Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện tính tự giác học tập trong công tác chủ nhiệm lớp cấp Trung học cơ sở

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện tính tự giác học tập trong công tác chủ nhiệm lớp cấp Trung học cơ sở

1.1. Lý do chọn đề tài

Có thể nói rằng học tập là con đường ngắn nhất để con người có được

hạnh phúc và thành công. Hiện nay trong nền kinh tế tri thức, cuộc cách mạng

cộng nghệ 4.0, thì việc học tập để phát triển bản thân, phát triển đất nước lại

càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Đảng và Nhà nước ta đã xác định: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, sự

nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng và toàn dân. mục tiêu giáo dục là

“đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức

khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công

dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Tự giác trong học tập là cơ sở, chìa khóa để hình thành cho học sinh sự tự

chủ, sống có bản lĩnh, trách nhiệm với bản thân và quê hương đất nước. Góp

phần hình thành những phẩm chất và năng lực cốt lõi của con người. Nhưng

hiện nay ý thức tự giác trong học tập của một số học sinh chưa tốt. Điều này ảnh

hưởng xấu đến bản thân, môi trường giáo dục và chất lượng, hiệu quả của sự

nghiệp giáo dục. Vì vậy, tôi đã tìm hiểu và viết sáng kiến “Rèn luyện tính tự

giác học tập trong công tác chủ nhiệm lớp cấp Trung học cơ sở” với mong muốn

nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm; góp phần thực hiện thành công mục

tiêu giáo dục.

