Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS

1. Cơ sở lí luận:

Trong nhiều năm qua, ngành giáo dục đã tổ chức nhiều hội thảo, chuyên

đề về “ Phương pháp dạy học tích cực”. Trong đó dạy học tích cực là học sinh

tích cực hóa trong các hoạt động học tập của mình thông qua sự tổ chức, điều

khiển, hướng dẫn của giáo viên: Học sinh chủ động tìm tòi, phát hiện, giải

quyết nhiệm vụ nhận thức có ý thức và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến

thức, kỹ năng đã thu nhận được.

Khác với các bộ môn khoa học khác. Đặc thù của bộ môn Lịch sử là học

sinh phải tiếp cận với nhiều sự kiện lịch sử khác nhau, với những nhân vật, địa

danh lịch sử,. không chỉ của Việt Nam mà của cả thế giới.

Hơn thế, khối lượng kiến thức của bộ môn Lịch sử ngày càng nhiều thêm.

Nếu như học sinh trước đây, chỉ phải tiếp cận đến phần Lịch sử Thế giới và

Lịch sử Việt Nam đến những năm 90 của thế kỷ XX. Thì học sinh đang học ở

thời điểm này phải tiếp nhận thêm: Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam (từ

năm 1991 đến nay). Trong lúc, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã diễn ra

biết bao nhiêu là sự kiện. Trong khi yêu cầu đối với người học cần phải nhớ

các sự kiên, nhân vật lịch sử, phải hiểu nội dung một cách chính xác, đầy đủ.

Vì vậy buộc các em cùng một lúc phải ghi nhớ nhiều kiến thức Lịch sử thì mới

đạt được kết quả cao trong quá trình học tập của mình. Vì thế bộ môn Lịch sử

rất khó gây hứng thú học cho các em dẫn đến chất lượng môn Lịch sử có chiều

hướng đi xuống.

