GV trong lớp học đa trí tuệ khác với trong lớp học truyền thống ngôn ngữ hoặc lôgic-toán học. Trong lớp học đa trí tuệ, GV phải linh hoạt thay đổi phương pháp và khéo léo chuyển từ lối dạy ngôn ngữ sang lối dạy không gian rồi lối dạy âm nhạc hay vận động, giao tiếp,
Qua nghiên cứu và thực nghiệm cho thấy, việc tổ chức dạy học bằng áp dụng linh hoạt, tổng hợp các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tích cực triển khai gần đây như đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, bàn tay nặn bột, bản đồ tư duy, sẽ tạo ra môi trường học tập đa trí tuệ rất hiệu quả.
Trong đó, phương pháp dạy học theo phương pháp kết hợp nhiều trí thông minh ở HS, góp phần phát triển toàn diện cho học sinh. Theo định hướng này, GV tổ chức dạy học kết hợp với sự tham gia của nhiều yếu tố “trí thông minh” trong cùng một hoạt động học:
Hoạt động 1: HS nghiên cứu tài liệu, tìm từ khóa (phát huy trí thông minh nội tâm, ngôn ngữ) sau đó đọc bài dưới sự hướng dân của GV.
Hoạt động 2: HS thực hành nhóm, lớp về nội dung, dưới sự dẫn dắt gợi ý của GV (phát huy trí thông minh giao tiếp);
Hoạt động 3: HS tham gia chơi trò chơi về chủ đề đang học dưới sự hướng dẫn của GV trong đó có sự kết hợp của âm nhạc, quan sát, vận động (phát huy trí thông minh ngôn ngữ, lôgic, không gian) 
Hoạt động 4: HS thuyết trình hay thực hành nói cùng bạn trước lớp. Việc thuyết trình cần cả ngữ điệu, âm điệu, điệu bộ cơ thể (phát huy trí thông minh giao tiếp, hình thể động năng, âm nhạc).
	Qua đây tôi cũng xin chia sẻ cách vận dụng thuyết đa trí tuệ vào giảng dạy của mình thông qua các hoạt động trong giờ học để học sinh nắm bài tốt hơn.
	Sau khi áp dụng hoạt động 1 và 2 trong lồng ghép vào nội dung bài học, thì hoạt động 3,4 là hoạt động giúp học sinh phát triển “trí thông minh” của chính bản thân mình rõ ràng nhất. Và hoạt động thường được lồng ghép vào các trò chơi với nhiều sự kết hợp của trí thông minh riêng biệt giúp mỗi học sinh không cảm thấy bị bỏ rơi trong giờ học “ngôn ngữ”.
Biện pháp 1: Sử dụng songs, chants trong dạy học
Với việc sử dụng các bài hát, bài chant đơn giản, vui tươi có liên quan đến chủ đề bài học có thể kích thích các học sinh thoải mái hơn và tai sẽ quen dần với vỏ âm thanh của một thứ tiếng khác tiếng mẹ đẻ đây là cách giúp học sinh thả lỏng trước khi vào bài. 
Một bài chant sử dụng trong Unit 8: This is my pen (SGK Tiếng Anh 3)
Chuẩn bị: 
- Băng, đĩa, máy chiếu.
- Bài chant 
Cách thực hiện:
- Giáo viên ổn định lớp và bật bài chant 1 đến 2 lần cho học sinh nghe và quan sát hình ảnh trong bài chant.
- Giáo viên cho học sinh nhẩm theo lời bài chant
- Giáo viên cho học sinh đọc bài chant theo nhịp từ 2 đến 3 lần.
Với bàn chant này, vừa mở bài chant chúng ta có thể cho học sinh nghe, quan sát hình và đọc theo mỗi đồ vật hiện lên lần lượt mà không cần đưa thêm chữ hay show bài chant. Đây cũng là cách áp dụng thuyết đa trí tuệ vào bài dạy một cách gián tiếp. Học sinh được kích thích trí thông minh của riêng mình qua nhịp điệu, âm thanh, hình ảnh và sự vận động xuất hiện hay biến mất của hình ảnh. Ngoài ra chúng ta có thể áp dụng các trò chơi để học sinh nhớ lại các kiến thức đã học và là bước Pre- tuyệt vời. 