pdf 21 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 05/03/2022 Lượt xem 4750Lượt tải 7 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện tính tự giác học tập trong công tác chủ nhiệm lớp cấp Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
con em mình, còn phó mặc trách nhiệm cho nhà trường. Một số phụ huynh chưa 
tự giác, chưa chủ động phối hợp với nhà trường để giáo dục con em mình. 
2.2.2. Thực trạng tính kỷ luật tự giác của học sinh trường Trung học 
cơ sở Nguyễn Tất Thành. 
a. Thành công: 
 Đa số học sinh ngoan, lễ phép, có ý thức tự giác thực hiện nghiêm túc nội 
quy trường, lớp. Học sinh biết yêu thương, quan tâm đến gia đình, người thân và 
bạn bè, có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ những người có hoàn 
cảnh khó khăn, bị bệnh hiểm nghèo, đặc biệt là những bạn bè cùng trường. 
 Học sinh có ý thức tự giác chủ động trong học tập và đạt được những 
thành tích cao. Số lượng học sinh đạt giải trong các kì thi do các cấp tổ chức 
tương đối nhiều. 
 Học sinh chủ động, năng động trong các hoạt động của Đoàn - Đội, tham 
gia tích cực, hiệu quả các phong trào thể dục thể thao, văn hoá văn nghệ như hội 
khỏe Phù Đổng, văn nghệ chào mừng 22/11, bày mâm quả trung thu; cuộc thi 
sáng tạo Khoa học kĩ thuật, Sáng tạo thanh thiếu niên, viết thư UPU 
 Học sinh tích cực trong lao động, bảo vệ môi trường xanh – sạch - đẹp, 
bảo vệ tài sản chung, có ý thức tiết kiệm điện, nước 
b. Hạn chế: 
 Trong công tác chủ nhiệm chưa xây dựng được tập thể lớp vững mạnh, ý 
thức tự giác, tự quản trong học tập của một số học sinh chưa tốt. 
 Một số học sinh thường xuyên vi phạm nội quy nhà trường, lớp học như 
đi học muộn, không đeo khăn quàng, không đóng thùng, đi dép lê; sinh hoạt 15 
phút đầu giờ chưa nghiêm túc. Một số học sinh hay nghỉ học vô lí do, cúp tiết, 
thậm chí còn cúp tiết, nghỉ học theo nhóm. Học sinh tham gia các hoạt động văn 
– thể - mĩ còn mang tính hình thức, đối phó, chưa thực sự hiệu quả. Vẫn còn 
những học sinh có hạnh kiểm trung bình. 
7 
Giáo viên: Dương Thị Bình Trường THCS Nguyễn Tất Thành 
 Một số học sinh chưa có ý thức tự giác trong học tập: không học bài cũ, 
không làm bài tập và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp. Một số học sinh có học 
lực yếu, kém, chán học, bỏ học giữa chừng hoặc phải thi lại, ở lại lớp. 
 Một số học sinh chưa hòa đồng, chơi theo nhóm, có thái độ phân biệt, đối 
xử với các bạn bè, giải quyết mâu thuẫn bằng vũ lực, đánh nhau; tình trạng này 
thậm chí còn diễn ra ở các học sinh nữ. 
 Ý thức bảo vệ tài sản chung, môi trường còn hạn chế. Một số học sinh 
còn xé rách các tờ bảng tin, đạp chân lên tường, ngắt ngọn cây, bông hoa trong 
khuôn viên trường; ý thức tiết kiệm điện, nước chưa cao. 
2.2.3. Các nguyên nhân, yếu tố tác động: 
Một số học sinh còn mơ hồ về mục tiêu học tập, nhận thức nghề nghiệp 
trong tương lai. Các em không hiểu rõ được sức mạnh của tri thức trong đời 
sống, không nhận thức được sâu sắc vai trò, ý nghĩa của học tập trong đời sống. 
Vì vậy các em chỉ đi học theo yêu cầu của cha mẹ, theo thói quen; không biết 
học để làm gì? 
Một số học sinh chưa biết cách lập kế hoạch học tập, thời gian học cụ thể, 
rõ ràng và kiên trì thực hiện theo kế hoạch đã đề ra. Các em chỉ học theo cảm 
hứng, khi học khi không, thiếu sự đều đặn. Một số học sinh chưa tìm ra được 