Muốn giải quyết được vấn đề đó, đòi hỏi giáo viên phải gây được hứng

thú học cho các em, phải tìm ra được phương pháp dạy phù hợp để các em dễ

tiếp thu kiến thức mà không bị gò ép

pdf 28 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 05/03/2022 Lượt xem 571Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng túng khi trả lời hoặc trả lời thì mang tính chất chung chung ..... 
 * Điều tra cụ thể : 
 - Bản thân tôi đảm nhận việc giảng dạy môn lịch sử khối 9. Trong quá 
trình giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn 
của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Việc điều tra 
được thực hiện thông qua hỏi đáp với những câu hỏi phát triển tư duy học sinh 
ở trên lớp, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 45 phút ... 
 Kết quả điều tra tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ trả lời được những câu 
hỏi mang tính chất trình bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, 
đánh giá nhận thức thì các em còn rất lúng túng khi trả lời. Do vậy kết quả 
điều tra cũng không cao. Cụ thể : 
 * Kết quả khảo sát chất lượng môn lịch sử,đầu năm học 2018-2019 như sau: 
Lớp 
SLHS 
Giỏi Khá Tb Yếu-Kém 
SL % SL % SL % SL % 
9A 37 5 13,5 12 32,4 16 43,3 4 10,8 
9B 38 2 5,3 11 28,9 20 52,6 5 13,2 
 9 
3. Nguyên nhân của thực trạng: 
 Như vậy, nhìn vào kết quả khảo sát chất lượng môn lịch sử 9 đầu năm học 
2018-2019 chưa cao (nếu không muốn nói là còn thấp) so với thế mạnh và tiềm 
năng của bộ môn. Vậy thì, những nguyên nhân nào làm cho kết quả thấp như 
trên? Có rất nhiều nguyên nhân (cả chủ quan lẫn khách quan), nhưng theo bản 
thân tôi những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trang trên, đó là: 
 Một là: Giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch sử còn một số đồng chí phải dạy 
trái ban. 
 Hai là: Một số giáo viên mới ra trường kinh nghiệm chưa nhiều. 
 Ba là: Học sinh chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của bộ môn. 
 Bốn là: Bài dạy của giáo viên chưa lôi cuốn được học sinh, chưa có sự tương 
tác giữa thầy và trò. 
 Năm là: Thiết bị dạy học chưa đảm bảo theo yêu cầu . 
 Sáu là: Giáo viên sử dụng các phương pháp một cách máy móc, thiếu sự linh 
hoạt, chưa dựa vào đối tượng của mình để đưa ra phương pháp phù hợp nhất. 
 Xuất phát từ thực trạng trên, trong quá trình dạy học của mình tôi thấy cần 
tạo ra không khí học tập sôi nổi, thân thiện giữa thầy và trò, tạo sự hứng thú 
cho người học, giáo viên kịp thời nắm bắt được tâm sinh lí của học sinh. Có 
như vậy, học sinh mới yêu thích và có hứng thú học bộ môn Lịch sử, hiệu quả 
giờ dạy thu được sẽ cao hơn. 
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC TẾ TRONG VIỆC SỬ DỤNG HỆ 
THỐNG CÂU HỎI ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CHO HỌC SINH 
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 9 . 
 10 
 1. Nêu câu hỏi đặt vấn đề. 
 * Đối với giáo viên : 
 - Trước khi bước vào bài mới, giáo viên nên nêu ngay câu hỏi định hướng 
nhận thức cho học sinh. Các câu hỏi nêu vấn đề đưa ra vào đầu giờ nhằm động 
viên sự chú ý, huy động các năng lực nhận thức của học sinh vào việc theo 
dõi bài giảng để tìm câu trả lời . Những câu hỏi này là những vấn đề cơ bản 
của bài học mà học sinh phải nắm. Đương nhiên, khi đặt câu hỏi không yêu 
cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên đã cung cấp đầy đủ sự kiện 
thì học sinh mới trả lời được. 
 Ví dụ : 
 khi dạy bài 7: Các nước Mĩ La tinh (lịch sử lớp 9 sách giáo khoa 
