Theo thống kê của Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ thống kê ở Việt Nam có hơn 24.000 tiến sĩ. Con số này nhiều gấp 5 lần Nhật Bản và 10 lần Israel. Vậy tại sao nước ta vẫn nghèo nàn lạc hậu? Tại sao Việt Nam vẫn phải nhập rất nhiều máy móc, thiết bị từ nước ngoài? Tại sao các sáng chế hầu hết thuộc về những người dân không bằng cấp? Chắc hẳn những nghiên cứu khoa học của các giáo sư, tiến sĩ chỉ nằm trên tập giấy vì nó không phù hợp với thực tế, không đáp ứng được nhu cầu của người dân, không phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của đất nước hoặc họ chưa có cơ hội để phát huy tài năng của bản thân. Như vậy, có kiến thức chưa hẳn đã mang lại lợi ích cho xã hội. Chính vì vậy, phương pháp “Học tập phục vụ cồng đồng” mà tôi lựa chọn để áp dụng vào tiết học theo chủ đề nhằm giúp các em học sinh phần nào hiểu được tầm quan trọng của việc áp dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong thực tiến.
Đối với học sinh lớp 7, mặc dù mới được học tập bộ môn Tin học ở mức độ sơ khai, nhưng do ảnh hưởng của đời sống công nghệ hiện đại, hầu hết các em đều sử dụng thành thạo máy tính và các phần mềm tin học cơ bản: Word, excel Tuy nhiên, các kỹ năng mềm cần thiết như: Tìm kiếm mục tiêu, sáng tạo trong học tập, kỹ năng thuyết trình, báo cáo, lắng nghe và học tập những lời phê bình đánh giá, làm việc đồng đội, giao tiếp tự tin vẫn còn khá non nớt. Hầu hết các em học tập một cách thụ động và biệt lập. Nhiều học sinh trong lớp còn khá rụt rè, ngại hỏi giáo viên, sợ giơ tay đóng góp ý kiến, sợ phát biểu sai bị các bạn chê cười Học sinh không hứng thú với môn học, mỗi tiết học dần trở nên buồn tẻ, nặng nề hơn đối với cả học sinh và giáo viên. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả dạy và học. Chính vì thế song song với việc nâng cao kết quả học tập, mỗi giáo viên cần chú trọng bồi dưỡng kỹ năng mềm cho học sinh – nền tảng để tạo nên sự thành công của các em, xóa bỏ suy nghĩ “Tin học là môn học nhàm chán”. Và đó chính là lí do tôi chọn đề tài “ Sử dụng phương pháp Học tập phục vụ cộng đồng nhằm pháp huy các kỹ năng cần thiết cho học sinh”
ủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực theo hướng hiện đại: Phương pháp vấn đáp, phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp dạy học tình huống Tuy nhiên chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc, ồ ạt mà phải áp dụng có chọn lọc và phù hợp với đối tượng học sinh, cấp học và cơ sở vật chất của từng nhà trường. Một lớp học có quá đông học sinh thì không thể tiết học nào cũng tổ chức học theo nhóm. Đổi mới dạy học không có nghĩa là bài trừ, loại bỏ phương pháp dạy học truyền thống mà là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa 2 yếu tố trên. Theo thống kê của Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ thống kê ở Việt Nam có hơn 24.000 tiến sĩ. Con số này nhiều gấp 5 lần Nhật Bản và 10 lần Israel. Vậy tại sao nước ta vẫn nghèo nàn lạc hậu? Tại sao Việt Nam vẫn phải nhập rất nhiều máy móc, thiết bị từ nước ngoài? Tại sao các sáng chế hầu hết thuộc về những người dân không bằng cấp? Chắc hẳn những nghiên cứu khoa học của các giáo sư, tiến sĩ chỉ nằm trên tập giấy vì nó không phù hợp với thực tế, không đáp ứng được nhu cầu của người dân, không phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của đất nước hoặc họ chưa có cơ hội để phát huy tài năng của bản thân. Như vậy, có kiến thức chưa hẳn đã mang lại lợi ích cho xã hội. Chính vì vậy, phương pháp “Học tập phục vụ cồng đồng” mà tôi lựa chọn để áp dụng vào tiết học theo chủ đề nhằm giúp các em học sinh phần nào hiểu được tầm quan trọng của việc áp dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong thực tiến. Đối với học sinh lớp 7, mặc dù mới được học tập bộ môn Tin học ở mức độ sơ khai, nhưng do ảnh hưởng của đời sống công nghệ hiện đại, hầu hết các em đều sử dụng thành thạo máy tính và các phần mềm tin học cơ bản: Word, excel Tuy nhiên, các kỹ năng mềm cần thiết như: Tìm kiếm mục tiêu, sáng tạo trong học tập, kỹ năng thuyết trình, báo cáo, lắng nghe và học tập những lời phê bình đánh giá, làm việc đồng đội, giao tiếp tự tin vẫn còn khá non nớt. Hầu hết các em học tập một cách thụ động và biệt lập. Nhiều học sinh trong lớp còn khá rụt rè, ngại hỏi giáo viên, sợ giơ tay đóng góp ý kiến, sợ phát biểu sai bị các bạn chê cười Học sinh không hứng thú với môn học, mỗi tiết học dần trở nên buồn tẻ, nặng nề hơn đối với cả học sinh và giáo viên. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả dạy và học. Chính vì thế song song với việc nâng cao kết quả học tập, mỗi giáo viên cần chú trọng bồi dưỡng kỹ năng mềm cho học sinh – nền tảng để tạo nên sự thành công của các em, xóa bỏ suy nghĩ “Tin học là môn học nhàm chán”. Và đó chính là lí do tôi chọn đề tài “ Sử dụng phương pháp Học tập phục vụ cộng đồng nhằm pháp huy các kỹ năng cần thiết cho học sinh” 2. Mục đích nghiên cứu Thông qua đề tài giúp các em học sinh: - Rèn luyện, nâng cao kỹ năng thực hành cho học sinh, nắm bắt và giải quyết vấn đề trong thực tiễn thông qua các tình huống và đề tài thực tế. - Củng cố các kiến thức trong bộ môn Tin học và các liên môn khác: Địa lý, Vật lý, Sinh học - Nâng cao chất lượng dạy - học và tạo hứng thú của học sinh trong quá trình dạy học nhờ ứng dụng những kiến thức của bài học vào cuộc sống. - Nâng cao tính chủ động và sáng tạo của học sinh do tạo được sự tương tác giữa các học sinh - học sinh, học sinh – giáo viên, học sinh – máy tính, học sinh - cộng đồng dựa trên những tình huống, bài tập cụ thể từ sách giáo khoa, các chủ đề từ giáo viên bộ môn và các giáo viên khác trong nhà trường. - Rèn luyện và nâng cao kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nhận xét, đánh giá của học sinh qua mỗi nhiệm vụ được giao. - Tạo môi trường học tập thân thiện, thoải mái. - Học sinh tự tạo ra được các sản phẩm nho nhỏ, được áp dụng trong phạm vi trường học điều đó giúp các em thấy được tầm quan trọng của bản thân, tạo động lực để các em cố gắng hơn trong học tập và trong cuộc sống; để lại những dấu ấn tốt đẹp trong 3. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, ứng dụng. 3.1 Thời gian - Năm học . 3.2 Đối tượng - Các bài giảng môn tin học lớp 7. - Các bài giảng môn địa lý, vật lý, sinh học 7 - Các tình huống thực tiễn. - Học sinh lớp 7A, 7D. - Thông qua giờ dạy của bản thân, qua các tiết dự giờ của đồng nghiệp từ đó quan sát , nhận xét kệt luận kết quả trước và sau khi tiến hành nghiên cứu. 3.3 Phạm vi nghiên cứu, ứng dụng đề tài Từ kinh nghiệm giảng dạy bộ môn Tin học, thực trạng kỹ năng mềm, phương pháp học của học sinh hiện nay. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tìm tài liệu - Phương pháp thực nghiệm - Phương pháp khảo sát thực tiễn - Phương pháp đàm thoại - Phương pháp thống kê - Phương pháp quan sát , tổng kết đúc rút kinh nghiệm - Nghiên cứu một số phương pháp tích cực hóa hoạt động của học sinh trong học tập Tin học ở nhà cũng như ở trường 5. Kết quả khảo sát trong học kì I năm học .. Phần lý thuyết Mức độ hiểu các khái niệm Trước khi thực hiện đề tài Số học sinh Tỷ lệ Hiểu đúng 65/94 69.15% Hiểu sai 29/94 30.85% Phần thực hành Mức