phương pháp học tập hiệu quả. Do vậy nhiệm vụ học tập trở nên khó khăn, nặng 
nề tạo ra tâm lí chán học, lười học, học qua loa, nghỉ học, bỏ học 
Một số học sinh còn thiếu ý thức trách nhiệm với bản thân, còn dựa dẫm, 
ỷ lại mọi việc vào cha mẹ. Do vậy không có ý thức tự chủ, tự giác trong học tập. 
Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, với nhiều kênh thông tin giải trí, 
các luồng thông tin không lành mạnh đã tác động tiêu cực đến nhận thức, tâm lí, 
lối sống của lứa tuổi thanh thiếu niên. Một số học sinh thiếu kĩ năng trong sử 
dụng đúng đắn, hiệu quả các trang mạng xã hội: Facebook, Twice, Messenger... 
đã ảnh hưởng ít nhiều quá trình và kết quả học tập của các em. 
Một số gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, cha mẹ phải đi làm công 
nhân hoặc làm nuơng rẫy xa, các em ở nhà với ông bà hoặc các anh chị em nên 
các em thường thiếu sự quan tâm, sự động viên từ gia đình. Một số gia đình có 
8 
Giáo viên: Dương Thị Bình Trường THCS Nguyễn Tất Thành 
điều kiện thì nuông chiều con, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của con, thay con 
làm mọi việc tạo cho các em tâm lí dựa dẫm vào cha mẹ, thiếu ý thức tự giác 
học tập và ý chí phấn đấu trong cuộc sống. Trong thời đại mới, nhiều phụ huynh 
học sinh thiếu kiến thức nuôi dạy con, không hiểu được tâm sinh lý của con em 
mình, vẫn còn la mắng, đòn roi. Trong quá trình giáo dục con, một số phụ huynh 
chưa chú trọng hướng dẫn con em mình xây dựng những giấc mơ, lý tưởng 
sống, xác định mục tiêu học tập cụ thể, giáo dục và rèn luyện cho các em ý thức 
tự chủ, trách nhiệm với bản thân và ý thức tự giác trong học tập. Phụ huynh 
thường quản lý về thời gian học tập, thúc giục và nhác nhở con cái học tập, 
thường chú trọng về quá trình học tập, điểm số. Cha mẹ thường nói với con 
mình “Không đi học thì con làm được trò trống gì”. “Không đi học thì ở nhà làm 
rẫy”. “học đi để sau này có một cuộc sống ổn định”. Vì vậy trên con đường học 
tập của mình, nhiều học sinh còn mơ hồ: Không biết trong cuộc sống mình cần 
gì và phải làm gì? Vì sao phải học tập? Những kiến thức ở nhà trường dùng để 
làm gì? 
Hiện nay, nhiều giáo viên còn thiên về bồi dưỡng chuyên môn mà chưa 
quan tâm đúng mực đến công tác chủ nhiệm. Trong công tác chủ nhiệm, giáo 
viên còn nặng về việc rèn luyện, chưa chú ý đến việc định hướng, bồi dưỡng 
động cơ học tập, ý thức tự giác. 
Sự kết hợp giáo dục học sinh giữa nhà trường – gia đình và xã hội chưa 
thực sự chặt chẽ. Một số phụ huynh chưa tự giác, chưa chủ động phối hợp với 
giáo viên chủ nhiệm, nhà trường trong việc giáo dục, quản lý con em mình. 
2.3. Các giải pháp, biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: 
2.3.1. Nguyên tắc cơ bản trong giáo dục tính tự giác trong học tập cho 
học sinh: 
Luôn coi trọng nguyên tắc “lấy học sinh làm trung tâm”, là chủ thể của 
quá trình giáo dục, biến giáo dục thành tự giáo dục, học thành tự học. Giáo viên 
đóng vai trò là người định hướng, hướng dẫn, tổ chức, quản lý, giám sát các nội 
dung và hoạt động giáo dục. Học sinh là chủ thể tích cực trong các hoạt động 
giáo dục. Chú trọng cho học sinh tự trải nghiệm trong học tập của học sinh. Giáo 
9 
Giáo viên: Dương Thị Bình Trường THCS Nguyễn Tất Thành 
viên hướng dẫn học sinh tự xác định động cơ học tập, mục tiêu học tập và 
phương pháp học tập. Chỉ thông qua tự học và tự trải nghiệm thực tế để giải 
quyết các vấn đề đặt ra trong học tập và cuộc sống thì các em mới hiểu rõ về bản 
thân, thế giới xung quanh, từ đó hình thành được năng lực tự chủ, trở thành 
người năng động, sáng tạo, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. 
2.3.2. Các giải pháp cụ thể: 
2.3.2.1. Giải pháp thứ nhất: Người thầy sử dụng một số phương pháp 
giáo dục như tâm giáo, khẩu giáo, thân giáo và quan trọng là người thầy 
cần biết cách truyền cảm hứng học tập cho học trò của mình. 
Người thầy phải có cái tâm trong sáng, lối sống lành mạnh, có lòng yêu 
nghề mến trẻ, luôn tôn trọng nhân cách của các em, luôn sẵn sàng lắng nghe, 
thấu hiểu, cảm thông và giàu lòng vị tha. 
Trong giao tiếp với học sinh, giáo viên phải luôn tôn trọng nhân cách học 
sinh, luôn giữ được sự điềm tĩnh, biết kiềm chế và kiên nhẫn trong các hoạt 
động giáo dục, tránh thái độ nóng giận, các hành vi bộc phát. 
Người giáo viên phải tác phong chuẩn mực, lời nói phải đi đôi với việc 
làm, phải là người gương mẫu đi đầu trong công việc. Có chuyên môn vững 
vàng, không ngừng học tập để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ. 
Người thầy cần biết cách truyền cảm hứng học tập cho học trò của mình. 
Bởi vì, cảm hứng học tập chính là động lực, nguồn năng lượng tích cực nuôi 
dưỡng ý thức tự giác học tập, từ đó chắp cánh cho những ước mơ của các em trở 
thành hiện thực. Cảm hứng học tập giúp học sinh luôn được tiếp lửa để đốt cháy, 
vượt qua những khó khăn, thách thức, những cám dỗ trên con đường học tập của 
mình. 
Giáo viên có thể truyền cảm hứng cho học trò của mình bằng một số cách 
thức như: các câu danh ngôn về học tập, câu chuyện của các nhân vật thành 
công ngoài cuộc sống. 
“Chúng ta không thể quyết định nơi mình sinh ra, nhưng chúng ta có 
quyền lựa chọn hướng đi cuộc đời mình. Một người luôn sống và nỗ lực hết 
mình, nhất định sẽ có một tương lai không tệ.” 
10 
Giáo viên: Dương Thị Bình Trường THCS Nguyễn Tất Thành 
Ví dụ như câu chuyện: "Khi 15 tuổi, tôi cảm thấy học bơi quá khó nên đã 
từ bỏ. Khi 18 tuổi, gặp một người bạn muốn mời tôi đi bơi cùng nhưng tôi chỉ có 
thể nói bản thân không biết. Năm 18 tuổi, tôi thấy tiếng Anh khó học nên đã từ 
bỏ. Để đến 28 tuổi khi sắp chạm đến một công việc tuyệt vời thì lại chỉ có thể 
ngại ngùng thu tay về vì không biết tiếng Anh." Những gì bạn học được bây giờ 
nhất định sẽ có ích vào một ngày nào đó trong tương lai. Do đó, dù bạn đang ở 
độ tuổi nào đi nữa, hãy tiếp tục việc học hỏi của mình. 
2.3.2.2. Giải pháp thứ hai: giáo viên tìm hiểu đặc điểm chung của lớp 
và từng học sinh riêng biệt. Bởi lẽ, muốn giáo dục học sinh thì người thầy 
phải hiểu được học sinh. 
Khi nhận lớp chủ nhiệm, tôi đã tìm hiểu học sinh qua các mặt: thông tin 
cơ bản, sở thích, sở trường, ước mơ, tâm tư tình cảm, địa bàn cư trú, kết quả học 
tập ở năm học trước, hoàn cảnh gia đình... Tôi tiến hành điều tra lí lịch học sinh 
qua phiếu “Sơ yếu lí lịch” vào tuần đầu tiên của năm học mới với các nội dung 
sau: 
SƠ YẾU LÍ LỊCH HỌC SINH 
1. Họ và tên học sinh:. Giới tính:  
2. Ngày. tháng. năm sinh Dân tộc:.... Tôn giáo:. 
3. Địa chỉ thường trú: thôn ...........xã ..........huyện ............... 
4. Họ, tên cha: ......Nghề nghiệp:Số điện thoại:. 
 Họ, tên mẹ: .....Nghề nghiệp:.Số điện thoại:. 
5. Số anh.. chị... em.. trong gia đình. 
7. Thành tích của năm học trước. 
 - Học lực:.Hạnh kiểm: 
 - Chức vụ đã làm ở năm học trước: 
8. Năng khiếu:.. Sở thích: 
9. Ước mơ: .. ..  
10. Chỉ tiêu phấn đấu của em trong năm học này: 
Hạnh kiểm: . Học lực: .. 
Đạt giải bộ môn cấp trường, huyện, tỉnh  
11 
Giáo viên: Dương Thị Bình Trường THCS Nguyễn Tất Thành 
11. Em có ý kiến, đề nghị gì với giáo viên chủ nhiệm và nhà trường: 
................................................................................................................................. 
Cùng với việc điều tra những thông tin cơ bản trên thì giáo viên chủ 
nhiệm cần gần gũi, chuyện trò, quan sát các em trong hoạt động học, vui chơi, 
quan hệ với bạn bè hoặc đến thăm gia đình học sinh, trao đổi với đồng nghiệp... 
để hiểu được tâm lí, hoàn cảnh gia đình, nguyện vọng của các em. Nắm bắt được 
các đặc điểm trên sẽ giúp giáo viên có thể lựa chọn, áp dụng những biện pháp sư 
phạm phù hợp với tình hình chung của lớp và từng học sinh cụ thể. 
2.3.2.3. Giải pháp thứ ba: giáo viên hướng dẫn và khơi dạy mạnh mẽ 
trong học sinh ước mơ và lý tưởng sống, động cơ học tập đúng đắn. Học 
sinh chỉ tự giác học tập khi các em có mục tiêu phấn đấu, động cơ học tập đúng 
đắn và khát khao thực hiện được điều mình mong muốn. 
Đây là bước quan trọng nhất trong quá trình rèn luyện tính tự giác học 
tập cho học sinh. Bởi vì giáo dục là quá trình tự giáo dục. Không cha mẹ, thầy 
cô nào có thể yêu cầu các em học tập và rèn luyện bản thân nếu chính các em 
không muốn điều điều đó. Chỉ khi nào các em hiểu được: Thế nào là học tập và 
học để làm gì, học cho ai thì các em sẽ tự giác ngay từ trong suy nghĩ và mọi 
hoạt động học tập của chính bản thân mình. Ước mơ, mục tiêu học tập có vai 
trò như là hạt nhân, là kim chỉ nam, điểm đến, là động lực cho mọi hoạt động 
học tập, phát triển của học sinh. Ước mơ, lý tưởng sống là động lực giúp các em 
vượt qua mọi khó khăn thử thách, phấn đấu để trở thành người có đức, có tài, có 
tri thức trong cuộc sống. 
Chính vì vậy nên ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp, nắm bắt tình 
hình học sinh; bài học đầu tiên mà tôi đến với các em là buổi trao đổi để xác 
định khơi dậy, bồi đắp cho các em những ước mơ, lý tưởng, định hướng nghề 
nghiệp trong tương lai. Giúp các em hiểu được “Tri thức là sức mạnh” và học 
tập chính là con đường duy nhất và ngắn nhất để chiếm lĩnh được những tinh 
hoa của nhân loại, vận dụng và sáng tạo để vươn đến thành công. Từ đó giúp các 
em hình thành động cơ thái độ học tập đúng đắn. 
12 
Giáo viên: Dương Thị Bình Trường THCS Nguyễn Tất Thành 
2.3.2.4. Giải pháp thứ tư: giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng kế 
hoạch học tập cụ thể để thực hiện ước mơ, lý tưởng sống. Hướng dẫn học 
sinh tìm ra phương pháp học tập hiệu quả cho từng môn học. 
Để đạt được mục tiêu học tập, giáo viên Hướng dẫn các em lập bảng kế 
hoạch học tập; chia nhỏ mục tiêu cần đạt được qua từng cấp học, lớp học; lập ra 
kế hoạch học tập thật cụ thể, chi tiết cho từng năm học, từng học kì, từng tháng 
và từng tuần học. Các em cần xây dựng kế hoạch học tập, thời gian biểu một 
cách khoa học và hợp lý, có sự linh hoạt cho phù hợp với cuộc sống hằng ngày. 
Cùng với đó, các em cần trang bị cho mình phương pháp học tập tích cực 
và hiệu quả. Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn. Các em có thể 
học hỏi lẫn nhau, học hỏi thông qua các giáo viên bộ môn về phương pháp học 
tập hiệu quả cho từng môn học. 
2.3.2.5. Giải pháp thứ năm: Xây dựng môi trường học tập tốt để học 
sinh rèn luyện và phát huy tính tự giác trong học tập. Giáo viên hướng dẫn 
các em xây dựng một tập thể lớp đoàn kết, tự quản tích cực, hình thành 
thói quen tự giác trong học tập. Giáo viên đóng vai trò là người định hướng, 
hướng dẫn, quản lý. 
Để đạt được chỉ tiêu phấn đấu trong năm học do chính các em đã xây 
dựng. Giáo viên chủ nhiệm và học sinh cần xây dựng được một đội ngũ ban cán 
sự lớp có khả năng quản lý, điều hành các hoạt động của lớp. Công tác này sẽ 
rèn luyện cho các em sự tự tin, mạnh dạn, linh hoạt hơn và có ý thức tự giác, tự 
quản trong học tập. 
Để xây dựng đội ngũ cán bộ lớp tốt cần tìm hiểu thông qua giáo viên chủ 
nhiệm cũ, bạn bè trong lớp, quan sát sự hoạt động của các em khi ra chơi hoặc 
giao một số công việc. Ban cán sự lớp cần đạt được những tiêu chuẩn sau: chăm 
ngoan, lễ phép, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, có khả năng học tập từ khá trở lên; 
được tập thể lớp tín nhiệm; nhiệt tình trong các hoạt động; tính tình thẳng thắn, 
dám đấu tranh, dám phê bình  
Trên cơ sở đó, giáo viên định hướng và tổ chức cho học sinh bầu ban cán sự 
lớp. Sau đó, giáo viên cần trang bị cho các em sổ theo dõi, hướng dẫn phương 
13 
Giáo viên: Dương Thị Bình Trường THCS Nguyễn Tất Thành 
pháp làm việc, bồi dưỡng cho các em có ý thức trách nhiệm, sự công bằng, 
thẳng thắn trong phê bình và tự phê bình. Phân công nhiệm vụ cụ thể như sau: 
Lớp trưởng: theo dõi, điều hành mọi hoạt động chung của lớp, điều khiển 
các tiết sinh hoạt hàng tuần, tổng hợp và báo cáo kết quả thi đua về mọi mặt của 
lớp hàng tuần, hàng tháng, học kì, năm học và báo cáo cho giáo viên chủ nhiệm. 
Lớp phó học tập: theo dõi về mặt học tập của lớp, giải đáp các thắc mắc 
của các bạn về học tập, lập kế hoạch giúp đỡ các bạn học sinh yếu kém vươn 
lên, bảo quản sổ ghi đầu bài và báo cáo cho lớp trưởng, giáo viên chủ nhiệm kết 
quả học tập của lớp hàng tuần, hàng tháng. 
Lớp phó Lao động: quản lí, điều hành trong các buổi lao động, phân công 
trực nhật vệ sinh lớp học, báo cáo kết quả cho lớp trưởng. 
Lớp phó Văn thể mỹ: theo dõi, tổ chức cho lớp tham gia các hoạt động 
văn nghệ, thể dục, thể thao... do các đoàn thể, nhà trường tổ chức. 
Thủ quỹ: thu và chi quỹ lớp, báo cáo thu - chi cho lớp, giáo viên chủ 
nhiệm và hội phụ huynh của lớp theo định kì. 
Đội Cờ đỏ: hoạt động theo kế hoạch của Liên đội nhà trường. Phổ biến 
nội quy theo dõi, chấm điểm của đội cờ đỏ cho các bạn trong lớp. 
Tổ trưởng, tổ phó: theo dõi, quản lý các hoạt động của tổ; đánh giá, xếp 
loại tổ viên và báo cáo cho lớp trưởng tổng hợp. 
* Hướng dẫn học sinh xây dựng nội quy lớp học và quy định về thi 
đua và khen thưởng của lớp. 
Ngay từ đầu năm học, giáo viên cần phổ biến cho học sinh nắm rõ quy 
chế đánh giá, xếp loại học sinh theo thông tư 58 và thông tư 26 về đánh giá, xếp 
loại học sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo và nội quy học sinh của nhà trường. 
Từ đó định hướng, điều hành và cùng tham gia với học sinh xây dựng lên “nội 
quy lớp học”. Việc học sinh và giáo viên cùng thảo luận và thiết lập nội quy lớp 
học giúp các em nhận thức được vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình trong 
việc học tập, xây dựng một tập thể lớp vững mạnh. Các em sẽ cảm thấy thoải 
mái, hài lòng vì mình đã góp phần đưa ra quyết định đó. Vì thế, các em sẽ vui 
