Giải pháp Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiểu bài ôn tập – môn Địa lí lớp 12 ban Cơ bản

Giải pháp Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiểu bài ôn tập – môn Địa lí lớp 12 ban Cơ bản

Để khắc phục thực trạng dạy học trong bộ môn đã nêu ở trên, nhằm nâng cao hiệu suất, chất lượng giờ ôn tập, giáo viên cần chuẩn bị kĩ lưỡng một số yêu cầu sau:

Thứ nhất: Xác định các kiến thức cơ bản, trọng tâm hướng dẫn học sinh ôn tập. Hệ thống các kiến thức cần nắm vững đã được đề cập đến ngay trong từng bài học nhưng giáo viên cần lựa chọn thêm những nội dung kiến thức để kết nối, liên kết, mở rộng hoặc cung cấp thêm tư liệu mang tính thực tiễn, cập nhật thông tin. Đồng thời cần sắp xếp các kiến thức theo hệ thống có logic chặt chẽ, theo tiến trình phát triển của kiến thức cùng các kỹ năng cần rèn luyện trong giờ.

Thứ hai: Lựa chọn cách trình bày nội dung cơ bản, trọng tâm trong giờ ôn tập một cách phù hợp. Có thể trình bày dưới dạng bảng tổng kết hoặc các sơ đồ thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa các kiến thức, giúp học sinh dễ nhớ và có sự khái quát cao hơn. Bảng tổng kết hoặc sơ đồ cần đảm bảo tính rõ ràng, chính xác, khoa học và thẩm mĩ.

Thứ ba: Xác định rõ các tình huống học tập (câu hỏi, bài tập) phù hợp với từng đối tượng học sinh; thể hiện rõ sự phát triển về nhận thức thông qua các bài tập cụ thể. Việc khái quát hóa kiến thức, phát triển tư tưởng, năng lực nhận thức của học sinh đựơc điều khiển bằng các câu hỏi dẫn dắt giúp học sinh tìm ra mối liên hệ giữa các kiến thức và khái quát chúng ở dạng tổng quát nhất. Vì vậy giáo viên cần chuẩn bị một hệ thống câu hỏi cho từng phần kiến thức, mối liên hệ giữa các kiến thức, vận dụng kiến thức, đào sâu phát triển kiến thức. Các câu hỏi nêu ra phải rõ ràng, có tác dụng nêu vấn đề để học sinh trình bày suy luận, thể hiện được khả năng tư duy khái quát của mình. Các câu hỏi, bài tập cần bám sát vào cấu trúc đề thi tốt nghiệp THPT. Cần dự kiến nội dung, phương pháp, hình thức kiểm tra đánh giá kết quả ôn tập của học sinh ngay trong giờ một cách linh hoạt, phù hợp.

 

doc 16 trang Người đăng Hoài Minh Ngày đăng 16/08/2023 Lượt xem 180Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiểu bài ôn tập – môn Địa lí lớp 12 ban Cơ bản", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thức, vừa là phương tiện để minh họa cho các kiến thức, vừa là phương tiện rèn luyện kĩ năng học tập cho học sinh.
2. Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiểu bài ôn tập
Bản đồ tư duy còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể thể hiện nó dưới dạng bản đồ tư duy theo một cách riêng, do đó việc lập bản đồ tư duy phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. ‎
Bản đồ tư duy có ý nghĩa quan trọng trong việc đổi mới các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học kiểu bài ôn tập, giúp học sinh hệ thống hóa các kiến thức đã học trong chương, trong phần một cách mạch lạc, rõ ràng; sắp xếp các chủ đề kiến thức theo trình tự xuất hiện trong suy nghĩ của học sinh; giúp học sinh đào sâu các kiến thức đã học ở nhiều khía cạnh khác nhau, xâu chuỗi kiến thức thành các mạch kiến thức một cách logic....
Việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiểu bài ôn tập ở môn Địa lí có thể thực hiện được theo hai cách như sau:
1. Giáo viên dùng bản đồ tư duy để khái quát, hệ thống lại kiến thức trọng tâm, cơ bản cho học sinh.
2. Giáo viên hướng dẫn học sinh tự tổng hợp, khái quát các kiến thức theo một bản đồ tư duy.
3. Sử dụng linh hoạt bản đồ tư duy trong hoạt động củng cố, đánh giá.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
	Hiện nay trong quá trình dạy học kiểu bài ôn tập, chúng ta vẫn thường sử dụng cách dạy truyền thống với các bước cụ thể là:
- Bước 1: Giáo viên hệ thống kiến thức bằng các gạch đầu dòng
- Bước 2: Đàm thoại, nêu vấn đề để học sinh tái hiện lại nội dung
- Bước 3: Giao câu hỏi, bài tập để học sinh dựa vào kiến thức đã học giải quyết
- Bước 4: Giáo viên chữa nội dung, chốt lại các trọng tâm ôn tập. 
	Với cách dạy này, giáo viên không mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị nội dung, phương pháp, phương tiện bởi vì:
- Hầu hết nội dung được đề cập đến trong bài đều là nội dung giáo viên đã giảng dạy ở các bài trước đó, học sinh đã có nội dung ghi chép trong vở. Giáo viên chỉ cần thiết kế một số câu hỏi, bài tập tương ứng với nội dung để hướng dẫn học sinh giải quyết trong giờ ôn tập là được.
- Phương tiện sử dụng cũng đơn thuần là hệ thống bản đồ, lược đồ, các bảng số liệu thống kê hoặc các biểu đồ đã được sử dụng từ các tiết dạy trước.
- Phương pháp chủ đạo là đàm thoại nêu vấn đề, hướng dẫn, làm mẫu ....
	Học sinh cũng không cần chuẩn bị nhiều cho bài ôn tập được tổ chức theo cách dạy truyền thống này bởi nội dung ôn tập đã được ghi cẩn thận trong vở qua từng bài học.
Với cách dạy học như trên, sau giờ ôn tập các kiến thức được hệ thống một cách đầy đủ, chi tiết song không phát huy được tư duy sáng tạo của học sinh, không phân loại được đối tượng học sinh trong giờ ôn tập. Sau bài ôn tập, mọi học sinh đều được khái quát hóa các chủ đề kiến thức, giải quyết các bài tập như nhau. Điều đó dễ gây nhàm chán cho học trò, nhất là các em có năng lực nhận thức tốt hoặc gây áp lực về kiến thức đối với những học sinh có nhận thức chậm, yếu.
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
	Để khắc phục thực trạng dạy học trong bộ môn đã nêu ở trên, nhằm nâng cao hiệu suất, chất lượng giờ ôn tập, giáo viên cần chuẩn bị kĩ lưỡng một số yêu cầu sau:
Thứ nhất: Xác định các kiến thức cơ bản, trọng tâm hướng dẫn học sinh ôn tập. Hệ thống các kiến thức cần nắm vững đã được đề cập đến ngay trong từng bài học nhưng giáo viên cần lựa chọn thêm những nội dung kiến thức để kết nối, liên kết, mở rộng hoặc cung cấp thêm tư liệu mang tính thực tiễn, cập nhật thông tin. Đồng thời cần sắp xếp các kiến thức theo hệ thống có logic chặt chẽ, theo tiến trình phát triển của kiến thức cùng các kỹ năng cần rèn luyện trong giờ.
Thứ hai: Lựa chọn cách trình bày nội dung cơ bản, trọng tâm trong giờ ôn tập một cách phù hợp. Có thể trình bày dưới dạng bảng tổng kết hoặc các sơ đồ thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa các kiến thức, giúp học sinh dễ nhớ và có sự khái quát cao hơn. Bảng tổng kết hoặc sơ đồ cần đảm bảo tính rõ ràng, chính xác, khoa học và thẩm mĩ.