độ thao tác Trước khi thực hiện đề tài Số học sinh Tỷ lệ Thao tác đúng 62/94 66% Thao tác chậm 23/94 24.4% Chưa biết thao tác 9/94 9.6% Tỉ lệ học sinh hứng thú với môn học Trước khi thực hiện đề tài Số học sinh Tỷ lệ Thích học Tin học 67/94 71.3% Bình thường 15/94 16% Không thích 12/94 12.7% PHẦN II - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận 1.1 Một số thông tư, nghị quyết về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. - Tháng 10/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. - Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". - Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo - Nghị quyết 40/2000/QH10 và chỉ thị 14/2001/CT-TT về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: Nội dung chương trình là tích cực áp dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy và học. - Thông tư số 14/2002/TT-BGD&ĐT về việc hướng dẫn quán triệt chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông. - Chỉ thị 29/CT của Trung ương Đảng về việc đưa công nghệ thông tin vào nhà trường. 1.2 Khái niệm “Học tập phục vụ cộng đồng”. Trong đề tài “Sử dụng phương pháp Học tập phục vụ cộng đồng nhằm pháp huy các kỹ năng cần thiết cho học sinh” chúng ta bắt gặp một khái niệm khá mới “Học tập phục vụ cộng đồng”. Học tập phục vụ cộng đồng ( tên tiếng Anh là Service Learning hoặc Community – based learning) là một phương pháp dạy và học mà thông qua đó người học áp dụng được những kiến thức học được trong lớp vào điều kiện thực tế, đồng thời kết quả của quá trình học đáp ứng nhu cầu của cộng đồng và được cộng đồng sử dụng. Vì phạm vi ứng dụng đề tài dành cho học sinh khối 7, nên cộng đồng ở đây tôi giới hạn trong tập thể lớp, các giáo viên trong trường, tập thể nhà trường và tham khảo một số tình huống thực tiễn của cộng đồng dân cư lân cận. Chính vì thế cần một sự phối hợp làm việc, hợp tác trên cở sở của các mối quan hệ của 4 thành phần tham gia đó là: nhà trường, giáo viên, cộng đồng và học sinh. Học tập phục vụ cộng đồng trong mối quan hệ giữa hoạt động học và phục vụ ( dựa theo sơ đồ của Trường Miami – Dade College) Để những kiến thức và kỹ năng đã được học trở nên hữu ích và thực tế hơn, tôi đã kết hợp với một số bộ môn khác như Địa lý, Vật lý, Công nghệ, Sinh học để tạo ra những nhóm học theo phương pháp học tập phục vụ cộng đồng. Học sinh sẽ giải quyết các vấn đề thực tiễn ( được lồng ghép và mỗi bài tập trên lớp) thông qua hoạt động làm việc nhóm theo sở thích, các em thích học địa lý sẽ giải quyết các bài tập liên quan tới địa lý, các em thích môn sinh học sẽ giải quyết các yêu cầu về môn sinh học Với phương pháp mới này liên quan đến nhiều lĩnh vực, học sinh được lấy làm trung tâm, và hòa nhập với những vấn đề thực tiễn của thế giới thực tại. Phương pháp này làm phong phú kiến thức của học sinh từ lý thuyết đến thực tế và ngược lại, quá trình học này thông qua trải nghiệm nên học sinh có điều kiện tăng cường kiến thức, rèn luyện và phát triển kỹ năng mềm như tư duy suy xét, tổng hợp , làm việc theo nhóm, giao tiếp, thuyết trình và các kỹ năng sống. 2.Thực trạng 2.1 Về cơ sở vật chất: Mặc dù đã có phòng Tin học riêng nhưng số lượng máy còn hạn chế (20 máy). Mỗi tiết thực hành có tới 2 đến 3 em cùng thực hành trên một máy vi tính nên các em không có đủ thời gian để thực hành và làm bài tập. Hơn nữa một số máy chất lượng khá kém, cấu hình máy thấp, phần mềm cài đặt trong máy không đầy đủ nên ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh. Diện tích phòng Tin học nhỏ hẹp nên quá trình hoạt động nhóm của học sinh gặp nhiều hạn chế. Về