Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp hướng dẫn học sinh tự học địa lí lớp 12 thông qua rèn luyện kĩ năng khai thác bản đồ - Atlat Địa lí

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp hướng dẫn học sinh tự học địa lí lớp 12 thông qua rèn luyện kĩ năng khai thác bản đồ - Atlat Địa lí

Thông thường các câu hỏi gắn với Atlat , yêu cầu thí sinh phải kết hợp kiến thức đã học với kiến thức trong Atlat để trả lời.Với những câu hỏi này, nếu chỉ dựa vào một trong hai cơ sở trên ( hoặc là riêng Atlat hoặc là riêng kiến thức đã học) sẽ không trình bày kiến thức đúng với yêu cầu. Nếu chỉ dựa vào kiến thức đã học thì nhiêu kiến thức từ Atlat sẽ bị bỏ sot, đặc biệt là các kiến thức về mặt phân bố cụ thể, mối quan hệ về mặt không gian lãnh thổ của các sự vật hiện tượng địa lí Những nêu chỉ dựa vào Atlat thì nhiều kiến thức như tình hình phát triển, nguyên nhân phát triển không được đề cập đến một cách đầy đủ và hợp lí.

doc 29 trang Người đăng Hoài Minh Ngày đăng 16/08/2023 Lượt xem 244Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp hướng dẫn học sinh tự học địa lí lớp 12 thông qua rèn luyện kĩ năng khai thác bản đồ - Atlat Địa lí", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và vị trí của nó trong mối quan hệ với các đối tượng địa lí ở xung quanh, đặc biệt với đối tượng mà trước đó đã ghi nhớ , nắm vững.
- Tính tỷ lệ bản đồ:
Trên bản đồ , tỉ lệ thường được ghi bằng phân số
VD : 1/ 1000000 hay 1 : 1000000.trong đó tử số là khoảng cách trên bản đồ còn mẫu số chính là khoảng cách ngoài thực tế. Phân số trên có nghĩa là : 1 cm trên bản đồ tương ứng với 1000000cm ngoài thực tế.
- Xác định phương hướng trên bản đồ:
+ Để xác định hướng Bắc trên bản đồ cần dựa vào các đường kinh tuyến.
Trên bề mặt quả địa cầu , cực bắc và Nam là nới hội tụ các đường kinh tuyến. Nếu quy ước phần giữa bản đồ là trung tâm thì đầu trên của kinh tuyến chỉ hướng Bắc, đầu dưới chỉ hướng Nam.
+ Ngoài ra có thể dựa vào mũi tên chỉ hướng Bắc trên tờ bản đồ để xác định hướng Bắc của bản đồ.
- Nhận biết các đặc điểm của địa hình qua đường bình độ.
+ Trị số đường bình độ tăng dần từ ngoài vào trong : vùng đất cao
+ Trị số đường bình độ giảm dần từ ngoài vào trong : vùng trũng
+ Hai đường bình độ đối xứng nhau : địa hình yên ngựa
+ Hệ các đường bình độ có dạng chữ V : sống núi
+ Hệ các đường bình độ có dạng chữ V ngược : thung lũng.
+ Các đường bình độ càng nằm gần nhau thì địa hình có độ dốc lớn. 
- Vẽ bản đồ.
Có nhiều phương pháp vẽ bản đồ, trong đó thông dụng nhất là phuuwong pháp hình học.
Trong chương trình địa lí 12 có bài thực hành yêu cầu vẽ lược đồ Việt Nam. Học sinh phải vẽ được lược đồ tương đối chính xác( đường biên giới, đường bờ biển, một số sông lớn và một số đảo) và xác định được chính xác một số đối tượng địa lí trên lược đồ( điền một số địa danh quan trọng như Hà Nội, Đà Nẵng, TPHCM, vịnh Bắc Bộ)
Như vậy đối với các em học sinh, cần đặc biệt chú ý khai thác các bản đồ trong sách giáo khoa trong khi học bài nhằm nắm chắc kiến thức trong mỗi bài học. Bên cạnh đó, thì chương trình địa lí lớp 12 - Atlat địa lí Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng.
Tuy bản đồ có ý nghĩa quan trọng, nhưng nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi các em học sinh học tập gắn với kiến thức bài học, có kiến thức cơ bản về địa lí, biết khai thác và sử dụng. Nếu không, bản đồ chỉ như một bức tranh khó hiểu mà thôi.
2. Phương pháp sử dụng bản đồ tư duy
Việc phát triển tư duy cho học sinh luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của mục tiêu giáo dục. Để hướng học sinh có cách thức học tập tích cực và tự chủ, chúng ta không chỉ cần giúp các em khám phá các kiến thức mới mà còn phải giúp các em hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạoMột trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là Bản đồ tư duy (BĐTD). 
BĐTD hiện là một công cụ đang được sử dụng bởi rất nhiều cá nhân, tổ chức trên toàn thế giới với nhiều lĩnh vực ứng dụng khác nhau. Trong giáo dục, sử dụng BĐTD giúp giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới, lập kế hoạch học tập, kế hoạch công tác
BĐTD được sử dụng phù hợp với mọi điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, lớp học. Giáo viên và học sinh có thể thực hiện BĐTD trên bảng phấn, trên vở, trên giấy, bìa, bảng phụ, hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm. Khai thác tính năng và sử dụng BĐTD có hiệu quả là góp phần đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin một cách dễ dàng và thiết thực.
Sử dụng thành thạo và linh hoạt BĐTD trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ. Học sinh học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Với học sinh, việc tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo, lôi cuốn học sinh tham gia vào bài giảng, tạo điều kiện phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinhqua đó, các em tự chiếm lĩnh kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, tự nhiên với hứng thú học tập lớn. Với các bài tập nhóm, sử dụng BĐTD còn giúp các em biết cách lập kế hoạch, phân công công việc, hợp tác để hoàn thành yêu cầu của giáo viên.
Giáo viên sử dụng BĐTD để hệ thống kiến thức một cách khoa học và logic, nội dung bài học được thể hiện trên bản đồ một cách trực quan mà không bị bỏ sót ý. Không những thế, sử dụng BĐTD còn giúp giáo viên tạo ra các hình thức học tập khác nhau, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, phối hợp sử dụng các thiết bị dạy học với nhaugóp phần thiết thực vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. 
BĐTD có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất với sách giáo khoa. Sách giáo khoa là cơ sở để học sinh tiếp nhận kiến thức, cùng với việc sử dụng và khai thác kiến thức từ thiết bị dạy học giúp học sinh hiểu bài và thể hiện lại sự hiểu biết ấy thông qua BĐTD. Đây còn là một kênh thông tin phản hồi rất thiết thực từ học sinh đối với giáo viên. Giáo viên có thể dựa vào đó để nắm bắt được lượng thông tin mà học sinh tiếp nhận được, từ đó có hướng điều chỉnh đối với cả học sinh và cách dạy của chính mình cho phù hợp. 
* Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ 
Vì thời gian kiểm tra bài cũ lúc đầu giờ không nhiều chỉ khoảng 5 - 7 phút nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánhđể trả lời câu hỏi. Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo viên sẽ chấm điểm tuỳ vào mức độ thuộc bài của học sinh. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh rơi vào tình trạng học vẹt, đọc thuộc lòng mà không hiểu. Do đó, cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng BĐTD vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Các bản đồ được giáo viên đưa ra ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm. 
* Sử dụng BĐTD trong việc giảng bài mới
Sử dụng BĐTD là một gợi ý cho cách trình bày mới. Giáo viên thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng BĐTD để thể hiện được 1 phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. Toàn bộ nội dung cần truyền đạt đến học sinh được thâu tóm trên bản đồ mà không bị sót ý. Học sinh thay vì cắm cúi ghi chép thì chọn lọc các thông tin quan trọng, sơ đồ hoá chúng bằng các mối quan hệ và thể hiện lại theo cách hiểu của mình. Với cách học này cả giáo viên và học sinh đều phải tham gia vào quá trình dạy học tích cực hơn. Giáo viên vừa giảng bài vừa thể hiện trên BĐTD hoặc vừa tổ chức cho học sinh khai thác kiến thức vừa hoàn thành BĐTD. Học sinh được nghe giảng, nhìn bản đồ, trả lời câu hỏi, đọc sách giáo khoa, ghi chépsự tập trung chú ý được phát huy, cường độ học tập theo đó cũng được đẩy nhanh, học sinh học tập tích cực hơn.