trang 29) để phần chuyển ý sang mục II gây được sự chú ý cho học 
sinh chúng ta có thể nói: Trong cơn bảo táp của cách mạng Mĩ La tinh 
thì hình ảnh đất nước Cu Ba đẹp như một dải lụa đào, đang bay lên 
giữa màu xanh của trời biển Ca ri bê với nắng vàng rực rỡ, đó chính là 
Cu Ba hòn đảo của tự do – hòn đảo anh hùng. Vậy hòn đảo anh hùng 
này đã tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc như thế nào và 
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cu Ba đạt được kết quả gì ? 
Chúng ta chuyển sang mục II “Cu Ba – Hòn đảo anh hùng ”. 
 - Trong quá trình dạy học, chúng ta vẫn tuân thủ trình tự cấu tạo của sách 
giáo khoa, song cần khai thác nhấn mạnh, giúp học sinh trả lời câu hỏi nêu 
trên. Học sinh trả lời được câu hỏi này tức là đã nắm và hiểu được kiến thức 
chủ yếu của bài. 
 * Đối với học sinh: 
 Câu hỏi loại này thường là câu hỏi có tính chất bài tập muốn trả lời phải 
huy động kiến thức cơ bản của toàn bài. Chính vì vậy học sinh phải chuẩn bị 
 11 
bài và trả lời trước các câu hỏi cuối mục ở nhà , chú ý, tập trung cao độ theo 
dõi bài giảng , chọn lọc sự kiện và trình bày trên lớp. 
2. Xác định mối liên hệ , xâu chuỗi giữa câu hỏi với các sự kiện , hiện 
tượng trong bài học. 
 - Một trong những biện pháp sư phạm là xác lập mối liên hệ giữa câu hỏi các 
sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài. 
 Ví dụ : 
 Khi củng cố kiến thức Bài 30: Hoàn thành giải phóng miền Nam thống 
nhất đất nước 1973-1975 (tiết 2) Lịch sử 9 giáo viên có thể tạo ô chữ như sau: 
 Ô chữ gồm 8 ô chữ hàng ngang và 9 chữ cái trong từ chìa khóa. 
* Hang ngang: 
1/ Khi quân giải phóng tiến vào trung tâm Sài Gòn, đã chia làm mấy cánh 
quân ? 
2/ ..............Trung ương Đảng đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam 
(Điền từ còn thiếu vào chỗ...............) ? 
3/ 10 giờ 45 phút ngày 30/4/1975, quân ta tiến thẳng vào nơi này ? 
4/ Là tổng thống cuối cùng của chính quyền Sài Gòn. Trưa ngày 30/4/1975 đã 
tuyên bố đầu hàng quân giải phóng ? 
1 
2 
3 
4 
5 
6 
7 
8 
 12 
5/ Là đầu mối trung chuyển sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, nằm trên 
trục đường Trường Sơn. Nơi 10 cô gái TNXP đã hi sinh ? 
6/ Loại phương tiện đã tiến thẳng vào Dinh Độc lập trưa ngày 30/4/1975 ? 
7/ Ông là Tư lệnh của chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam ? 
8/ Đây là một trong những phòng tuyến ngoài của địch nhằm bảo vệ Sài Gòn 
đã bị quân ta chọc thủng ngày 21/4/1975 ? 
* Từ chìa khóa: gồm 9 chữ cái: 
* Gợi ý: 
 1, Đây là một trong ba chiến dịch lớn trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy 
xuân năm 1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước )? 
 2, Chiến dịch giải phóng Sài Gòn còn có tên là chiến dịch gì khác? 
 * Đáp án các ô chữ hàng ngang: 
1 N Ă M C Á N H Q U Â N 
2 B Ộ C H Í N H T R Ị 
3 D I N H Đ Ộ C L Ậ P 
4 D Ư Ơ N G V Ă N M I N H 
5 N G Ã B A Đ Ồ N G L Ộ C 
6 X E T Ă N G 
7 V Ă N T I Ế N D Ũ N G 
8 X U Â N L Ộ C 
 * Lưu ý: Những chữ cái in đậm ở các ô chữ hàng ngang chính là các dấu 
hiệu để tìm ra từ chìa khóa. 
 Từ chìa khóa gồm 9 chữ cái: 
H C H N I H I Ồ M 
 13 
 * Đáp án từ chìa khóa: 
H Ồ C H Í M I N H 
 Qua trò chơi này không những tạo không khí thoải mái, môi trường thân 
thiện giữa thầy và trò. Mà nó còn phát triển kĩ năng làm việc nhóm của học 
sinh đồng thời còn phát huy được khả năng tư duy sáng tạo suy luận lôgic dựa 
trên những kiến thức mà các em vừa mới khám phá. 