phía giáo viên: Do môn Tin học mới là môn tự chọn trong chương trình ở bậc THCS nên chương trình và phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất. Ngoài ra, sự hạn chế về cơ sở vật chất đã dẫn đến việc áp dụng các phương pháp dạy học mới gặp khá nhiều khó khăn. Về phía học sinh: Do tư tưởng học sinh coi môn Tin học là môn phụ nên các em chưa thực chú tâm vào môn học. Đa số các em chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường vào các tiết thực hành là chủ yếu, dẫn đến việc tìm tòi và khám phá máy vi tính cũng như tự rèn luyện các kĩ năng thực hành với các em còn rất hạn chế. Do đó việc học tập của học sinh vẫn còn mang tính thụ động. 3. Các bước tiến hành dựa trên phương pháp học tập phục vụ cộng đồng: 3.1.Cộng đồng nêu vấn đề cần giải quyết. Ngoài các bài tập trong sách giáo khoa tôi đã lồng ghép các bài tập thông qua việc cho học sinh tiếp cận với yêu cầu trong tiết đối thoại với giáo viên bộ môn liên quan, các tình huống thực tế mà các em đã được gặp hoặc các chủ đề mà giáo viên đưa ra Đối thoại với giáo viên: Đây là tình huống nêu vấn đề khá phổ biến, tuy nhiên việc đàm thoại với giáo viên bộ môn trong giờ Tin học rất hiếm, đặc biệt hơn nữa là qua thời gian đàm thoại, học sinh được giao lưu, trao đổi và nhận yêu cầu thực hành từ giáo viên bộ môn yêu thích. Từ đó tạo hứng thú cho học sinh, yêu thích môn học, được củng cố kiến thức liên môn. Một số yêu cầu của các giáo viên bộ môn -Yêu cầu của cô Nguyễn Thị Dung – giáo viên bộ môn Vật lý: Cho sơ đồ mạch điện như hình vẽ. Biết chỉ số của V1, V2 lần lượt là 1,5V và 4V. Tính hiệu điện thế giữa hai đầu Đ1, Đ2, Đ3, Đ4. -Yêu cầu của cô Huỳnh Thị Liên – giáo viên bộ môn Địa lí: Lượng mưa trung bình từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2015 theo thứ tự là 2mm, 9mm, 147mm, 226mm, 168mm, 348mm, 331mm,254mm, 120mm, 42mm, 5mm, 2mm. Vẽ biểu đồ minh họa lượng mưa trung bình của năm 2015 và nêu nhận xét. (Ảnh giáo viên dạy học sinh) -Dựa vào bảng số liệu về giới tính khi sinh (GTKS), giáo viên yêu cầu học sinh minh họa bằng bản đồ, sau đó nhận xét, trình bày hậu quả của sự mất cân bằng giới tính. (Ảnh giáo viên dạy học sinh) Xây dựng các chủ đề từ thực tiễn: Học sinh mỗi nhóm tự trao đổi để đưa ra yêu cầu cho các nhóm còn lại thực hiện, được hình thành dựa trên các tình huống, hoạt động thường mà học sinh đã gặp, trải nghiệm trong cuộc sống. Đối với cách này, giáo viên cần định hướng rõ ràng yêu cầu cụ thể của bài tập, tránh sự lan man, rườm rà, không rõ ý. Hai trong số nhiều chủ đề thực tế được học sinh thảo luận và đưa vào bài học. Một số hình ảnh hoạt động nhóm của học sinh (Chèn ảnh) Nhóm 1 thảo luận về chủ đề “Đồ ăn” Nhóm 2 thảo luận về chủ đề “Sách – truyện” Nhóm 3 thảo luận về chủ đề “Album nhạc” Nhóm 4 thảo luận về chủ đề “Đồ uống” Những bài tập trên được học sinh đúc kết qua sự trải nghiệm của chính bản thân, do đó quá trình hoạt động theo nhóm sẽ diễn ra rất sôi nổi, hào hứng. Từ đó, học sinh học được cách tôn trọng, lắng nghe ý kiến của người khác. Biết thống nhất để đưa ra vấn đề. Biết vận dụng vấn đề thực tiễn vào các bài học. 3.2 Giáo viên lồng ghép các vấn đề cộng đồng cần giải quyết vào môn học thông qua các bài tập nhóm được phân loại theo sở thích của mỗi học sinh. Giáo viên tổng hợp các yêu cầu từ cộng đồng (Từ hoạt động nhóm của học sinh, từ giáo viên bộ môn), phân tích và loại bỏ những yêu cầu chưa thực sự hợp lý, lồng ghép vào môn học thông qua các kiến thức đã học: Tạo bảng thống kê, định dạng bảng, sử dụng các hàm cơ bản của Excel để tính toán, dùng biểu đồ minh họa số liệu từ đó làm cơ sở để nhận xét và đánh giá. Cuối cùng giáo viên phân loại các bài tập theo từng lĩnh vực: Vật lý, địa lý, toán học, đời sống học sinh sẽ được tự do lựa chọn nhóm bài tập để thực hành. Sự đổi mới của cách tiếp cận bài tập, sự đa dạng hóa các dạng bài tập đã tạo một động lực không nhỏ, gây thích thú, tò mò, kích thích mỗi học sinh. Từ đó mỗi em đều hoàn thành tốt bài tập của mình. 3.3 Học sinh làm việc nhóm để giải quyết vấn đề. Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì yêu cầu làm việc theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết vì trong thực tế cuộc sống không có ai là hoàn hảo, do đó làm việc theo nhóm có thể tập trung được những mặt mạnh của từng học sinh và bổ sung, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu, hơn nữa nó còn tạo ra được niềm vui và sự hứng thú trong học tập, sự đoàn kết trong một cộng đồng. Mỗi nhóm phải thống nhất được nhóm trưởng để phân công nhiệm vụ rõ ràng cho mỗi thành viên trong nhóm, tránh tình trạng ỷ lại vào bạn. 3.4 Học sinh báo cáo sản phẩm. - Học sinh báo cáo kết quả của bài tập theo nhóm. Người báo cáo sẽ được giáo viên chỉ định, như vậy tất cả học sinh đều phải nắm chắc được cách làm bài của nhóm mình. Ngoài ra, học sinh còn phải tự nghiên cứu thu thập tài liệu, thông tin trên sách vở hoặc báo; chọn lọc những kiến thức quan trọng nhất; sau đó tổng hợp và nêu nhận xét về biểu đồ. Sau khi hoàn thành các bài tập trên, sản phẩm của học sinh được cộng đồng sử dụng vào mục đích học tập, giảng dạy, các tiết học giáo dục về giới tính và các hoạt động khác của nhà trường. Biểu đồ “Lượng mưa trung bình các tháng trong năm 2015” được sử dụng trong giờ địa lý 3.5 Đánh giá kết quả tổng hợp. Kết quả của mỗi học sinh dựa trên sự đánh giá của giáo viên trong suốt quá trình hoạt động của nhóm, phần tự đánh giá của các thành viên trong nhóm, tham khảo ý kiến đánh giá của giáo viên bộ môn dựa trên sản phẩm hoàn thiện. Thể hiện trên phiếu đánh giá kết quả tổng hợp. Mẫu phiếu 4. Kết quả Phương pháp này có nhiều ưu điểm như: - Tính liên quan: Tạo ra kinh nghiệm học tập thu hút học sinh vào các tình huống, yêu cầu thực tiễn từ đó biết áp dụng các kiến thức kĩ năng đã học để giải quyết vấn đề. - Gây hứng thú: cách tiếp cận và giải quyết yêu cầu trở nên sinh động từ đó thúc đẩy ham muốn học tập, tăng cường năng lực hoàn thành công việc, chủ động hơn trong việc học. - Tính liên môn: Học sinh được tiếp cận với nhiều vấn đề liên quan đến các môn học khác, do đó phải sử dụng nhiều kiến thức của những môn học đó để giải quyết vấn đề. - Tính xác thực: Học sinh tiếp thu kiến thức và học cách trình diễn kiến thức. - Khả năng cộng tác: thúc đẩy sự cộng tác nhóm giữa học sinh và giữa học sinh và giáo viên - Tính khách quan, công bằng trong việc lựa chọn bài tập thực hành và quá trình đánh giá kết quả học tập ( thông qua mỗi hoạt động nhóm trên lớp cũng như ở nhà) - Tính kế thừa: sản phẩm của học sinh được kế thừa để sử dụng phục vụ quá trình học tập hoặc giảng dạy. Sau khi sử dụng phương pháp “Học tập phục vụ cộng đồng nhằm pháp huy các kỹ năng cần thiết cho học sinh” vào việc giảng dạy tôi thật sự thấy có hiệu quả: Về phía cá nhân mình, tôi thấy mình nâng cao được tính tổ chức, định hướng, đánh giá bài tập của học sinh. Khoảng cách giữa thầy – trò được rút ngắn, các tiết học thực sự thoải mái và hiệu quả hơn. Về phía học sinh các em hứng thú hơn khi được giao lưu với thầy cô bộ môn, được lựa chọn bài tập để hoàn thành theo môn học yêu thích mà không bị rập khuôn theo cách truyền thống. Vận dụng được các kiến thức tổng hợp, nắm