Ví dụ: Khi học về các vùng kinh tế của nước ta (Địa 12), để xác định các vùng kinh tế của nước ta, phạm vi và các trung tâm kinh tế lớn của vùng là phần kiến thức không khó nhưng không dễ nhớ đối với học sinh. Nếu giáo viên sử dụng phương pháp trình bày truyền thống thì vấn đề vẫn được giải quyết nhưng không hiệu quả vì vấn đề trình bày sẽ dàn trải, hết vùng này đến vùng khác, học sinh sẽ không thấy được mối quan hệ về vị trí, thế mạnh của các vùng kinh tế. Việc thể hiện tất cả các vùng kinh tế trên BĐTD xung quanh từ khóa đã mang lại cái nhìn tổng thể về sự phân chia các vùng kinh tế của nước ta, học sinh nhìn vào bản đồ sẽ nhận biết được ngay từng vùng kinh tế và có thể ghi nhớ một cách dễ dàng không máy móc. Sử dụng BĐTD để thể hiện phần nội dung này là hợp lí vì yêu cầu phù hợp với mọi đối tượng học sinh, thông tin đầy đủ, không mất nhiều thời gian và nội dung được thể hiện rõ ràng. 
* Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức 
* Sử dụng BĐTD để ra bài tập về nhà 
Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên giao cho học sinh (hoặc nhóm học sinh) trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép (trình độ học sinh, thời gian, kinh tế). Yêu cầu đối với bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn (cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của học sinh. Bài tập về nhà nên thiên về tính mở nên giáo viên cần định hướng cho học sinh cách tìm kiếm thông tin từ các nguồn tài liệu, đặc biệt là từ mạng Internet bằng cách cung cấp cho học sinh một số trang web thông dụng và chuẩn xác.
Như vậy có thể thấy kiến thức địa lí có hệ thống và có mối quan hệ lôgic rất chặt chẽ. Có nhiều nội dung có thể vẽ sơ đồ tư duy nhằm thể hiện được nội dung bài học một cách đơn giản hóa, dễ nhớ và thấy rõ được mối liên hệ giữa các đối tượng. Ví dụ sơ đồ nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, từng ngành, Đặc biệt có thể dùng nhiều trong chương trình địa lí lớp 12. Sau mỗi bài học, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh vẽ ngay sơ đồ tư duy đơn giản về kiến thức bài học. Qua đó, học sinh có thể khắc sâu nhanh nội dung bài học và thấy được mối liên hệ của các nội dung trong bài cũng như có thể thấy mối liên hệ với nội dung các bài học trước.
3. Phương pháp học với Atlat Địa lí Việt Nam
a. Đặc điểm Atlat Địa lí Việt Nam:
Atlat Địa lí Việt Nam có nhiều trang bản đồ , được sắp xếp một cách có hệ thống. Như vậy cách học với Atlat Địa lí Việt Nam được bắt đầu với từng trang bản đồ, sau đó kết hợp nhiều trang bản đồ với nhau. Trên mỗi trang bản đồ hoặc kết hợp nhiều trang, có thể khai thác một chủ điểm hoặc khai thác nhiều chủ điểm\
b. Phương pháp học với Atlat Địa lí Việt Nam:
b.1. Kết hợp kiến thức đã có với kiến thức khai thác trong Atlat Địa lí Việt Nam:
Thông thường các câu hỏi gắn với Atlat , yêu cầu thí sinh phải kết hợp kiến thức đã học với kiến thức trong Atlat để trả lời.Với những câu hỏi này, nếu chỉ dựa vào một trong hai cơ sở trên ( hoặc là riêng Atlat hoặc là riêng kiến thức đã học) sẽ không trình bày kiến thức đúng với yêu cầu. Nếu chỉ dựa vào kiến thức đã học thì nhiêu kiến thức từ Atlat sẽ bị bỏ sot, đặc biệt là các kiến thức về mặt phân bố cụ thể, mối quan hệ về mặt không gian lãnh thổ của các sự vật hiện tượng địa líNhững nêu chỉ dựa vào Atlat thì nhiều kiến thức như tình hình phát triển, nguyên nhân phát triển không được đề cập đến một cách đầy đủ và hợp lí.
Ví dụ : Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy phân tích đặc điểm của đất miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
- Những kiến thức có thể khai thác được từ Atlat một cách rất rõ ràng :
+ Nhiều loại đất khác nhau
+ Đất feralit nâu đỏ trên đá bazan : tập trung ở các cao nguyên Tây Nguyên
+ Đất feralit trên các loại đá khác : chiếm diện tích lơn và phân bố rộng rãi ở nhiều nơi
+ Ở vùng núi, độ cao từ trên 500 – 600m đến 1600 – 1700m có đất vàng đỏ trên núi, độ cao trên 1600 – 1700m có đất mùn alit núi cao với diện tích không lớn.
+ Đất xám bạc màu trên đá axit tập trung ở Tây Nguyên và rải rác ở các đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ
+ Đất xám bạc màu trên phù sa cổ tập trung nhiều ở ĐNB
+ Đất phù sa ngọt hình thành do sông tập trung nhiều ở ĐBSCL ( ven sông Tiền – sông Hậu ) và rải rác đồng bằng NTB
+ Đất phèn, đất mặn chiếm diện tích lớn ở ĐBSCL , cửa biển DHNTB
+ Đất cát ven biển : phân bố dọc bờ biển, nhiều nhất ở DHNTB
- Những kiến thức phải huy động từ vốn kiến thức đã có:
+ Đất miền NTB và NB rất đa dạng với nhiều loại đất khác nhau
+ Đất feralit nâu đỏ trên đá bazan : tập trung ở các cao nguyên Tây Nguyên khoảng 1,3 triệu ha. Đất này được hình thành trên cơ sở phong hóa đá bazan có tầng phong hóa dày, khá phì nhiêu.
+ Đất xám bạc màu trên phù sa cổ tập trung nhiều ở ĐNB với trên 900000ha
+ Đất phù sa:
Đất phù sa của ĐBSCL là loại đất tốt, có thành phần cơ giới nặng, phần lớn diện tích được bồi đắp vào mùa lũ.
Đất phù sa của DHNTB hình thành bởi sự bồi tụ của phù sa sông và biển, đất có thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt nhẹ, đất chua, nghèo mùn và chất dinh dưỡng.
Đất phèn có đặc tính chua, đất mặn có loại mặn ít, loại mặn nhiều
- Kết hợp cả Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, ta có :
+ Đất ở miền NTB và NB có nhiều loại khác nhau ( đất feralit và đất phù sa)
+ Đất feralit :
Đất feralit nâu đỏ trên đá bazan : tập trung ở các cao nguyên Tây Nguyên khoảng 1,3 triệu ha. Đất này được hình thành trên cơ sở phong hóa đá bazan có tầng phong hóa dày, khá phì nhiêu.
 Đất feralit trên các loại đá khác : chiếm diện tích lơn và phân bố rộng rãi ở nhiều nơi
 Ở vùng núi, độ cao từ trên 500 – 600m đến 1600 – 1700m có đất vàng đỏ trên núi, độ cao trên 1600 – 1700m có đất mùn alit núi cao với diện tích không lớn.
+ Đất xám:
Đất xám bạc màu trên đá axit tập trung ở Tây Nguyên và rải rác ở các đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ
 Đất xám bạc màu trên phù sa cổ tập trung nhiều ở ĐNB với trên 900000ha
+ Đất phù sa:
Đất phù sa của ĐBSCL là loại đất tốt, có thành phần cơ giới nặng, phần lớn diện tích được bồi đắp vào mùa lũ.
Đất phù sa của DHNTB hình thành bởi sự bồi tụ của phù sa sông và biển, đất có thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt nhẹ, đất chua, nghèo mùn và chất dinh dưỡng.
Đất phèn , đất mặn chiếm diện tích lớn ở ĐBSCL, ngoài ra còn có ở vùng cửa sông ven biển ở DHNTB. Đất phèn có đặc tính chua, đất mặn có loại mặn ít, loại mặn nhiều
Đất cát ven biển : phân bố dọc bờ biển, nhiều nhất ở DHNTB, đất nghèo mùn và chất dinh dưỡng.
b.2.Học theo các chủ điểm với Atlat :
Mỗi trang Atlat chỉ trình bày một hoặc một số nội dung. Việc học với Atlat trước hết được bắt đầu thực hiện với từng trang. Sau đó tiến hành với nhiều trang. Do vậy việc học theo từng chủ điểm có nhiều lợi thế trong việc nắm kiến thức địa lí.
Có thể học với Atlat Địa lí Việt Nam theo các chủ điểm sau:
- Trình bày và giải thích vị trí địa lí của quốc gia, miền, vùng, tỉnh, trung tâm công nghiệp hoặc thành phố lớnvà ý nghĩa của vị trí địa lí.
- Trình bày và giải thích về đặc điểm chung của tự nhiên Việt nam.
- Trình bày và giải thích một yếu tố, thành phần địa lí tự nhiên, dân cư , xã hội
- Trình bày và giải thích sự đa dạng của tài nguyên, một số thiên tai chủ yếu
- Trình bày và giải thích một miền tự nhiên, so sánh các miền tự nhiên
- Trình bày và giải thích về một trung tâm công nghiệp, một vùng nông nghiệp, vùng công nghiệp. So sánh các trung tâm , các vùng.
- Trình bày và giải thích về một vùng kinh tế hay một cung kinh tế trọng điểm
b.3.Một số kĩ thuật sử dụng các trang của Atlat Địa lí Việt Nam:
*/ Phương pháp sử dụng trang mở đầu :
Cần đọc và làm việc kĩ, đồng thưoif luyện tập nhiều lần đối với trang mở đầu của Atlat để :
- Hiểu được cấu trúc, ý nghĩa, đặc điểm của Atlat
- Nắm chắc hệ thống kí hiệu chung
*/ Phương pháp sử dụng các trang bản đồ của Atlat:
Làm việc với các trang của Atlat học sinh phải:
- Xác định vị trí địa lí, giới hạn của lãnh thổ, vùng kinh tế.
- Nêu đặc điểm của đối tượng địa lí
- Trình bày sự phân bố của đối tượng địa lí
- Giải thích sự phân bố của các đối tượng địa lí; phân tích mối quan hệ giữa các đối tượng địa lí, phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên với nhau.
- Đánh giá các nguồn lực phát triển ngành và vùng kinh tế
- Trình bày tiềm năng, hiện trạng và hướng phát triển của một ngành, lãnh thổ.
- Phân tích mối quan hệ giữa các ngành và các lãnh thổ với nhau.
- So sánh các vùng kinh tế về các mặt, trình bày tổng hợp các đặc điểm của một lãnh thổ.
b.4. Dựa vào dàn bài để đọc Atlat:
Thông thường khi phân tích hoặc đánh giá một đối tượng địa lí, học sinh cần lưu ý sử dụng một dàn bài có được từ vốn tri thức địa lí của bản thân vào việc đọc các trang Atlat . Một cách chung nhất, có thể dựa vào một số dàn bài sau:
- Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ của vùng kinh tế : những nơi tiếp giáp, diện tích , ý nghĩa của vị trí địa lí và diện tích lãnh thổ đối với việc phát triển KTXH.
- Địa hình : những đặc điểm chính của địa hình; một số mối quan hệ giữa địa hình và các nhân tố khác; các khu vực địa hình ; ảnh hưởng của địa hình tới phân bố dân cư và phát triển KTXH.
- Khí hậu : nhiệt độ trung bình năm; nhiệt độ trung bình tháng I và VII; tổng lượng mưa; lượng mưa trung bình năm; chế độ gió( tần suất, hướng gió); biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa; các hiện tượng thời tiết đặc biệt; xác định kiểu khí hậu với những đặc trưng cơ bản; tính chất theo mùa của khí hậu; ảnh hưởng của khí hậu tới sản xuất và đời sống; các miền hoặc khu vực khí hậu
- Thủy văn : mạng lưới sông ngòi; đặc điểm chính của sông ngòi; các sông lớn trên lãnh thổ; giá trị kinh tế của sông ngòi
- Công nghiệp : giá trị sản xuất công nghiệp qua các năm; cơ cấu ngành công nghiệp; các trung tâm công nghiệp , điểm công nghiệp; các ngành công nghiệp chủ yếu
- Giao thông : các loại hình giao thông; các tuyến đường giao thông chính; các đầu mối giao thông, cac cảng, sân bay và chức năng vai trò của chúng.