Biện pháp 2 : Sử dụng trò chơi trong dạy học
Touch the pictures : tôi thấy đây là trò chơi có thể áp dụng cho bước Pre- hoặc Post- các kĩ năng nghe, nói và viết đều có hiệu quả.
Chuẩn bị: 
Một chiếc bàn.
Một số tấm flash card có liên quan đến chủ đề.
Một bài hoặc một đoạn nhạc vui nhộn.
Cách chơi: 
GV yêu cầu mỗi nhóm cử từ 1- 2 HS tham gia trò chơi
HS đứng xung quanh chiếc bàn có những tấm flashcard.
GV bật nhạc và HS sẽ di chuyển xung quanh bàn, HS vừa di chuyển có thể vừa nhún nhảy hay lắc lư theo nhạc. Nhạc dừng HS lập tức dừng lại. 
GV hô to tên một tấm card và HS sẽ dùng búa ( hoặc thước) đập vào tấm card. HS nào đập vào trước sẽ dành được tấm card. Lúc này GV sẽ yêu cầu HS đó dùng mẫu câu đã học có liên quan để nói về tấm card vừa đạt được. Nếu HS nói đúng sẽ dành dược tấm card về cho nhóm của mình, nếu sai thì HS sẽ trả tấm card lại chiếc bàn. GV sẽ bật nhạc và gọi tên liên tục để HS di chuyển và tham gia trò chơi cho đến khi kết thúc bài nhạc. Giáo viên có thể cho nhiều lượt học sinh tham gia trò chơi. Đội nào có nhiều flashcard hơn sẽ là đội chiến thắng. 
	 Một hoạt động trong Unit 17: Do you have any pets? (SGK tiếng Anh 3)
Great artist (Họa sĩ đại tài)
Chuẩn bị: 
Một chiếc bàn.
Một số tờ giấy A4 trắng (tùy thuộc vào số lượng HS tham gia).
Một bài hoặc một đoạn nhạc vui nhộn.
4 hoặc 6 cây bút màu (tùy thuộc vào số lượng nhóm trong lớp).
Cách chơi: 
GV nêu rõ chủ đề của trò chơi hôm nay ( school things, plcaes in the school, family, ..) .
GV yêu cầu mỗi nhóm cử từ 1- 2 HS tham gia trò chơi hoặc chia thành niều lượt chơi cho nhiều học sinh có thể
HS đứng xung quanh chiếc bàn, trên chiếc bàn có những tờ giấy A4 đặt sẵn.
GV bật nhạc và HS sẽ di chuyển xung quanh bàn, HS vừa di chuyển có thể vừa nhún nhảy hay lắc lư theo nhạc. 
Nhạc dừng HS lập tức dừng lại và vẽ nhanh hình ảnh có liên quan đến chủ đề của trò chơi vào tờ giấy gần mình nhất. Nhạc bật lên, HS lại tiếp tục di chuyển và nhạc dừng HS lại vẽ vào một tờ giấy gần mình cho đến khi hết giờ hoặc có tín hiệu kết túc từ giáo viên. 
GV sẽ yêu cầu các HS dùng mẫu câu đã học có liên quan để nói về những hình ảnh trên tờ giấy trước mặt mình. Với mỗi câu đúng với hình vẽ HS sẽ ghi được một điểm. GV có thể cho nhiều lượt học sinh tham gia để học sinh có nhiều hơn cơ hội thể hiện. Kết thức trò chơi, đội nào có tổng điểm cao nhất sẽ là đội chiến thắng.
Một hoạt động trong Unit 15: Do you have any toys?(SGK Tiếng anh 3)
Việc học từ vựng vô cùng quan trọng nhưng với học sinh đây lại không phải là việc dễ dàng và trò chơi sắp tới đây gần như có thể giúp các em giảm nhẹ áp lực khi học từ vựng. Đây có thể coi là một bản cam kết dễ thương của học sinh hơn là một trò chơi.
Calendar Diary(Nhật kí)
Đúng như tên gọi học sinh sẽ ghi lại quá trình học của mình và HS cũng tự đánh giá quá trình ghi nhớ và tiến bộ của bản thân qua thời gian học tập.
Chuẩn bị:
Gv chuẩn bị cho mỗi học sinh một tờ giấy A4 có 30-31 ô trống tương đương với số ngày trong tháng hoặc bản photo một tờ lịch để bàn của từng tháng.
Cách tiến hành
Vào ngày thứ 6 cuối cùng của hàng tháng GV sẽ tới lớp, phát cho mỗi HS một tờ “lịch” của tháng sau.
GV yêu cầu HS một ngày sẽ chọn cho mình một từ vựng yêu thích để học,( có thể là từ vựng trong sách, bên ngoài hay bất cứ từ gì mà em muốn), HS có thể viết từ vựng vào kèm phiên âm,vẽ hay dùng sticker hình ảnh về từ vựng mình muốn học. HS có thể tra từ điển, tra google hay hỏi GV để biết nghĩa từ mà HS thích.
Cuối tháng GV sẽ thu các “nhật kí” của HS lại và đặt các câu hỏi cho HS về các từ có trong “nhật kí”.
GV có thể yêu cầu HS đọc to , đặt câu hay viết các câu có thể thành lập với những từ có trong “nhật kí” và tiến tới xa hơn HS sẽ có thể sử dụng các từ trong nhật kí để viết các đoạn văn đơn giản. HS sẽ chia sẻ “nhật kí” của mình với bạn bè.
Qua “nhật kí” GV cũng như HS có thể đo được sự tiến bộ của HS. 
Một mẫu về Calendar Diary
Biện pháp 3:Về môi trường lớp học đa trí tuệ: 
Cần phải được thiết kế, bố trí, sắp xếp để phù hợp với nhu cầu của nhiều loại trí tuệ khác nhau ở HS. Ứng với mỗi loại trí tuệ, cần đặt một số câu hỏi theo gợi ý sau: Từ ngữ dùng trong lớp học đã phù hợp với HS chưa? HS được tiếp xúc với chữ viết như thế nào? (Ngôn ngữ); Thời gian biểu đã phù hợp với HS chưa (logic/toán học); Bàn ghế, các thiết bị dạy học trong lớp bố trí hợp lí chưa?
Có thuận tiện cho hoạt động thực nghiệm (như sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột, hay học nhóm, vẽ bản đồ tư duy,) hay chỉ kê bàn ghế theo một kiểu, một dãy bàn thẳng từ trên xuống dưới? Trang trí lớp học như thế nào? Trần, tường, ánh sáng như thế nào? HS có được chiêm ngưỡng trang trí đẹp mắt, thân thiện không, có tranh ảnh, hội họa không? Hay chỉ là mảng tường trống, phòng học trống không?,
Chằng hạn, về trang trí lớp học, năm học 2016- 2017, các thầy cô trong trường TH Nguyễn Thị Minh Khai đã trang trí lớp học theo mô hình trường học mới rất thành công, các lớp được trang trí rất thân thiện, vui mắt, tường lớp học được sơn sửa và trang trí bằng những những hình ảnh gần gũi thiên nhiên và địa phương.
Vận dụng đa trí tuệ trong dạy học, giáo viên cần vận dụng các phương pháp dạy học tích cực một cách linh hoạt, mềm dẻo, đa dạng phù hợp với các loại trí thông minh khác nhau của HS lớp mình đang giảng dạy.
Thực hiện tốt năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phát động cũng góp phần phát huy đa trí tuệ cho học sinh. Chẳng hạn, làm tốt nội dung hoạt động tập tập thể (câu lạc bộ, thể dục, thể thao, trò chơi dân gian) là phát huy trí thông minh âm nhạc, trí thông minh vận động, trí thông minh giao tiếp cho HS.
Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học, giúp giáo viên đổi mới cách dạy, cách nhìn nhận, đánh giá HS, tránh việc dán nhãn mác yếu kém cho những học sinh chưa giỏi toán, giỏi văn, giúp các em tự tin hơn và có cách học phù hợp nhất, hiệu quả nhất với khả năng nổi trội của mình, qua đó hiệu quả giáo dục được nâng cao.
Vận dụng thuyết đa trí tuệ cũng giúp cha mẹ HS tránh áp lực về điểm số, chú ý tới giáo dục toàn diện và khích lệ con em mình trong học tập, rèn luyện và định hướng lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai phù hợp với sở trường, khả năng của mỗi em.
Hàng ngày mỗi chúng ta đều sử dụng tám loại hình thông minh nhưng cách thể hiện hoàn toàn khác nhau. Mỗi chúng ta là một bài hát được viết nên từ 8 nốt nhạc Đồ, Rê, Mi, Fa, Son, La, Si, Đô. Cách chúng ta kết nối các nốt nhạc rất khác biệt nên không có bài hát nào giống nhau hoàn toàn. Khi sử dụng tất cả các loại hình trí thông minh theo cách của riêng mình, mỗi người sẽ góp vào thế giới một giai điệu riêng biệt mà không ai có thể tạo ra.
Một số hình ảnh trang trí lớp học theo mô hình trường học mới của trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai
3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
 Môn Tiếng Anh là môn học giúp học sinh thư giãn sau các giờ học khác. Học sinh được chơi, được tìm tòi suy nghĩ và bộc lộ bản thân qua từng kỹ năng nghe, nói, đọc, viết khác nhau. Với đề tài này, tôi đã giúp các em yêu thích môn Tiếng Anh, hạn chế cảm giác lo sợ vì không biết các từ vựng, các mẫu câu. Học sinh biết rèn trí nhớ của bản thân khi luyện chữ, học các từ vựng, không bị ảnh hưởng bởi lời chê của các bạn khác. Các phương pháp trên giúp bồi dưỡng rèn luyện óc quan sát, trí nhớ, cách giao tiếp ở học sinh, giúp các em tìm tòi thể hiện để vươn tới sự tự tin trong học tập, giúp các em ngày càng học tốt môn Tiếng Anh.
 3.4. Mối quan hệ giữa các biện pháp
 Trong một tiết cũng như một quá trình học tập các phương pháp giảng dạy luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ trợ cho nhau vì thế nắm chắc các yêu cầu cơ bản của các tiết học về từ vựng và mẫu câu, thiết kế và sử dụng đồ dùng dạy học phù hợp, lồng ghép trò chơi trong các tiết học được đưa vào nhằm giúp các em tiếp thu bài nhanh, học sinh yêu thích môn học, nhớ bài lâu hơn và chất lượng môn Tiếng Anh được nâng lên rõ rệt.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Vào đầu năm học 2017 - 2018 tôi đã dạy và khảo sát chất lượng môn Tiếng Anh qua một tiết dạy theo phương pháp thông thường và cho làm bài kiểm tra ngắn ở 3 lớp 3A, 3B và 3C. Qua đó, có kết quả khảo sát như sau: 
Số lượng học sinh ( 3 lớp)
 Kiểm tra bài có điểm từ 8,0 -> 10
Kiểm tra bài có điểm từ 5,0 -> 7,0
Kiểm tra bài có điểm dưới trung bình
SL
TL(%) TL(%) 
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
95
100%
25
26,3
55
57,9
35
15,8
Sau khi thực hiện giải pháp tôi thấy chất lượng học tập của cả 3 lớp đã được nâng lên rõ rệt, so với đầu năm học mà tôi dạy bình thường không vận dụng các phương pháp trên thì chất lượng các kỹ năng của các em có tiến bộ hơn nhiều. 
-  Một số học sinh đã phát huy được năng khiếu của mình, có sự sáng tạo, cũng như phát huy được tính tự học cao. Tiết học trở nên thoải mái, nhẹ nhàng. Học sinh tự tin hơn khi nói, đọc, viết trong tiết học. 
- Kết quả cụ thể như sau: Kết quả thi học kì I năm học 2017 - 2018
Số lượng học sinh ( 3 lớp)
 Kiểm tra bài có điểm từ 8,0 -> 10
Kiểm tra bài có điểm từ 6,0 -> 7,0
Kiểm tra bài có điểm dưới trung bìn

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN cô Đào Thị Thu Hằng.doc