Thứ ba: Xác định rõ các tình huống học tập (câu hỏi, bài tập) phù hợp với từng đối tượng học sinh; thể hiện rõ sự phát triển về nhận thức thông qua các bài tập cụ thể. Việc khái quát hóa kiến thức, phát triển tư tưởng, năng lực nhận thức của học sinh đựơc điều khiển bằng các câu hỏi dẫn dắt giúp học sinh tìm ra mối liên hệ giữa các kiến thức và khái quát chúng ở dạng tổng quát nhất. Vì vậy giáo viên cần chuẩn bị một hệ thống câu hỏi cho từng phần kiến thức, mối liên hệ giữa các kiến thức, vận dụng kiến thức, đào sâu phát triển kiến thức. Các câu hỏi nêu ra phải rõ ràng, có tác dụng nêu vấn đề để học sinh trình bày suy luận, thể hiện được khả năng tư duy khái quát của mình. Các câu hỏi, bài tập cần bám sát vào cấu trúc đề thi tốt nghiệp THPT. Cần dự kiến nội dung, phương pháp, hình thức kiểm tra đánh giá kết quả ôn tập của học sinh ngay trong giờ một cách linh hoạt, phù hợp.
Thứ tư: Lựa chọn cách gợi mở, hướng dẫn phù hợp đối với từng nhóm đối tượng học sinh để tránh gây sự nhàm chán cho học trò, tạo động lực để các em chủ động, tích cực suy nghĩ, giải quyết các nhiệm vụ học tập. 
Thứ năm: Hướng dẫn kĩ năng tự ôn tập cho học sinh. Đây là yêu cầu rất quan trọng bởi trong thời lượng chỉ có 45 phút của giờ học, nội dung giờ ôn tập của môn Địa lí khá dài nên các tình huống được đặt ra trong giờ không thể bao quát hết nội dung cơ bản, trọng tâm. Việc rèn kĩ năng tự học, tự ôn tập cho các em sẽ giúp học sinh chủ động, tự giác trong ôn tập; củng cố toàn diện các kiến thức đã học một cách vững chắc hơn.
Thứ sáu: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị chu đáo nội dung, phương tiện, đồ dùng cho giờ ôn tập: Giáo viên cần xác định các yêu cầu cụ thể để học sinh chuẩn bị cho giờ ôn tập như xem lại nội dung các bài học, so sánh các nội dung, lập bảng tổng kết, thiết lập sơ đồ hệ thống hóa các kiến thức cơ bản, trọng tâm. Sự chuẩn bị chu đáo của học sinh sẽ tạo ra được sự tương tác và phối hợp thống nhất giữa các hoạt động nhận thức của học sinh với hoạt động dạy học của giáo viên; giữa học sinh với học sinh; làm cho giờ học sôi nổi, sinh động, hiệu quả hơn.
	Bản đồ tư duy có thể được coi như một cách trình bày, một phương tiện dạy học hiệu quả của giáo viên đồng thời là kết quả chuẩn bị, kết quả nhận thức của học sinh sau mỗi giờ ôn tập. Dưới đây là một số cách sử dụng bản đồ tư duy cho bài dạy ôn tập ở môn Địa lí lớp 12 ban cơ bản mà cá nhân tôi đã thực hiện tại trường THPT số I Si Ma Cai.
1. Giáo viên dùng bản đồ tư duy để khái quát, hệ thống lại kiến thức trọng tâm, cơ bản cho học sinh.
	Thay vì cách hệ thống bằng các gạch đầu dòng, giáo viên chuẩn bị sẵn một bản đồ tư duy (hoặc sơ đồ) để hệ thống hóa các kiến thức cơ bản, trọng tâm sẽ hướng dẫn học sinh ôn tập trong giờ. Bản đồ này được thiết kế bởi phần mềm Imindmap và trình chiếu trên màn hình với Microsoft Office Powerpoint. Trong quá trình tổ chức ôn tập trên lớp, giáo viên đặt các câu hỏi để học sinh nhắc lại lần lượt các chủ đề kiến thức đã học trong chương trình ôn tập. Học sinh nhắc đến đâu giáo viên chuẩn xác và thể hiện các nhánh của bản đồ tư duy trên màn hình đến đó. 
Ví dụ, khi tổ chức giờ ôn tập – tiết 7 theo phân phối chương trình, với chủ đề là “Tiết 7 – Ôn tập”, lần lượt các nhánh của bản đồ tư duy được trình chiếu. Kết thúc hoạt động hệ thống hóa kiến thức này, học sinh sẽ quan sát thấy một bản đồ tư duy hoàn chỉnh trên màn hình. Qua bản đồ tư duy, học sinh có thể ghi nhớ rõ ràng 4 chủ đề kiến thức trọng tâm ôn tập trong giờ là: Vị trí địa lí, Phạm vi lãnh thổ, Đất nước nhiều đồi núi và Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển.
Khi xây dựng bản đồ tư duy, hệ thống kênh chữ cần súc tích, màu sắc được sử dụng linh hoạt. Bên cạnh đó, giáo viên có thể sử dụng hệ thống các hình ảnh xuyên suốt để gây ấn tượng và tăng cường khả năng ghi nhớ của học sinh; hoặc thay vì dùng lời để thuyết trình về các kiến thức đã học, giáo viên sử dụng các bản đồ, lược đồ, sơ đồ để học sinh tự nhắc lại kiến thức. Sơ đồ hình ảnh dưới đây như là một gợi ý ‎của giáo viên đối với học sinh, vừa giúp các em nhanh chóng tìm thấy bản đồ trong SGK hoặc Atlat, vừa là phương tiện để các em tái hiện lại các kiến thức đã học trong các bài 2, 6, 8 của sách giáo khoa Địa lí 12 ban cơ bản.
Với cách hướng dẫn ôn tập như trên, học sinh không chỉ ghi nhớ nhanh các kiến thức trọng tâm ôn tập mà còn có thể nhanh chóng tìm thấy thấy các bản đồ tương ứng trong Atlat hoặc trong sách giáo khoa khi ôn tập. Tuy nhiên, nhược điểm của cách làm trên là hệ thống câu hỏi gợi mở của giáo viên phải chi tiết để học sinh trả lời trúng, đúng ý tưởng thiết kế của giáo viên bởi khi ta sử dụng Imindmap để tạo bản đồ tư duy rồi xuất ra dạng Powerpoint thì phần mềm tự động trình chiếu, ta không can thiệp được. Điều đó phần nào làm hạn chế khả năng tư duy sáng tạo của học sinh.‎
2. Giáo viên hướng dẫn học sinh tự tổng hợp, khái quát các kiến thức theo một bản đồ tư duy.
	Trong giờ ôn tập thay cho việc giáo viên hệ thống hóa kiến thức cho học sinh bằng bản đồ tư duy, giáo viên hướng dẫn tổ chức để học sinh, nhóm học sinh tự tổng hợp kiến thức bằng một bản đồ tư duy hoặc phân công mỗi nhóm học sinh hoàn thiện một phần của bản đồ tư duy. Với cách tổ chức dạy học này, giáo viên có thể lựa chọn linh hoạt phương pháp động não hoặc phương pháp thảo luận nhóm.
a. Sử dụng bản đồ tư duy trong phương pháp động não
Ở một góc độ nào đó, bản chất của phương pháp động não chính là bản đồ tư duy cả về nội dung và hình thức. Phương pháp động não được sử dụng khá phổ biến trong dạy học Địa lý nhằm phát huy tính sáng tạo, tập trung cao độ và rèn luyện khả năng phản ứng nhanh nhạy của người học. Giáo viên nêu vấn đề có tính tình huống chính là chủ đề ôn tập trong giờ và yêu cầu học sinh giải quyết trong thời gian ngắn theo hình thức “tiếp sức”. Các học sinh sẽ lần lượt “bật” ra ý tưởng càng nhanh càng tốt, cho đến khi thời gian kết thúc. Khi đó, vấn đề có tính tình huống giáo viên tung ra được thể hiện ở trung tâm của bản đồ tư duy thông qua một bức tranh hay hình ảnh đồ họa. Mỗi ý tưởng của học sinh là một phân nhánh cấp 1. Kết thúc hoạt động, ta sẽ có một bản đồ tư duy đồ sộ là tập hợp sức mạnh tư duy của cả tập thể, đồng thời kích thích sự tham gia, hứng thú và nhiệt tình của tất cả người học trên tinh thần tôn trọng và học hỏi lẫn nhau.
Ví dụ khi tổ chức ôn tập nội dung về địa lí dân cư trong tiết 36 (theo PPCT), giáo viên đưa ra chủ đề: DÂN CƯ VIỆT NAM sau đó yêu cầu học sinh dựa vào kiến thức đã học để nêu các kiến thức đã được nghiên cứu trong chủ đề. Lần lượt các học sinh nêu một ghi nhớ của bản thân về dân cư nước ta. Ưu điểm của phương pháp này là học sinh được tự do nêu lên quan điểm, suy nghĩ của mình mà không câu lệ về trình tự sắp xếp các nội dung kiến thức. Mỗi ý kiến đúng của học sinh là một phân nhánh cấp 1 của bản đồ tư duy với chủ đề DÂN CƯ VIỆT NAM mà giáo viên đã xác định từ đầu.
Bản đồ tư duy được xây dựng sau hoạt động ôn tập theo phương pháp động não, nêu vấn đề đó có thể có dạng như sau:
Cũng với nội dung ôn tập trên, giáo viên có thể định hướng cho học sinh 3 nội dung cơ bản tương ứng với 3 bài trong chương trình: Đặc điểm dân số và phân bố dân cư; Lao động và việc làm; Đô thị hóa. Đây là 3 nhánh cấp 1 của chủ đề ĐỊA LÍ DÂN CƯ. Sau đó, giáo viên lần lượt gọi các học sinh nêu các nội dung cơ bản của từng bài để hình thành các nhánh cấp 2, cấp 3. Cũng giống với cách tạo bản đồ tư duy ở trên, ở cách làm này học sinh được bày tỏ suy nghĩ và sự ghi nhớ của bản thân với kiến thức đã học một cách thoải mái, không câu lệ vào trình tự sắp xếp nội dung song với cách làm này, các đơn vị kiến thức được sắp xếp theo từng bài một cách khoa học hơn. Bản đồ tư duy được tạo nên không chỉ đảm bảo tính đầy đủ về kiến thức mà còn thể hiện rõ ràng mạch kiến thức trong mỗi bài học. Dưới đây là bản đồ tư duy được xây dựng sau hoạt động ôn tập như vậy.
b. Sử dụng bản đồ tư duy trong phương pháp thảo luận nhóm
	Việc sử dụng bản đồ tư duy trong phương pháp thảo luận nhóm ở giờ ôn tập có nhiều ưu điểm. Thông qua việc tổ chức hoạt động, giáo viên đã hướng dẫn học sinh một phương pháp học tập có hiệu quả: Tự lập bản đồ tư duy. Mặt khác, thông qua việc trao đổi trong nhóm các em sẽ cùng thảo luận, cùng hướng dẫn nhau cách xây dựng bản đồ, cùng chia sẽ những ghi nhớ của bản thân đối với các nội dung đã được học từ trước. 
Ví dụ khi tổ chức ôn tập địa lí các ngành kinh tế trong tiết 36 – PPCT với phương pháp thảo luận nhóm thay vì phát phiếu học tập cho học sinh, giáo viên có thể nêu tên chủ đề ôn tập: ĐỊA LÍ CÁC NGÀNH KINH TẾ, ghi ở giữa bảng với kích thước lớn để hình thành bản đồ tư duy và thu hút sự chú ý của học sinh; giao cho mỗi nhóm học sinh hệ thống lại kiến thức của một nội dung trong chủ đề bằng một bản đồ tư duy trên khổ giấy A0. 
* Nhóm 1: Hệ thống hóa kiến thức về vấn đề phát triển, phân bố nông nghiệp
* Nhóm 2: Hệ thống hóa kiến thức về vấn đề phát triển, phân bố công nghiệp
* Nhóm 3: Hệ thống hóa kiến thức về vấn đề phát triển, phân bố các ngành dịch vụ	
	Mỗi bản đồ tư duy đó không chỉ phản ánh thái độ nghiêm túc, tích cực của cả nhóm trong việc hệ thống hóa kiến thức giống như một phiếu học tập mà còn in đậm tinh thần đoàn kết cũng như sự hợp tác ăn ý giữa các thành viên trong nhóm đồng thời vẫn thể hiện được màu sắc cá nhân của mỗi học sinh. Học sinh không chỉ được củng cố, khắc sâu các kiến thức đã học mà còn được sáng tạo và khẳng định bản thân, được thuyết trình, học hỏi những cách thể hiện vấn đề theo những góc cạnh khác nhau; được bảo vệ ý tưởng, chính kiến của mình. Kết thúc hoạt động trao đổi theo từng nhóm, giáo viên cho các nhóm dán phần bản đồ của mình lên bảng. Tổng hợp kết quả của các nhóm sẽ tạo lập được một bản đồ tư duy hoàn chỉnh, đồ sộ cho nội dung ôn tập. 
	Kết thúc hoạt động, giáo viên có thể sử dụng một bản đồ tư duy đã thiết kế trước (có thể xây dựng bằng phần mềm Imindmap và xuất ra dưới dạng Image - dạng ảnh) để học sinh đối chiếu, so sánh với kết quả làm việc của nhóm mình. Từ đó, các em tự điều chỉnh những nội dung chưa thật chuẩn xác, bổ sung những nội dung còn thiếu trong quá trình thảo luận, hệ thống lại các kiến thức.
Để đánh giá kết quả tự ôn tập của các nhóm, giáo viên có thể gọi 1 học sinh của nhóm lên bảng, mời các học sinh của nhóm khác đặt câu hỏi cho bạn. Sau khi nghe bạn trả lời, học sinh đặt câu hỏi sẽ đánh giá kết quả ôn tập của bạn, có thể bổ sung cho bạn những nội dung còn thiếu, sửa cho bạn những nội dung hiểu chưa đúng hoặc lỗi diễn đạt chưa thoát ý....; giáo viên là người nhận xét, đánh giá cuối cùng. Cách làm này vừa tạo điều kiện để các em tự đánh giá kết quả học tập của nhau, vừa tạo điều kiện để học sinh được trao đổi nhiều hơn, rộng hơn. Mặt khác, việc các em được tham gia vào hoạt động đánh giá kết quả ôn tập của bạn khác trong lớp sẽ giúp các em hứng thú hơn, có trách nhiệm cao hơn trong quá trình ôn tập. Vì thế mà giờ ôn tập trở nên sôi nổi, đạt hiệu quả tích cực. Tuy nhiên muốn đạt được hiệu quả giáo viên nên hướng dẫn học sinh đặt ra những câu hỏi từ mức độ dễ đến khó, từ mức độ tái hiện kiến thức đến vận dụng kiến thức cho bạn của mình. Đối với những câu hỏi hay giáo viên nên ngợi khen, khích lệ học sinh kịp thời để tăng thêm sự tự tin cho các em.
3. Sử dụng bản đồ tư duy trong hoạt động củng cố, đánh giá	
	Thay vì việc thuyết trình, nhắc lại các trọng tâm ôn tập trong giờ, giáo viên có thể sử dụng một bản đồ tư đã chuẩn bị trước (thiết kế trên phần mềm Imindmap và xuất ra dưới dạng Image) để củng cố toàn bộ các kiến thức đã ôn tập. Thông qua bản đồ tư duy, học sinh nhìn thấy tổng quan các vấn đề lớn đã được trao đổi, ôn tập trong giờ.
	Việc kiểm tra, đánh giá bằng bản đồ tư duy là một hình thức kiểm tra toàn diện. Thông qua đó, giáo viên không chỉ đánh giá được kiến thức, khả năng ghi nhớ, sự chuyên cần học tập của học sinh mà còn cho phép giáo viên đánh giá năng lực tư duy khoa học, tính logic, trí tưởng tượng, óc thẩm mỹ và sáng tạo của các em. Chính vì điều đó, sự phản hồi của học sinh thông qua bản đồ tư duy có giá trị hơn rất nhiều so với phương pháp kiểm tra tự luận hay trắc nghiệm khách quan mà hiện nay chúng ta đang sử dụng.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN
Việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiểu bài ôn tập có nhiều ưu điểm:
- Học sinh có thể tự khái quát nội dung, không câu lệ về trình tự sắp xếp các kiến thức
- Học sinh đào sâu các kiến thức ở nhiều khía cạnh khác nhau, từ đó học sinh dễ dàng phát hiện bản chất của các đơn vị kiến thức đã học.
- Việc ghi chép bằng bản đồ tư duy có thể phân hóa rõ kết quả nhận thức vấn đề của từng đối tượng học sinh. Học sinh có nhận thức chậm, yếu có thể chỉ phát triển bản đồ đến các nhánh cấp 1, cấp 2; học sinh có nhận thức tốt có thể phát triển bản đồ với nhiều nhánh cấp nhỏ hơn. Càng phát triển bản đồ ở nhiều nhánh nhỏ càng thể hiện rõ độ sâu, rộng trong nhận thức của học sinh.
- Việc hệ thống hóa bằng một bản đồ tư duy còn có thể giúp học sinh liên kết các kiến thức với hệ thống các bản đồ có liên quan một cách sinh động. Thậm chí, thay vì viết chữ, học sinh còn có thể ghi trang Atlat được sử dụng bởi mỗi trang bản đồ trong Atlat địa lí Việt Nam đều thể hiện rõ đặc điểm của một yếu tố tự nhiên; dân cư; tình hình tăng trưởng, phát triển của một ngành kinh tế ....
- Giáo viên cũng có thể thiết kế bản đồ tư duy có sử dụng các bản đồ của Atltat thay cho viết chữ để hướng dẫn cho học sinh trong quá trình ôn tập củng cố kiến thức.
- Bên cạnh đó việc tổ chức giờ ôn tập có sử dụng bản đồ tư duy còn tạo cơ hội để giáo viên hướng dẫn học sinh phương pháp tự ôn tập. Bản chất của việc dạy học này là phương pháp dạy học của giáo viên phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Các phương pháp ôn tập theo kiểu tư duy logic có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy điểm mạnh của sự phát triển tư duy ở lứa tuổi học sinh. Học sinh có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo. Trong học tập bộ môn, quá trình nhận thức của học sinh cũng tuân theo quy luật chung của quá trình nhận thức ở loài người, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Việc hình thành kiến thức, sâu chuỗi các kiến thức là quá trình vận động nhận thức của học sinh đi từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến khái quát, từ biết đến hiểu bản chất, nắm vững các mối quan hệ logic giữa các đối tượng, hiện tượng địa lí. Quá trình này không diễn ra một cách tự nhiên mà phải có sự kích thích của giáo viên.
	Khảo sát chất lượng học sinh 02 lớp 12 do tôi giảng dạy trong năm học 2013 – 2014 có thể thấy rõ hơn hiệu quả của việc tổ chức giờ ôn tập với bản đồ tư duy.
	* Đối với tiết ôn tập giữa kì I (tiết 7 – PPCT)
Lớp 12A1: Tổ chức dạy học với bản đồ tư duy
	Lớp 12A2: Lớp đối chứng (Tổ chức giờ ôn tập theo cách dạy truyền thống)
	Kết quả bài kiểm tra giữa kì I (tiết 8 – PPCT)
Lớp
TSHS tham gia kiểm tra
TS bài dưới 5,0
Trong đó
Tổng bài đạt từ 5,0 trở lên
Trong đó
Từ 0 đến 2,5
Từ 3,0 đến 4,5
Từ 5,0 đến 6,5
Từ 7,0 đến 8,5
Từ 9,0 đến 10
12A1
35
3
-
3
32
14
16
2
100%
8,6
-
8,6
91,4
40,0
45,7
5,7
12A2
35
11
1
10
24
20
4
-
100%
31,4
2,8
28,6
68,6
57,1
11,5
-
	* Đối với tiết ôn tập giữa kì II (tiết 35 – PPCT)
Lớp 12A1: Tổ chức dạy học với bản đồ tư duy
	Lớp 12A2: Có 1 phần tổ chức dạy học với bản đồ tư duy (phần địa lí dân cư)
	Kết quả bài kiểm tra 1 tiết giữa kì II (tiết 36 – PPCT)
Lớp
TSHS tham gia kiểm tra
TS bài dưới 5,0
Trong đó
Tổng bài đạt từ 5,0 trở lên
Trong đó
Từ 0 đến 2,5
Từ 3,0 đến 4,5
Từ 5,0 đến 6,5
Từ 7,0 đến 8,5
Từ 9,0 đến 10
12A1
34
-
-
-
34
5
19
10
100%
-
-
-
100
14,7
55,9
29,4
12A2
31
2
-
2
29
10
17
2
100%
6,5
-

Tài liệu đính kèm:

  • docgiai_phap_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_day_hoc_kieu_bai_on_ta.doc
  • docBao cao tom tat hieu qua Sk.doc
  • docBIA.doc
  • docDon de nghi cong nhan sang kien.doc
  • docmuc luc.doc