 Những kiến thức này được sắp xếp trình diễn trên màn hình, (viết lên 
bảng phụ hoặc trên khổ giấy to ) để các em có thể quan sát được câu hỏi và hệ 
thống kiến thức, học sinh tự tìm ra câu trả lời, tìm ra mối liên giữa chúng. 
Trong học sinh sẽ có cuộc tranh luận đâu là từ chìa khoá của ô chữ và học sinh 
rẽ phát hiện ra chìa khoá là “Hồ Chí Minh. Cách lập bảng như vậy hợp với 
cách sử dụng câu hỏi sẽ có hiệu quả không chỉ về nắm kiến thức mà còn có tác 
dụng giáo dục , rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy cho học sinh và 
giúp các em tránh nhàm chán trong các tiết học. 
 - Việc xây dựng bảng các sự kiện qua các câu hỏi trò chơi và mối liên hệ 
giữa chúng là một trong những biện pháp giúp học sinh nhớ ngay sự kiện cơ 
bản ở trên lớp, đồng thời kích thích tính tích cực học tập của các em. 
3. Xây dựng hệ thống câu hỏi ở trên lớp: 
 - Trong quá trình giảng dạy ở trên lớp, giáo viên còn phải biết đặt ra và 
giúp học sinh giải quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức. Một hệ 
thống câu hỏi tốt nêu ra trong qúa trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng 
của các em, kích thích tư duy phát triển. Đồng thời tạo ra mối liên hệ bên 
trong của học sinh và giữa học sinh với giáo viên. Tức là mỗi câu hỏi đưa ra, 
 14 
mỗi học sinh và cả giáo viên phải thấy rõ vì sao trả lời được ? Vì sao không trả 
lời được ? Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu để các em trả lời . 
 - Trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi 
, những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách , đồng 
thời bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn 
bị từ khi sọan giáo án, phải có dự kiến nêu ra lúc nào ? Học sinh sẽ trả lời như 
thế nào ? Đáp án ra sao? rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học còn là 
một nghệ thuật. Những câu hỏi đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải 
kích thích được lòng ham hiểu biết, trí thông minh, sáng tạo của học sinh. Đặc 
biệt là giúp học sinh yếu kém tích cực hoạt động và dần dần hình thành kiến 
thức cơ bản cho các em qua hệ thống câu hỏi , từ đó các em có hứng thú học 
tập và xây dựng bài hơn. 
 - Thông thường trong quá trình giảng dạy chúng ta thường đặt ra nhiều loại 
câu hỏi, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử, chúng ta có 
các loại câu hỏi. Cụ thể: 
 *. Loại câu hỏi về sự phát sinh các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà chúng ta 
thường hỏi về nguyên nhân , bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện 
tượng lịch sử và thường áp dụng cho đối tượng học sinh yếu kém. 
Ví dụ: 
 Nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì. (Bài 21 
SGK Lịch sử 9 trang 82 -83). 
 Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài giảng. Bởi vì bất kì một 
sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đều xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử nhất 
định, đều có nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là một đặc điểm tư duy 
của lịch sử cần hình thành từng bước cho học sinh . 
 * Loại câu hỏi về quá trình, diễn biến, phát triển của sự kiện hiện tượng 
lịch sử như diễn biến của các cuộc khởi nghĩa , diễn biến các cuộc cách mạng. 
 15 
 Ví dụ : 
 Hãy trình bày diễn biến chiến dịch Biên giới thu đông 1950 
(Bài 26 Sách Lịch sử 9 trang 110) . 
 Trình bày quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong thời 
gian ở Pháp (Bài 16 lịch sử lớp 9 trang 61). 