vẻ, tích cực thực hiện những nội quy đó. 
14 
Giáo viên: Dương Thị Bình Trường THCS Nguyễn Tất Thành 
Ví dụ: Trong mỗi tuần học, mỗi học sinh sẽ có quỹ điểm là 100 điểm. Tùy 
theo các hoạt động của học sinh trong tuần (đạt tốt hay chưa tốt) để đánh giá, 
xếp loại thi đua trong tuần đó. Điểm thi đua được tính theo các mặt: chuyên cần, 
tác phong, học tập, trật tự và tham gia phong trào... cụ thể như sau: 
Điểm cộng: 
* Học tập: 
Được tính theo điểm miệng và quá trình xây dựng bài. Đạt điểm 10 thì 
cộng 2 điểm ; điểm 8 , 9 cộng 1 điểm. Xây dựng bài 1 lần cộng 0.5 điểm. 
* Phong trào: 
Học sinh tham gia hoạt động phong trào của nhà trường đạt yêu cầu: cộng 
2 điểm. Ban cán sự lớp hoàn thành tốt, có hiệu quả công việc của mình cộng 3 
điểm. 
Điểm trừ: 
* Đạo đức: vô lễ với thầy cô – 30 (trừ 30 điểm), viết bản kiểm điểm, trao 
đổi với phụ huynh và xét hạnh kiểm cuối kì. Nói tục, chửi thề - 5, xúc phạm cờ 
đỏ -5 , đánh nhau -30. Trộm cắp, phá hoại cơ sở vật chất của nhà trường – 30 
điểm. Chơi bài, hút thuốc, uống rượu bia -30 điểm. 
* Chuyên cần: 
Vắng học: không có lí do, giấy phép không hợp lệ, cúp tiết: -10 điểm. Đi 
học muộn – 5. 
* Đồng phục: không đeo khăn quàng, không đeo quai dép hoặc đi dép lê, 
mặc quần áo không đúng quy định, nhuộm tóc, đeo khuyên tai (đối với nam), tô 
son. Mỗi lỗi vi phạm – 5 điểm. 
* Vệ sinh: Trực nhật muộn, không đổ rác, vứt rác bừa bãi, vệ sinh còn 
bẩn. Mỗi lỗi vi phạm - 5. 
* Sinh hoạt 15 phút đầu giờ: gây mất trật tự - 4. Không tham gia sinh hoạt 
-5. 
* Thể dục, chăm sóc cây xanh: Không tưới cây. Thể dục giữa giờ: tập 
trung muộn, tập không nghiêm túc. Mỗi lỗi vi phạm – 5. 
* Học tập: 
15 
Giáo viên: Dương Thị Bình Trường THCS Nguyễn Tất Thành 
- Trong giờ học: nói chuyện, làm việc riêng, không chú ý; mỗi lỗi vi phạm 
-5. Quay cóp trong giờ kiểm tra, thi - 20. 
- Không làm bài tập về nhà -5, không học bài cũ – 5 
- Không mang sách, vở -5, không mang dụng cụ học tập -5. 
* Phong trào: 
- Không tham gia các phong trào, cuộc thi do đội phát động - 5 
Cuối tuần tổng kết. Nếu đạt trên 100 thì xếp loại A+ (xuất sắc), từ 98 - 
100 xếp loại A (tốt). Từ 90 – 97 xếp loại B (khá). Từ 80 – 89 xếp loại C (trung 
bình). Dưới 80 xếp loại D (yếu). Học sinh có thi đua đạt loại A+, A sẽ được 
tuyên dương, tích lũy để xét khen thưởng vào cuối học kì; loại B thì trực nhật 1 
buổi; loại C trực nhật 1 buổi và chép 2 bản nội quy học sinh của nhà trường; loại 
D viết kiểm điểm và trao đổi với phụ huynh. 
Mỗi học sinh sẽ có sổ theo dõi cá nhân, tự tổng hợp điểm và xếp loại vào 
cuối tuần, cuối tháng và cuối học kì. Tổ trưởng và tổ phó sẽ kiểm tra, tổng hợp 
kết quả của tổ và nộp lại cho lớp trưởng tổng hợp và báo cáo trong tiết sinh hoạt 
cuối tuần. Vào cuối tháng, giáo viên chủ nhiệm kiểm tra và xác nhận, viết nhận 
xét cụ thể tình hình của từng học sinh và gửi về gia đình. Gia đình tiếp nhận 
thông tin và có ý kiến, đề xuất. 
Ngoài ra, giáo viên còn tìm hiểu tình hình học tập, thi đua của các em 
thông qua sổ đầu bài, trao đổi với giáo viên bộ môn, ban thi đua của Liên đội... 
để có biện pháp giáo dục, uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời. 
Trường hợp 2 tuần liên tiếp nhau mà học sinh đạt hạnh kiểm loại khá thì 
giáo viên cần lưu ý và có biện pháp phù h

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_ren_luyen_tinh_tu_giac_hoc_tap_trong_c.pdf