- Các vùng kinh tế : vị trí địa lí; quy mô( lãnh thổ - dân số ); nguồn lực phát triển; các ngành kinh tế chủ yếu trong vùng; hướng chuyên môn hóa và sản phẩm hàng hóa; khả năng phát triển
Dàn ý của mỗi thành phần , yếu tố hay miền vùng địa lí trên là cơ sở để ôn luyện kiến thức đia lí gắn với việc sử dụng Atlat tránh việc bỏ sót ý.
Trong khi làm bài, tùy yêu cầu câu hỏi, xác định các kiến thức nào cần khai thác, kiến thức nào không cần trình bày hoặc không cần đi sâu phân tích vì không phải trọng tâm của đề.
b.5. Làm việc với biểu đồ, số liệu trong Atlat:
Khi khai thác Atlat cũng cần chú ý đến việc phân tích các lát cắt, số liệu, biểu đồ trong Atlat. Đó là các thành phần bổ trợ làm rõ nội dung trang Atlat hoặc bổ sung cho nội dung tờ bản đồ.
Ví dụ: ở trang bản đồ Nông nghiệp, khi trình bày về cây công nghiệp, tờ bản đồ chỉ thể hiện được các cây công nghiệp, các vùng chuyên canh cây công nghiệp. Muốn hiểu rõ hơn cần khai thác biểu đồ hình cột thể hiện diện tích gieo trồng cây công nghiệp và tỷ lệ diện tích gieo trồng cây công nghiệp so với diện tích đất nông nghiệp được trình bày kèm theo trang bản đồ.
Hoặc trên trang bản đồ các miền tự nhiên, để biết được một cách trực quan và cụ thể hướng nghiêng và hình thái địa hình miền Tây Bắc và BTB, miền B và ĐB BB , ngoài quan sát trên bản đồ còn phải đi sâu phân tích hai lát cắt địa hình được trình bày kèm theo trang bản đồ.
 IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN TRONG TIẾT DẠY
1. Các bước thực hiện
1.1. Đối với các tiết dạy 
Bước 1: Giáo viên sưu tầm tài liệu liên quan,biên soạn nội dung tài liệu về rèn kỹ năng tự học cho học sinh thông qua các dạng bài tập thực hành cụ thể.
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần lí thuyết sẽ thực hiện trong tiết dạy thực hành .
Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh cách khai thác.
Bước 4: Tổ chức cho học sinh thực hành ngay trên lớp.
Bước 5: Đánh giá kết quả làm việc của học sinh sau khi hoàn thiện bài tập.
Bước 6: Chỉnh sửa các lỗi sai thường gặp của học sinh trong quá trình làm bài.
Bước 7: Thu thập thông tin của học sinh về kỹ năng thực hành, đánh giá kết quả đạt được sau mỗi tiết.
Trong các bước trên thì bước 1, 2 và bước 3 là quan trọng nhất đòi hỏi giáo viên phải hướng dẫn tỷ mỉ, chính xác, dễ hiểu để học sinh nắm rõ được quy trình thực hiện các kĩ năng cơ bản. Sau đó giáo viên phải tiến hành kiểm tra thu thập các lỗi sai, các kĩ năng còn yếu ở các em học sinh để tiến hành điều chỉnh nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong dạy học.
1.2. Đối với các bài tập thực hành ở cuối bài, bài tập về nhà,
Giáo viên hướng dẫn ngắn gọn cho học sinh về nhà làm theo các bước đã nêu sau đó kiểm tra, điều chỉnh vào đầu tiết học tiếp theo.
Trong quá trình dạy học ở chương trình lớp 12, tôi tiến hành thực nghiệm trên 2 lớp 12A4, 12A5.
 Kết quả khảo sát chất lượng bộ môn đầu năm học 2013 - 2014 (Khi chưa tiến hành thực nghiệm) 
STT
Lớp
Tổng số học sinh
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
(hs)
Tỷ

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_huong_dan_hoc_sinh_tu_hoc.doc
  • docBIA SANG KIEN KINH NGHIEM - HANG DIA.doc
  • docPhu luc kem theo CV 518.doc