 Tuy đây là câu hỏi ít suy luận song lại đòi hỏi trí nhớ, phải biết nhiều sự 
kiện địa danh, nhân vật để giúp học sinh phát triển trí nhớ nên cần phải chia 
câu hỏi thành nhiều câu hỏi nhỏ, đồng thời lập các bảng niên biểu, mối liên hệ 
giữa các sự kiện. 
 * Loại câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất của các hiện tượng lịch sử, bao 
gồm sự đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy 
.Loại câu hỏi này thường dùng cho học sinh khá giỏi khi thảo luận để bổ trợ 
kiến thức cho các đối tượng yếu kém. 
Ví dụ : 
 Tại sao nói, ngay sau khi ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở vào 
tình thế “ Ngàn cân treo sợi tóc”? ( Bài 24 SGK LSử 9 trang 96 ). 
 Thường thì những câu hỏi này khó đối với học sinh, nó đòi hỏi các em phải 
biết phân tích, đánh giá, biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện 
tượng lịch sử. Học sinh rất ngại trả lời những câu hỏi này, tuy nhiên giáo viên 
cần kiên trì đưa thêm những câu hỏi gợi mở giúp các em trả lời câu hỏi của 
mình. 
Ví dụ : 
 Khi dạy bài 23 – Tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng 8 năm 1945 
 Câu hỏi nhận thức: Tại sao khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, Đảng ta 
quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc? 
 16 
 Câu hỏi gợi mở: Chủ trương khởi nghĩa vũ trang đề ra trong hội nghị TW 
lần thứ VIII ( tháng 5- 1941) là gì? Các yếu tố nào ( về thời cơ cách mạng ) đã 
xuất hiện đầy đủ ở nước ta lúc bấy giờ chưa? 
 * Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý 
nghĩa lịch sử của sự kiện với dạng câu hỏi này cũng dùng cho đối tượng hoc 
sinh yếu kém để các em tự phát hiện và chiếm lĩnh được kiến thức cơ bản và 
giúp các em hoạt động liên tục trong quá trình học tập. 
 - Lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục ,đan xen nhau giữa các sự 
kiện hoặc một hiện tượng hay một quá trình lịch sử nào đó. Cần cho học sinh 
thấy rõ được kết quả của sự vận động đó, nguyên nhân thắng lợi hay thất bại 
và ảnh hưởng của nó đối với quá trình phát triển lịch sử. 
Ví dụ : 
 Em hãy nêu ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 3.2 
1930 (Lịch sử 9 trang71). 
 Trình bày ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thành công của cách mạng 
tháng Tám năm 1945.(lịch sử 9 trang 94). 
 - Để trả lời những câu hỏi này, học sinh dựa vào SGK để trả lời bằng 
ngôn ngữ của mình chứ không lặp lại sách giáo khoa . 
 * Loại câu hỏi đối chiếu , so sánh giữa sự kiện , hiện tượng lịch sử này 
với sự kiện, hiện tượng lịch sử khác mà các em đã học . Đây là loại câu hỏi 
khá khó đối với học sinh trung học cơ sở ( Ưu điểm của loại câu hỏi này là 
vừa giúp cho học sinh củng cố ôn tập lại kiến thức cũ vừa tiếp nhận kiến thức 
mới và áp dụng khi hoạt động thảo luận nhóm để các em bổ trợ kiến thức cho 
nhau và cùng nhau giải quyết vấn đề. 
Ví dụ: 
 Khi học bài 29 “ Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước 
(1965 – 1973)” ( Lịch sử 9 trang 142) Có câu hỏi : Chiến lược “ Chiến 
 17 
tranh cục bộ” và “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở Miền Nam có điểm 
gì giống nhau và khác nhau? 
 Khi dạy bài 9 Nhật Bản ( Lịch sử 9 trang36) có câu hỏi so sánh sự 
giống nhau và khác nhau trong chính sách đối ngoại của Mĩ và Nhật 
Bản sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 . 
 Tóm lại : Các loại câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn 
chỉnh, giúp cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên 
nhân , diễn biến, kết quả và ý nghĩa của một sự kiện hay một quá trình lịch sử. 
Những câu hỏi đó giáo viên vận dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không 
chỉ cho các em biết được các sự kiện mà đi sâu hiểu bản chất của sự kiện, nó 
không chỉ đòi hỏi học sinh nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản mà phải suy nghĩ 
nhận thức sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử . 
4. Vận dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực của học sinh vào một 
mục cụ thể : 
 Thiết kế câu hỏi gợi mở để giải quyết câu hỏi nhận thức 
 * Ví dụ: Khi dạy mục VI: Hiệp định Sơ bộ (6 –3 – 1946 )và Tạm ước 
Việt –Pháp (14 -9 -1946) – Bài 24 “ Cuộc đấu tranh và bảo vệ xây dựng 
chính quyền dân chủ nhân dân (1945- 1946) – Lịch sử lớp 9. tiết 2). 
 Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu sự bắt tay hòa hoãn giữa Tưởng và 
Pháp qua Hiệp ước Hoa – Pháp (28-2-1946), theo hiệp ước này Pháp nhường 
cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế trên đất Trung Quốc và được vận 
chuyển hàng hóa qua cảng Hải Phòng vào Hoa Nam không phải đóng thuế. 
Ngược lại, Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ 
giải giáp khí giới quân Nhật. Điều này vi phạm trắng trợn chủ quyền của dân 
tộc ta, coi Việt Nam là món hàng để trao đổi. Trước tình hình đó, Đảng ta có 
chủ trương, sách lược gì để đối phó? Giáo viên đưa ra câu hỏi nhận thức: 
 18 
C©u hái nhËn thøc 
Dù kiÕn tr¶ lêi 
C©u hái gîi më 
Vì sao Đảng, Chính 
phủ ta và Hồ Chủ 
Tịch lại kí với thực 
dân Pháp Hiệp định 
sơ bộ 6 . 3 . 1946 . 
Vì Pháp và Tưởng 
kí thoả hiệp chính 
trị ( 28. 2. 1946) 
Việc làm này buộc 
Đảng ta phải lựa 
chọn 1 trong 2 con 
đường hành động. 
1. Việc Pháp và 
Tưởng kí hiệp 
định chính trị 
28.2. 1946 đặt ra 
cho đảng ta lựa 
chọn 1 trong 2 
con đường nào? 
2. Đảng ta đã lựa 
chọn con đường 
nào ? Vì sao? 
Một là: Đánh 
Pháp trước khi 
pháp đưa quân ra 
miền Bắc . Như 
vậy cùng một lúc 
phải đánh cả 
Pháp lẫn Tưởng. 
Hai là : Hoà với 
Pháp mượn tay 
Pháp đuổiTưởng 
về nước , loại bớt 
một kẻ thù nguy 
hiểm, kéo dài thời 
gian hoà bình để 
chuẩn bị lực 
lượng về mọi mặt 
chống Pháp sau 
này. 
Đảng ta đã lựa 
chọn con đường 
thứ 2 vì đất nước 
ta lúc này vô 
cùng khó khăn 
không thể một 
lúc đánh nhau với 
nhiều kẻ thù , 
hơn nữa lúc này 
Pháp đưa quân ra 
miền Bắc với 
danh nghĩa chính 
thống. 
 19 
III. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI 
(SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM) 
 Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm 
này vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân đã 
nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách 
giáo khoa mới và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng 
thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng 
thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và 
phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu 
thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ 
đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn 
học này hơn. 
 * Kết quả học tập của học sinh cuối năm học 2018- 2019 như sau: ( 
Kết quả sau khi áp dụng đề tài) 
 + Kết quả bài kiểm tra học kỳ II 
Lớp 
SLHS 
Giỏi Khá Tb Yếu-Kém 
SL % SL % SL % SL % 
9A 37 15 40,5 17 46,0 5 13,5 0 
9B 38 12 31,6 16 42,1 10 26,3 0 
 20 
 + Kết quả điểm trung bình môn học 
Lớp 
SLHS 
Giỏi Khá Tb Yếu-Kém 
SL % SL % SL % SL % 
9A 37 14 37,8 17 45,9 6 16,3 0 
9B 38 9 23,7 15 39,5 14 36,8 0 
 So sánh kết quả học tập của học sinh trước và sau khi áp dụng đề tài này 
hoàn toàn khác nhau. Nhìn vào bảng kết quả khi áp dụng đề tài, ta thấy tỉ lệ 
khá giỏi tăng lên, đặc biệt số học sinh yếu- kém giảm rõ rệt 
 Với mong muốn sáng tạo ra phương pháp dạy học để tạo sự hứng thú cho 
các em trong quá trình học, đồng thời qua đó sẽ giúp học sinh nhớ và hiểu 
được các đơn vị kiến thức lịch sử. Từ mong muốn đó, tôi thường xuyên áp 
dụng việc sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh 
trong giờ học Lịch sử. Phương pháp này đã góp phần tạo được sự thoải mái, 
không gò ép...Vì vậy đã gây được hứng thú học tập cho các em; giờ học trở 
nên sôi nổi hơn, các đối tượng học sinh khác nhau cũng chủ động và hăng 
say học, tìm hiểu kiến thức lịch sử hơn. Vì thế, chất lượng học của các em thể 
hiện qua các bài kiểm tra và đặc biệt qua xếp loại từng học kì mức độ đi lên 
của từng học sinh có một bước tiến rõ rệt. Qua quá trình thực hiện, kết quả 
đáng mừng là số học sinh có hứng thú học tập bộ môn tăng, chất lượng học 
tập bộ môn tăng. 
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM : 
 21 
 Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân tôi đã rút ra một số 
kinh nghiệm sau: 
 Trong mỗi tiết dạy giáo viên nêu mục tiêu yêu cầu của tiết, mục của bài 
học sau đó cung cấp thông tin và phân bổ thời gian hợp lí lí để học sinh 
tiếp nhận thông tin. 
 Giáo viên đặt và sử dụng linh hoạt các câu hỏi phù hợp với nội dung bài 
dạy, tuỳ theo khối lớp và đối tượng học sinh mà vận dụng. 
 Khi nêu câu hỏi giáo viên cố gắng sử dụng các câu hỏi ngắn gọn, đủ ý, 
đơn giản, dễ hiểu ,gợi sự suy nghĩ và tư duy của học sinh. Không nên sử 
dụng câu hỏi “Có” hay “Không”, “Đúng” hay “Sai” mà phải sử dụng 
câu hỏi phát huy tính độc lập tư duy ở các em ( tránh tình trạng học sinh 
trả lời một cách công thức hoặc chung chung ) 
 Khi tổ chức học sinh tiếp nhận thông tin giáo viên chú ý sử dụng câu hỏi 
gợi mở ( chuẩn bị kĩ ở giáo án) để giải quyết câu hỏi đặt ra đầu giờ 
 Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa thường xuyên nghiên cứu 
thêm tài liệu tham khảo để xây dựng các câu hỏi trong các tiết dạy và 
vận dụng linh hoạt hơn để giải quyết nhiệm vụ nhận thức ở mỗi bài học. 
 Giáo viên cần kết hợp các phương tiện dạy học khác như đồ dùng trực 
quan, hình ảnh, tranh vẽ trong sách giáo khoa, hệ thống thao tác sư 
phạm khi lên lớp... để góp phần phát huy tính tích cực chủ động của học 
sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ dạy 
 Trong quá trình giảng dạy , ngôn ngữ phải truyền cảm , không quá 
nhanh hoặc quá chậm, phải lôi cuốn , hấp dẫn , trình bày phải có điểm 
nhấn, tránh đều đều . 
 Khi đặt câu hỏi không nên đặt câu hỏi quá dễ làm cho học sinh thoả 
mãn, đi đến chủ quan về vốn hiểu biết của mình, mà phải là cho các em 
hiểu rằng, sự trả lời đúng, đầy đủ câu hỏi do giáo viên nêu ra là tốt, song 
 22 
vẫn phải tiếp tục suy nghĩ để trả lời hay hơn, sâu sắc hơn và thông minh 
hơn. 
 Cần tạo cơ hội cho học sinh trong cả lớp trả lời, thảo luận nhóm, không 
làm nặng nề giờ học, trình bày nhồi nhét song vẫn tạo không khí thoải 
mái , nhẹ nhàng để đạt kết quả tối đa. 
 Giáo viên dạy môn lịch sử phải luôn luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới 
trong phương pháp dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và 
thiết kế các đồ dùng dạy học đẹp chính xác phù hợp với nội dung

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_he_thong_cau_hoi_de_phat_huy_t.pdf