vững kiến thức, tiếp thu bài tốt hơn, thể hiện được sự sáng tạo, tìm tòi, xây dựng cho bản thân những kỹ năng hữu ích. Kết quả thống kê sau khi áp dụng phương pháp mới: Phần lý thuyết:. Mức độ hiểu các khái niệm Sau khi thực hiện đề tài Số học sinh Tỷ lệ Hiểu đúng 89/94 94.7% Hiểu sai 5/94 5.3% Phần thực hành Mức độ thao tác Sau khi thực hiện đề tài Số học sinh Tỷ lệ Thao tác tốt 79/94 84% Thao tác chậm 15/94 16% Chưa biết thao tác 0/94 0% Tỉ lệ học sinh hứng thú với môn học Trước khi thực hiện đề tài Số học sinh Tỷ lệ Thích học Tin học 81/94 86.17% Bình thường 13/94 13.83% Không thích 0/94 0% Như vậy, dựa vào bảng khảo sát đầu năm khi chưa áp dụng phương pháp mới và bảng khảo sát sau khi áp dụng phương pháp “Học tập phục vụ cộng đồng” đã thu được thành tựu đánh kể: Số học sinh hiểu đúng kiến thức tăng từ 69.15% lên 84% (tăng 14.85%); số học sinh thao tác thành thạo tăng từ 66% lên 84% ( tăng 18%), không còn học sinh nào chưa biết thao tác; số lượng học sinh yêu thích môn học, hào hứng với tiết Tin học tăng và không còn học sinh nào thấy Tin học là bộ môn nhàm chán. Từ kết quả trên cho thấy khi ứng dụng phương pháp trên học sinh nắm chắc kiến thức, tiếp thu bài tốt hơn, thể hiện được sự sáng tạo, tìm tòi, xây dựng cho bản thân những kỹ năng cần thiết và mang lại hiệu quả cao trong hoạt động dạy và học. PHẦN III - KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Kết luận: Công nghệ thông tin nói chung và bộ môn Tin học nói riêng đã và đang là nền tảng cơ sở để phát triển các ngành khoa học khác. Việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong lĩnh vực CNTT ngày càng được chú trọng. Vì thế trách nhiệm của giáo viên không đơn thuần là truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn học sinh cách nắm bắt những luồng kiến thức mới một cách chủ động, thôi thúc học sinh tìm tòi và sáng tạo những kiến thức mới. Đề tài sử dung phương pháp “Học tập phục vụ cộng đồng nhằm pháp huy các kỹ năng cần thiết cho học sinh ” đã đạt được khá nhiều kết quả khả quan: - Hình thành cho học sinh kỹ năng thực hành, nhận diện và giải quyết vấn đề trong thực tiễn. - Nắm vững được kiến thức trong bộ môn tin học và các liên môn khác: Địa lý, vật lý, sinh học Ngoài ra học sinh còn nắm bắt được các kiến thức trong thực tế dựa trên các tình huống, bài tập thực tiễn. - Thông qua các buổi đàm thoại, hoạt động nhóm học sinh có cơ hội rèn luyện kĩ năng hoạt động tập thể, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, biết kết hợp với các thành viên trong nhóm để hoàn thành bài tập và hứng thú hơn với bài học. - Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động và sáng tạo. - Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nhận xét, đánh giá của học sinh được nâng cao qua mỗi nhiệm vụ được giao. - Tạo môi trường học tập thân thiện, thoải mái. - Tận dụng tối đa các thiết bị, tranh ảnh... vào việc giảng dạy. - Có những kiến thức căn bản trong việc sử dụng máy tính từ đó hình thành thói quen sử dụng máy tính trong hoạt động học tập, lao động. - Có thái độ đúng khi sử dụng máy tính và các sản phẩm tin học, bước đầu ứng dụng CNTT trong học tập, lao động. - Xây dựng kỹ năng nhận xét, đánh giá trong môi trường học đường cũng như ngoài xã hội. - Xây dựng phong cách sống khoa học, có tổ chức, đạo đức và văn hóa ứng xử. 2. Khuyến nghị Về phía bản thân giáo viên: Việc đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý. Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân. Về nhà trường: Mở rộng diện tích phòng Tin học, bố trí lại cấu trúc phòng học khoa họ
Tài liệu đính kèm: