5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới:
Lâu nay, khi hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản “Tấm Cám”, giáo
viên mới chỉ chú trọng đến nội dung tư tưởng mà chưa đi sâu khai thác, chưa
làm nổi bật được các yếu tố thi pháp của truyện, trong đó có yếu tố thần kì. Dạy
như vậy là chưa đúng với đặc trưng thể loại. Chính vì vậy, đề tài là một hướng
đi mới khi tôi đề ra được giải pháp cụ thể để khai thác yếu tố thần kì khi giảng
dạy truyện cổ tích này. Bởi đó là yếu tố làm nên nét riêng độc đáo của cổ tích
thần kì. Trên cơ sở đó tạo cho các em niềm say mê hứng thú với truyện “Tấm
Cám” nói riêng và truyện cổ tích nói chung. Từ đó góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả giảng dạy.
Giải pháp đề nghị công nhận không trùng hoặc tương tự với giải pháp của
tác giả nào trước đó đã được áp dụng hoặc áp dụng thử
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng thẩm định sáng kiến ngành giáo dục Thị xã Bình Long. Tôi ghi tên dưới đây: Số TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác Chức danh Trình độ chuyên môn Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến 1 NGỌ VĂN TIẾN 16/08/1982 Trung tâm GDNN- GDTX Bình Long Giáo viên ĐHSP Ngữ văn 100% 1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Nâng cao hiệu quả dạy học văn bản “Tấm Cám” từ việc khai thác yếu tố thần kì. 2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến. 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục và Đào tạo 4. Ngày sáng kiến được áp dụng thử lần đầu: Ngày 5/10/ 2020. 5. Mô tả bản chất của sáng kiến: 5.1. Tính mới: Lâu nay, khi hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản “Tấm Cám”, giáo viên mới chỉ chú trọng đến nội dung tư tưởng mà chưa đi sâu khai thác, chưa làm nổi bật được các yếu tố thi pháp của truyện, trong đó có yếu tố thần kì. Dạy như vậy là chưa đúng với đặc trưng thể loại. Chính vì vậy, đề tài là một hướng đi mới khi tôi đề ra được giải pháp cụ thể để khai thác yếu tố thần kì khi giảng dạy truyện cổ tích này. Bởi đó là yếu tố làm nên nét riêng độc đáo của cổ tích thần kì. Trên cơ sở đó tạo cho các em niềm say mê hứng thú với truyện “Tấm 2 Cám” nói riêng và truyện cổ tích nói chung. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy. Giải pháp đề nghị công nhận không trùng hoặc tương tự với giải pháp của tác giả nào trước đó đã được áp dụng hoặc áp dụng thử. 5.2. Nội dung sáng kiến: Để áp dụng sáng kiến, tôi đã thực hiện giải pháp như sau: Thứ nhất: Làm nổi bật yếu tố thần kì thông qua phương pháp kể sáng tạo. Lâu nay, khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm văn học, giáo viên thường yêu cầu học sinh đọc ở nhà hoặc đọc trên lớp. Con đường đến với tác phẩm văn chương nhất thiết phải từ đọc, hơn nữa phải gắn với việc đọc. Đọc là một hình thức hoạt động có tính đặc thù của nhận thức về văn học. Thế nhưng, trong giờ dạy truyện cổ tích, giáo viên không chỉ dừng lại ở việc cho học sinh đọc. Dạy cổ tích, giáo viên phải hướng dẫn học sinh kể được tác phẩm một cách sáng tạo. Bởi “kể” là đặc điểm cơ bản tiêu biểu của cổ tích. Nó xuất phát từ đặc trưng chung của văn học dân gian là tính truyền miệng, song nó cũng xuất phát từ những đặc điểm riêng của truyện cổ tích. Đặc điểm truyện cổ tích được xây dựng phù hợp với hình thức kể: tính cách nhân vật cổ tích khá đơn giản, cốt truyện phát triển theo trình tự thời gian, sự lặp lại kết cấu và môtíp, nội dung phản ánh gần gũi cuộc sống con người. Kể sáng tạo truyện cổ tích được giải quyết ở hai góc độ. Một là, vẫn giữ nguyên nội dung cốt truyện. Dựa vào thi pháp truyện để kể, căn cứ vào những biến đổi của truyện để sáng tạo trong hoạt động kể. Hai là, kể sáng tạo truyện cổ tích làm thay đổi nội dung cốt truyện, sản sinh truyện cổ tích mới. Hoạt động kể sáng tạo của học sinh chú trọng vào cách thức thứ nhất. Bởi cổ tích là của nhân dân và được sáng tác tiếp theo thời gian, nên học sinh có quyền tham gia quá trình đó bằng hoạt động kể sáng tạo của mình. Kể sáng tạo quan tâm đến cử chỉ, động tác, giọng nói, tác phong, ngôn ngữ, vẻ mặt của người kể sao cho phù hợp, 3 không thừa thãi, gượng ép. Cụ thể, khi dạy học truyện cổ tích “Tấm Cám”, để khai thác được yếu tố thần kì nhằm tạo hứng thú cho học viên khi học văn bản thì tôi đã làm như sau: Trước khi học văn bản, tôi yêu cầu học viên đọc và chuẩn bị trước ở nhà. Lần đọc này chính là bước làm quen đầu tiên đối với tác phẩm của các em bằng hứng thú tự nhiên. Những cảm xúc ban đầu sẽ có khả năng gợi liên tưởng, tưởng tượng, giúp học viên thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó các em sẽ trả lời tốt hơn những câu hỏi ở phần hướng dẫn học bài – đây là tiền đề cần thiết của giờ học đạt hiệu quả cao ở trên lớp. Khi tiến hành hướng dẫn học viên đọc hiểu văn bản thì tôi yêu cầu một học viên kể sáng tạo lại truyện cổ tích “Tấm Cám” thông qua một số tình tiết quan trọng có liên quan đến yếu tố thần kì. Khi kể cần chú ý giọng kể sao cho phù hợp và biểu cảm. Cụ thể như sau: - Khi kể giọng của Bụt thì kể với giọng hiền từ, nhân hậu: “Con làm sao lại khóc”; “Thôi con nín đi! Con thử nhìn vào giỏ xem còn gì nữa không?”; ... - Khi kể giọng của Tấm lúc gọi bống lên ăn cơm thì kể với giọng dịu dàng, trìu mến, thân thương: Bống bống, bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người - Giọng con gà phải kể với giọng rõ ràng, dứt khoát: “Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!”. - Giọng của Tấm khi sai đàn chim sẻ xuống nhặt thóc phải thể hiện sự mạnh mẽ, đe dọa: Rặt rặt xuống nhặt cho tao Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết - Lời của Tấm khi hóa thân thì phải kể với âm điệu dứt khoát thể hiện ý đe dọa, cảnh cáo: Khi hóa thân thành vàng anh: “ Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, 4 chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”. Khi hóa thân thành khung cửi: Cót ca cót két, Lấy tranh chồng chị, Chị khoét mắt ra. - Khi kể lời của nhà Vua nói với chim vàng anh và lời bà cụ bán hàng với quả thị thì giọng điệu phải tha thiết, dịu dàng, chân thành: Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo. Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn. Như vậy, kể vừa thích hợp với đặc trưng loại hình truyện cổ tích, vừa có tác dụng cực kì quan trọng là gợi được không khí diễn xướng vốn là đặc trưng cho hoạt động thông tin và tiếp nhận của sáng tác dân gian. Qua biện pháp kể sáng tạo, giáo viên có thể đánh giá được năng lực cảm, hiểu tác phẩm của học viên. Đồng thời kể sáng tạo làm yếu tố thần kì – một đặc trưng nổi bật của cổ tích thần kì - được phát huy và giúp khơi gợi, phát triển trí tưởng tượng phong phú, khích thích hứng thú ở các em trong quá trình học văn bản này. Thứ hai: Khai thác yếu tố thần kì thông qua những câu hỏi gợi mở và câu hỏi cảm thụ. Dạy học văn là một hoạt động gợi mở, dẫn dắt, định hướng học viên để từng bước chiếm lĩnh nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Trọng tâm của hoạt động này là việc xây dựng hệ thống câu hỏi có tính gợi mở, kích thích sự tìm tòi khám phá, tranh luận, làm sống dậy ở mỗi học viên sức liên tưởng, so sánh, suy luận,Những câu hỏi được sử dụng là những câu hỏi có ý nghĩa gợi ý, dẫn dắt học viên tự chiếm lĩnh dần tác phẩm. Muốn vậy giáo viên phải xác định được một hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó, từ tái hiện đến phát hiện, từ tìm tòi đến suy luận, khái quát. 5 Khi dạy học truyện “Tấm Cám”, tôi đã dẫn dắt, gợi mở cho học viên khám phá tác phẩm thông qua các yếu tố thần kì bằng những câu hỏi sau: - Khi nhân vật chính trong truyện cổ tích thần kì gặp khó khăn thì yếu tố gì xuất hiện? Sau khi học viên trả lời, giáo viên định hướng: Trong truyện cổ tích thần kì, khi nhân vật chính gặp khó khăn thì yếu tố thần kì xuất hiện . Tiếp theo đó, giáo viên đặt câu hỏi: Em hiểu thế nào là yếu tố thần kì và biểu hiện của nó? Bằng câu hỏi này, giáo viên đã dẫn dắt học viên đi sâu khai thác, tìm hiểu về yếu tố thần kì. Sau học viên trả lời, giáo viên định hướng: Yếu tố thần kì là những yếu tố siêu nhiên do trí tưởng tượng của con người sáng tạo nên. Yếu tố thần kì bao gồm: nhân vật thần kì như Tiên, Bụt,..; con vật thần kì như ngựa thần, chim thần, con gà biết nói,..; đồ vật thần kì: khăn thần, mâm thần,...và sự hóa thân của nhân vật. Tương tự, giáo viên có thể đặt câu hỏi: Trong truyện “Tấm Cám” có những yếu tố thần kì nào? Tại sao con đường đến với hạnh phúc của nhân vật Tấm phải có sự giúp đỡ của yếu tố thần kì? Ở vế thứ 2 của câu hỏi, giáo viên có thể hỏi sau khi học viên hoàn thành xong vế thứ nhất. Sau khi học viên trả lời, giáo viên định hướng: Các yếu tố thần kì trong truyện “Tấm cám” bao gồm: Ông Bụt, con gà, đàn chim sẻ và sự hóa thân của nhân vật Tấm. Con đường đến với hạnh phúc của nhân vật Tấm nhất thiết phải có sự giúp đỡ của yếu tố thần kì. Bởi lẽ, con đường đến với hạnh phúc của nhân vật thiện chính là xu hướng giải quyết mâu thuẫn đặc biệt của truyện cổ tích. Trong xã hội xưa, khi sự áp bức bất công vẫn còn là phổ biến, khi những đau khổ của con người mồ côi là có thực thì hạnh phúc mà họ được hưởng thường hiếm hoi và phần lớn chỉ là mơ ước. Để tạo nên một hiện thực như mơ ước ấy không thể không sử dụng yếu tố thần kì. Không chỉ sử dụng câu hỏi gợi mở, giáo viên có thể kết hợp với câu hỏi 6 cảm thụ ở từng mức độ khác nhau. Câu hỏi cảm thụ góp phần rất quan trọng trong việc hình thành khả năng tự chiếm lĩnh tri thức của học viên, giúp các em cảm nhận được những cái hay, cái đẹp trong tác phẩm. Với truyện “Tấm Cám”, trong qua trình dạy học, giáo viên muốn khơi gợi được những cảm xúc của học viên, phát huy được năng lực tư duy của các em cần phải đặt ra những câu hỏi cảm thụ. Trên cơ sở những câu hỏi cảm thụ này, yếu tố thần kì sẽ được khai thác, và do đó những giá trị độc đáo về nội dung và nghệ thuật sẽ được bộc lộ rõ ràng. Khi hướng dẫn học viên tìm hiểu về thân phận bất hạnh và con đường đến với hạnh phúc của Tấm, tôi đã sử dụng câu hỏi: Theo em, yếu tố thần kì có vai trò như thế nào đối với con đường đến với hạnh phúc của Tấm? Sau khi học viên trả lời, giáo viên định hướng: Các yếu tố thần kì có vai trò hết sức quan trọng trên con đường đến với hạnh phúc của Tấm. Ông Bụt, con gà, đàn chim sẻ là những yếu tố thần kì đã giúp Tấm đến được hạnh phúc của mình. Ông Bụt là nhân vật tôn giáo đã được dân gian hóa trở thành ông lão hiền lành, tốt bụng, xuất hiện đúng lúc để thực hiện mơ ước của nhân dân. Ông là nhân vật phù trợ, xuất hiện giúp nhân vật chính giải quyết khó khăn, thúc đẩy cốt truyện phát triển. Về ý nghĩa xã hội thì Bụt đền bù những thiệt thòi mà Tấm phải chịu, đóng vai trò tạo thêm sức mạnh cho Tấm đi đến thắng lợi sau này. Còn con gà thì giúp Tấm tìm thấy xương cá bống. Đàn chim sẻ giúp Tấm nhặt thóc ra khỏi gạo trộn. Có thể nói, tất cả các yếu tố thần kì đã giúp Tấm và đưa Tấm đạt tới đỉnh cao của hạnh phúc. Đồng thời nó cũng tạo ra một kết thúc có hậu, thể hiện triết lí sống “ở hiền gặp lành” trong tư tưởng nhân dân. Khi hướng dẫn học viên tìm hiểu về cuộc đấu tranh gian nan, quyết liệt để giành và giữ hạnh phúc của Tấm, tôi đã sử dụng các câu hỏi sau: Câu hỏi 1: Theo em, vai trò của yếu tố thần kì đối với con đường giành và giữ hạnh phúc của Tấm có gì khác trước? 7 Sau khi học viên trả lời, giáo viên định hướng: Nếu ở chặng đầu, khi Tấm chưa trở thành hoàng hậu thì mỗi lần Tấm khóc, Bụt lại hiện lên giúp đỡ, ban tặng những vật thần kì. Còn từ sau khi Tấm trở thành hoàn hậu và chết thì Bụt không xuất hiện nữa. Tấm cũng không khóc mà đấu tranh quyết liệt. Yếu tố thần kì đã được hóa thân vào sự bất tử của Tấm. Tấm chết biến thành vàng anh để mắng Cám, hóa cây xoan đào, khung cửi để rủa và tuyên chiến với Cám, hóa ra cây thị (quả thị) để trở về với cuộc đời. Như vậy yếu tố thần kì không thay Tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi Tấm hóa thân để trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn. Câu hỏi 2: Từ yếu tố thần kì, em có nhận thức như thế nào về triết lí nhân sinh, quan niệm và mơ ước của nhân dân gửi gắm trong truyện? Sau khi học viên trả lời, giáo viên định hướng: Sau nhiều lần hóa thân, Tấm trở về với cuộc đời, trở thành hoàng hậu và càng xinh đẹp hơn xưa. Còn mẹ con Cám thì bị tiêu diệt. Điều này phản ánh sâu sắc tư tưởng của nhân dân: cái thiện phải chiến thắng và cái ác phải bị trừng trị thích đáng, thể hiện triết lí sống “ở hiền gặp lành”. Đồng thời nó cũng cho thấy mơ ước của nhân dân về một xã hội công bằng: người lương thiện phải được hưởng hạnh phúc, kẻ ác nhất định phải bị trừng phạt. Khi sử dụng câu hỏi cảm thụ, giáo viên cần lưu ý: Có thể kết hợp sử dụng câu hỏi cảm thụ với câu hỏi gợi mở để quá trình chiếm lĩnh tri thức của học viên được thực hiện từ dễ đến khó. Trên cơ sở đó phát huy được năng lực tư duy và hứng thú cho các em. Thứ ba: Sử dụng phương pháp so sánh. Trong nghiên cứu phê bình văn học hay khi dạy học tác phẩm văn chương, so sánh là một phương pháp được dùng khá phổ biến. So sánh sẽ giúp học viên mở rộng khắc sâu kiến thức văn học cho chính bản thân mình, thấy được những nét chung, nét riêng, sự kế thừa phát triển, đặc biệt là những dấu ấn sáng tạo của từng tác giả trong mỗi tác phẩm. Việc hướng dẫn và rèn luyện cho học viên so sánh khi dạy học tác phẩm văn chương cũng góp phần phát triển tư duy cho các 8 em, làm cho sự đánh giá tác phẩm của các em ngày càng trở nên tinh tế, nhạy bén. Khi dạy truyện “Tấm Cám”, để làm nổi bật yếu tố thần kì, giáo viên thể tiến hành so sánh hoặc gợi dẫn cho học viên so sánh rồi nhận xét. Giáo viên có thể lồng vào quá trình tìm hiểu tác phẩm hoặc đặt ra cho học viên tìm hiểu ở nhà. So sánh phải làm sao để khắc sâu kiến thức, mở rộng hiểu biết cho học viên. Cụ thể, tôi đã sử dụng hai cách so sánh như sau: Cách thứ nhất: So sánh với những truyện cổ tích thần kì khác. Tôi hướng dẫn học viên so sánh sự biến hóa của Tấm với sự biến hóa của Sọ Dừa trong truyện “Sọ dừa” và nàng Cóc trong truyện “Nàng tiên cóc”. Cùng giống nhau ở sự biến hóa thần kì nhưng sự biến hóa ở Sọ Dừa, nàng Cóc khác hẳn sự biến hóa của Tấm. Sọ Dừa biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, nàng Cóc thì trở thành một cô gái xinh đẹp. Cả hai biến hóa để hưởng hạnh phúc ở đời. Còn Tấm biến hóa để đấu tranh giành lại hạnh phúc ở cuộc đời. Cách thứ hai: So sánh trong cùng tác phẩm. Tôi hướng dẫn học viên so sánh vai trò của yếu tố thần kì ở trước và sau khi Tấm bị chết. Trước khi Tấm bị dì ghẻ hãm hại, yếu tố thần kì đã giúp và đưa Tấm đạt tới đỉnh cao của hạnh phúc. Mỗi khi Tấm gặp khó khăn thì yếu tố thần kì lại xuất hiện kịp thời, trợ giúp. Còn từ sau khi Tấm chết, yếu tố thần kì đã được hóa thân vào sự bất tử của Tấm. Yếu tố thần kì không thay Tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nới Tấm hóa thân để trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn. Như vậy, khi sử dụng phương pháp so sánh thì yếu tố thần kì được làm nổi bật. Các em rất say mê, hứng thú trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Tiết học vì thế cũng trở nên rất sinh động. 5.3. Về khả năng áp dụng của sáng kiến: Giải pháp nêu trên đã được tôi áp dụng và mang lại hiệu quả thiết thực tại đơn vị. Nhờ cách khai thác yếu tố thần kì mà khi dạy truyện “Tấm Cám”, tôi nhận thấy: 9 - Học viên rất hứng thú và chủ động trong quá trình tìm hiểu và chiếm lĩnh tác phẩm; các em hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài; không khí học tập sôi nổi; giờ học sinh động. - Khai thác yếu tố thần kì khi dạy truyện “Tấm Cám” giúp học viên khắc sâu kiến thức và nâng cao hiểu biết của mình. - Từ đó, các em yêu thích truyện cổ tích nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói chung. Ngoài ra, từ việc tìm ra những phương pháp thích hợp để dạy học truyện “Tấm Cám” thành công, sáng kiến còn mở ra những hướng tiếp cận, những phương pháp có tính khả thi trong việc vận dụng vào dạy học các tác phẩm khác có ảnh hưởng của yếu tố thần kì trong chương trình Ngữ văn THCS và THPT. 6. Những thông tin cần bảo mật: Không có. 7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Về phía giáo viên: Phải chuẩn bị bài chu đáo; biết sử dụng máy chiếu và phần mềm Powerpoint. - Về phía học viên: Đọc bài và chuẩn bị bài trước ở nhà; sẵn sàng đón nhận những phương pháp mà giáo viên áp dụng. - Về phía nhà trường: Tạo điều kiện ưu tiên giáo viên sử dụng phòng máy. 8. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến: Năm học 2020 – 2021, khi áp dụng sáng kiến để dạy văn bản “Tấm Cám”, tôi đã chọn lớp 10A là lớp thực nghiệm, lớp 10E là lớp đối chứng. Khảo sát mức độ hứng thú của học viên hai lớp, tôi thu được kết quả như sau: Lớp Số HV khảo Mức độ Rất hứng thú Hứng thú Ít hứng thú Không hứng thú 10 sát Số HV Tỉ lệ Số HV Tỉ lệ Số HV Tỉ lệ Số HV Tỉ lệ 10E 43 10 23,3% 17 39,5% 9 20,9% 7 16,3% 10A 51 20 39,2% 23 45,1% 5 9,8% 3 5,9% Tổng hợp Tăng 10HV Tăng 15,9% Tăng 6 HV Tăng 5,6% Giảm 4 HV Giảm 11,1% Giảm 4HV Giảm 10,4% Như vậy, so sánh bảng số liệu có thể thấy khi áp dụng sáng kiến thì số học viên hứng thú và rất hứng thú chiếm tỉ lệ rất cao (84,3%), tăng 21,5% so với không áp dụng; còn tỉ lệ học viên ít hứng thú và không hứng thú chiếm tỉ lệ rất ít (15,7%), giảm 21,5% so với không áp dụng. Từ sự hứng thú khi học truyện “Tấm Cám”, học viên trở nên yêu thích truyện cổ tích hơn. Khảo sát tình cảm của học viên với truyện cổ tích, tôi thu được kết quả sau: Lớp Số HV khảo sát Yêu thích truyện cổ tích Không yêu thích truyện cổ tích 10E 43 HV 24 HV (55,8%) 19 HV (44,2%) 10A 51 HV 46 HV (90,2%) 5 HV (9,8%) Tổng hợp Tăng 22 HV (34,4%) Giảm 14 HV (34,4%) Bảng số liệu trên cho thấy số học viên yêu thích truyện cổ tích chiếm tỉ lệ cao (90,2%), tăng 34,4%; còn số học viên không thích chỉ có 9,8%, giảm 34,4%. Khi áp dụng sáng kiến vào giảng dạy, mức độ hiểu bài của học viên cũng tăng lên. Để đánh giá mức độ hiểu bài của học viên, tôi dùng đề kiểm tra khảo sát dưới hình thức trắc nghiệm trong thời gian 5 phút. So sánh lớp thực nghiệm và lớp đối chứng, tôi thu được kết quả sau: 11 Đối tượng Xếp loại Lớp 10 E 43 bài Lớp 10A 51 bài Kết quả so sánh Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Tăng > Giảm < Số lượng Tỉ lệ Giỏi 1 2,3% 4 7,8% > 3 5,5% Khá 5 11,6% 7 13,7% > 2 2,1% TB 20 46,5% 29 56,9% > 9 10,4% Yếu 14 32,6% 10 19,6% < 4 13% Kém 3 7% 1 2% < 2 5% Qua bảng số liệu, có thể thấy rõ: Đối với lớp áp dụng sáng kiến thì tỉ lệ điểm giỏi, khá, trung bình đều tăng còn điểm yếu, kém thì giảm xuống rõ rệt. Nhất là khi tôi thống kê điểm kiểm tra cuối kì (đề ra trong văn bản “Tấm Cám”) thì kết quả cũng tương tự. Đặc biệt, không còn học viên có điểm kém. Đối tượng Xếp loại Lớp 10 E 43 bài Lớp 10A 51 bài Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Giỏi 0 0% 1 2 % Khá 7 16,3% 11 21,6% TB 23 53,5% 32 62,7% Yếu 12 27,9% 7 13,7% 12 Kém 1 2,3% 0 0% 9. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử: Nhận xét, đánh giá của Hội đồng sáng kiến Trung tâm GDNN-GDTX Bình Long: Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Bình Long, ngày 20 tháng 02 năm 2021 Người nộp đơn Ngọ Văn Tiến 13
Tài liệu đính kèm: