II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến
- Giáo án là một công cụ, phương tiện không thể thiếu của người giáo
viên khi lên lớp. Thế nhưng trên thực tế vẫn có những giáo viên nghĩ rằng: sách
tham khảo, sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng. nhiều, nên không cần coi
trọng khâu soạn bài, giáo án lên lớp chỉ là hình thức. Theo tôi thì ngược lại.
Người GV lên lớp dứt khoát phải có giáo án - giáo án do chính bản thân người
thầy soạn thảo. Bởi giáo án không chỉ chứa đựng kiến thức, mà nó còn thể hiện
sự lựa chọn kiến thức. Ngoài ra, nó còn chứa sự nghiên cứu, tìm tòi, suy nghĩ
của giáo viên (GV) về những phương pháp, biện pháp, những gợi ý, định hướng
dẫn dắt học sinh (HS). trong quá trình dạy - học một cách đầy đủ, trọn vẹn và
hệ thống nhất. Giáo án là sự thể hiện kế hoạch hoá quá trình giảng dạy của GV
trên lớp. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức về vai trò của giáo án là rất quan trọng
và cần thiết đối với người GV, đặc biệt là GV dạy Ngữ văn, nhằm nâng cao hiệu
quả giờ dạy trên lớp. Thông qua giáo án, ta dễ dàng thấy rõ năng lực, trình độ
của người soạn: người ấy đã thành thạo đến đâu, còn lúng túng ở khâu nào, phần
nào trong quá trình lên lớp ở một bài cụ thể. Có thể nói: giáo án là một phương
tiện giao tiếp để đánh giá người dạy.
ên nghĩ rằng: sách tham khảo, sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng... nhiều, nên không cần coi trọng khâu soạn bài, giáo án lên lớp chỉ là hình thức. Theo tôi thì ngược lại. 2 Người GV lên lớp dứt khoát phải có giáo án - giáo án do chính bản thân người thầy soạn thảo. Bởi giáo án không chỉ chứa đựng kiến thức, mà nó còn thể hiện sự lựa chọn kiến thức. Ngoài ra, nó còn chứa sự nghiên cứu, tìm tòi, suy nghĩ của giáo viên (GV) về những phương pháp, biện pháp, những gợi ý, định hướng dẫn dắt học sinh (HS)... trong quá trình dạy - học một cách đầy đủ, trọn vẹn và hệ thống nhất. Giáo án là sự thể hiện kế hoạch hoá quá trình giảng dạy của GV trên lớp. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức về vai trò của giáo án là rất quan trọng và cần thiết đối với người GV, đặc biệt là GV dạy Ngữ văn, nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy trên lớp. Thông qua giáo án, ta dễ dàng thấy rõ năng lực, trình độ của người soạn: người ấy đã thành thạo đến đâu, còn lúng túng ở khâu nào, phần nào trong quá trình lên lớp ở một bài cụ thể. Có thể nói: giáo án là một phương tiện giao tiếp để đánh giá người dạy. - Ngoài ra, để có giờ dạy văn tốt theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, người GV phải vất vả hơn nhiều trong việc thiết kế và điều hành giờ Đọc - Hiểu văn bản. Mỗi GV chúng ta không ai muốn mình chỉ có một giờ dạy tốt, mà ai cũng muốn rằng tất cả các giờ lên lớp của mình đều thành công và đó là một sự cố gắng rất lớn. Chính GV phải thực sự chủ động, sáng tạo thì mới có thể khơi dậy được sự hoạt động tích cực, sáng tạo của mọi HS trong lớp. Bởi vì mỗi tác phẩm văn chương được lựa chọn đưa vào chương trình học đều là một sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Mỗi cá nhân HS lại là một chủ thể tiếp nhận cá biệt, nên sự áp đặt cách hiểu, cách cảm nhận của GV với HS là chưa đúng với bản chất dạy và học. Như vậy, để có giờ Đọc - Hiểu văn bản theo đúng tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, GV phải chuẩn bị chu đáo hoàn chỉnh một thiết kế giờ dạy trong giáo án trước khi lên lớp. - Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp Soạn- giảng văn bản thơ Việt Nam hiện đại trong giờ dạy thơ lớp 8a2 qua bài Quê hương- Tế Hanh ở Trường THCS Thị Trấn”. với mong muốn vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm đã học tập và tích luỹ được vào thực tiễn giảng dạy phần Đọc - Hiểu văn bản phần thơ lớp 8A2 ở trường THCS Thị Trấn. 2. Phạm vi triển khai thực hiện : 3 Giáo viên và học sinh lớp 8A2 của trường THCS Thị Trấn năm học 2019- 2020. 3.Mô tả sáng kiến a.Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến *Hiện trạng - Tại đơn vị trường THCS Thị Trấn, BGH đã căn cứ vào công văn hướng dẫn của PGD lên kế hoạch chi tiết, định hướng giao nhiệm vụ cho từng bộ môn ngay từ đầu năm, trong năm học này BGH đã giao nhiệm vụ cho tất cả giáo viên phải biết đổi mới và vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng dạy và học của phân môn trong bộ môn học mình đảm nhận. - Môn Ngữ văn THCS, phần Đọc- hiểu văn bản (Văn bản Việt Nam hiện đại) gồm 2 loại: phần thơ và phần truyện, kí. Soạn- giảng phần đọc- hiểu đối với 2 loại này phần truyện, kí sẽ dễ dàng thiết kế hơn so với phần thơ. Quá trình tiếp nhận kiến thức của học sinh ở 2 thể loại này cũng khác nhau, các em thường thích truyện, kí hơn thơ. Do vậy mà năng lực cảm thụ và tiếp nhận kiến thức của HS ở phần truyện, kí tốt hơn phần thơ. - Học sinh lớp 8A2 bên cạnh những em có năng khiếu về phần thơ Việt Nam hiện đại (VNHĐ), có khả năng cảm thụ và say mê phần thơ (VNHĐ) thì vẫn còn rất nhiều học sinh chưa tự giác trong học tập, không thích thơ, không cảm thụ được thơ (VNHĐ) dẫn đến không hiểu bài, không hiểu hết giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ (VNHĐ). - Giáo viên đôi khi còn lúng túng về phương pháp, chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học phần thơ (VNHĐ) cũng như các biện pháp tổ chức dạy học, nhằm gây hứng thú cho học sinh, chưa sử dụng triệt để các phương tiện dạy học như: bảng phụ, tranh ảnh minh hoạ, máy chiếu. Trong khi đó có một số bài thơ (VNHĐ) nếu học sinh được xem tranh minh họa hay hình ảnh của máy chiếu sẽ làm cho bài giảng hay hấp dẫn và sinh động hơn nhiều. * Ưu điểm của giải pháp cũ: 4 - Giáo viên đã đầu tư thời gian nghiên cứu soạn- giảng cho những bài thơ (VNHĐ) trước khi lên lớp để có một bài giảng tốt nhất giúp cho học sinh tiếp cận kiến thức dễ dàng nhất. - Việc sử dụng thiết bị dạy học và kết hợp các phương pháp dạy học trong giờ giảng đã được thực hiện. - Học sinh đã bước đầu tiếp cận được kiến thức những bài thơ (VNHĐ). *Hạn chế của giải pháp cũ : - Tuy đã đầu tư thời gian soạn giảng nhưng đa số các tiết học vẫn đơn điệu, hầu như chỉ truyền thụ đủ kiến thức của bài, chưa quan tâm đến sự sinh động của bài dạy dẫn đến tiết học không gây được hứng thú cho học sinh. Từ đó học sinh không có hứng thú với các bài thơ (VNHĐ). - Học sinh tiếp thu bài học chậm, không hào hứng. Các hoạt động nhóm diễn ra trong tiết học tẻ nhạt, hình thức. - Chính vì những hạn chế trên mà chất lượng của phần thơ (VNHĐ) lớp 8A2 của nhà trường còn chưa cao, tỷ lệ học sinh học giỏi, khá ở phần này còn ít. Tại thời điểm tháng 9 năm 2019 chất lượng khảo sát đạt được như sau: Bảng thống kê số liệu chất lượng thời điểm tháng 9/ 2019: Năm học Lớp 8A2/ Số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu Tháng 9/ 2019 40 3= 7,5% 10= 25% 17= 42,5% 10= 25% b.Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến * Tính mới - Giáo viên đã vận dụng khá linh hoạt các phương pháp trong các giờ dạy phần thơ (VNHĐ). Biết biến giờ học phần thơ (VNHĐ) sinh động hơn bằng cách sử dụng triệt để các phương tiện dạy học hỗ trợ như: bảng phụ, tranh ảnh minh hoạ, máy chiếu, đặc biệt phần thiết kế bài giảng có sự phân hóa rõ ràng để phù hợp hơn với từng đối tượng học sinh trong lớp. 5 - Học sinh lớp 8A2 đã hứng thú hơn với giờ học phần thơ (VNHĐ) mà trước đây các em không thích. * Cách thức thực hiện : Phần thứ nhất: Quy trình tiến hành một giờ Đọc- hiểu văn bản thơ (VNHĐ). I. HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ (Soạn giáo án): GV xác định những nội dung và kỹ năng cơ bản của bài giảng, nắm được trình độ HS, từ đó dự kiến các phương pháp dạy - học nhằm tổ chức hoạt động học tập của HS theo hướng chủ động, tích cực. II. HOẠT ĐỘNG TRÊN LỚP: Bước 1: GV hướng dẫn HS đọc bài thơ (VNHĐ). - Đối với học sinh THCS, năng lực cảm thụ thơ (VNHĐ) chưa có định hướng ổn định; vốn kiến thức ngôn ngữ, đặc biệt là hiểu nghĩa các từ khó... còn hạn chế, nên hoạt động này rất quan trọng. - Tuỳ theo dộ dài ngắn của mỗi bài thơ mà cho HS đọc từng phần hay toàn bài. Yêu cầu chung của bước này là qua âm vang ngôn ngữ, giúp HS có thể phần nào hiểu và cảm nhận được âm hưởng chung bao trùm toàn bài thơ, giúp các em thâm nhập vào thế giới hình tượng và mạch cảm xúc của bài. Bước 2: GV hướng dẫn HS tìm hiểu văn bản thơ (VNHĐ). Ta có thể chia bước này thành những bước nhỏ sau: - Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của bài thơ: Tức là xem xét bài thơ nằm ở vị trí nào trong sự nghiệp sáng tác của tác giả, trong trào lưu văn học, giai đoạn văn học, giai đoạn lịch sử... nào (đây là những vấn đề có ý nghĩa và liên quan trực tiếp tới sự ra đời của tác phẩm). - Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ: GV hướng dẫn HS tìm hiểu bằng cách tổ chức dẫn dắt, nêu vấn đề và hướng giải quyết vấn đề. Ở đây, hệ thống câu hỏi đóng vai trò hết sức quan trọng. Vấn đề cần quan tâm là: hỏi gì? hỏi như thế nào? hỏi lúc nào?... Cũng như 6 việc sử dụng kết hợp các phương pháp, phương tiện dạy học như thế nào cho đúng lúc, đúng chỗ để tạo nên hiệu quả cao cho giờ Đọc - Hiểu văn bản. Yêu cầu chung của bước này là GV phải tổ chức dẫn dắt HS chủ động, tích cực học tập, tìm hiểu thâm nhập văn bản thơ, tạo cho các em được suy nghĩ, được hoạt động, được nói nhiều hơn, tránh sự tích cực giả tạo hay học tập thụ động trong các giờ dạy - học thơ. Bước 3: GV hướng dẫn HS luyện tập, củng cố, nâng cao sự hiểu biết và cảm nhận về các giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ (VNHĐ). Đây là hoạt động không thể thiếu trong giờ Đọc - Hiểu văn bản ở trường THCS Thị Trấn, vì khả năng khái quát, tổng hợp của nhiều em trong lớp 8a2 còn hạn chế. Hiện nay, hoạt động này thường được nhiều GV đưa vào phần tổng kết chung, còn HS chỉ nghe và ghi chép. Vì vậy về hướng đổi mới phương pháp, GV có thể hướng dẫn HS tự đúc kết, khái quát bằng hệ thống câu hỏi có tính gợi mở, dẫn dắt. Và tất nhiên, không thể bỏ qua việc tổng kết khái quát của GV về chủ đề tư tưởng, giá trị nghệ thuật, ý nghĩa giáo dục của bài thơ. Để kiến thức phần này được khắc sâu thêm, GV nên sử dụng một số bài tập trắc nghiệm ứng dụng hay bài tập viết một đoạn văn cảm nhận ngắn, để vừa kiểm tra được kiến thức vừa đánh giá được năng lực cảm thụ thơ (VNHĐ) của HS. Phần thứ hai: Thiết kế quá trình dạy và học tác phẩm “Quê hương” của Tế Hanh. Bước 1: Con đường thâm nhập vào giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng của bài thơ: 1. Tìm đề tài (nhan đề). Hơn một lần, cả trong thơ và trong những bài trả lời phỏng vấn của bạn văn, Tế Hanh nhắc đến lời đề từ ấy. Xin trích một đoạn điển hình: "Tôi đến với thi ca khá sớm. Cha tôi là một nhà nho (...) Ông thường đọc cho tôi nghe những bài thơ chữ Hán của các nhà thơ đời Đường và của ông cha ta trước kia, dù không hiểu gì mấy nhưng tôi vẫn thấy hay. Ngoài ra, cha tôi còn làm nhiều bài thơ chữ Nôm. Tôi nhớ nhất là bài tả cảnh quê nhà, trong đó có hai câu mà tôi rất 7 thích: Chim bay dọc biển đem tin cá/ Nhà ở kề sân, sát mái nhà. Khi làm bài thơ Quê hương vào năm 1939, tôi đã lấy câu thơ của cha tôi làm tiêu đề.". 2. Tìm chủ đề tư tưởng: Bài Quê hương viết trong xa cách, trong nỗi niềm da diết nhớ quê. Nỗi nhớ quê gắn liền với nỗi nhớ gia đình và người thân, đặc biệt là nỗi nhớ người cha thích cảm tác và ngâm vịnh văn chương. Không bắt đầu từ những gì gắn bó nhất, thân thuộc nhất, máu thịt nhất. Nói theo cách của các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học thì ở đây chính lời đề từ đã "khơi nguồn cảm hứng cho tác giả trong quá trình sáng tạo". Bài thơ " Quê hương' của Tế Hanh là lời giãi bày chân thật của nhà thơ về tình yêu quê hương của mình, đồng thời cũng bày tỏ niềm tự hào về những con người lao động cần cù, chăm chỉ của quê hương. Nhận xét về tác phẩm, có ý kiến cho rằng : " Dù viết chủ đề không mới nhưng nhà thơ đã tạo nên nhiều điều hấp dẫn, mới mẻ .", điều đó đã tạo nên chủ đề tư tưởng mang tính chiều sâu độc đáo của bài thơ. 3. Quá trình suy nghĩ, nghiên cứu, tìm tòi để thâm nhập tác phẩm thơ "Quê hương" của người GV: 3.1. Đọc: Đọc trọn vẹn văn bản "Quê hương" trong SGK Ngữ văn 8 - Tập II, rồi đọc đến phần chú giải, phần hướng dẫn HS tìm hiểu bài. Đọc cả SGV Ngữ văn 8 - Tập II và các tư liệu có liên quan tới bài thơ,... để ngay chính người thầy phải hiểu thấu đáo được tác phẩm. 3.2. Đọc và tìm hiểu chung: Tiếp tục đọc để khắc sâu hình tượng và xác định mối quan hệ của kết cấu bên trong tác phẩm - mạch ngầm của bài thơ. Trong đó nổi bật những nội dung cơ bản của bài thơ: Bức tranh tươi sáng, sinh động của làng quê miền biển và khung cảnh lao động của người dân- Nỗi nhớ da diết và tình cảm thắm thiết của tác giả với quê hương. Và giá trị nghệ thuật đặc sắc: Thể thơ tám chữ hiện đại, phóng khoáng, dễ dàng bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc- Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói, không hoa mỹ, ước lệ- Hình ảnh so sánh, liên 8 tưởng độc đáo- Các biện pháp tu từ được sử dụng tinh tế, đặc biệt là phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. 3.3. Đọc và phân tích các yếu tố đặc sắc của tác phẩm: Cách đọc này trên cơ sở đã thuộc từ hai lần đọc trước và dừng lại ở những yếu tố có vấn đề để suy nghĩ, phân tích và tổng hợp lại, gắn kết thành mạch. Khi phân tích, GV cần định hướng phân tích từ: Bức tranh tươi sáng, sinh động của làng quê miền biển và khung cảnh lao động của người dân- Nỗi nhớ da diết và tình cảm thắm thiết của tác giả với quê hương. 3.4. Đọc và tổng hợp giá trị đích thực của bài thơ: Sau khi phân tích các yếu tố đặc sắc của tác phẩm ở bước 3.3, ta phải cắt nghĩa cho được vì sao ta lại phân tích. Đây là giai đoạn ta tạm rời tác phẩm đứng cao hơn để quay lại nhìn tác phẩm mà đánh giá. Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào "cánh buồm giương to như mảnh hồn làng"."Quê hương" - hai tiếng thân thương, quê hương - niềm tin và nỗi nhớ , trong tâm tưởng người con đất Quảng Ngãi thân yêu - Tế Hanh - đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Đó là cảm nhận của mỗi người đọc. Nó mang tính cá nhân, sự cảm nhận văn bản từ góc độ cá nhân người đọc - GV. Phần thứ 3: Thiết kế giờ dạy bài thơ “Quê hương” trên giáo án của người giáo viên. A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: Giúp HS: - Bức tranh làng quê vùng biển và tình cảm dành cho quê hương của nhà thơ. Ý nghĩa của văn bản. - Những biện pháp nghệ thuật đặc sắc của bài thơ: nhân hóa, so sánh, ẩn dụ độc đáo; lời thơ bay bổng, đầy cảm xúc. - Rèn luyện kỹ năng cảm thụ, phân tích hình ảnh thơ trong mạch vận động của tứ thơ. 9 B. CHUẨN BỊ: - GV: SGK, SGV, Thiết kế bài giảng Ngữ văn 8 và một số tư liệu liên quan đến bài thơ "Quê hương"... - HS: Đọc kỹ bài thơ "Quê hương" và soạn bài bài theo câu hỏi hướng dẫn trong SGK. C. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP: C.1. ÔN ĐỊNH TỔ CHỨC: (1 phút). C.2. KIỂM TRA BÀI CŨ: (4 phút). GV yêu cầu HS (2 em) trả lời một số câu hỏi kiểm tra kiến thức về văn bản "Ông đồ" của Vũ Đình Liên. C.3. BÀI MỚI:(40 phút) (I). HOẠT ĐỘNG 1: Đọc và tìm hiểu chung. Giới thiệu tác giả - tác phẩm. - Yêu cầu HS dựa vào chú thích *(Tr. 17) trong SGK để nêu đôi nét về nhà thơ Tế Hanh và tác phẩm "Quê hương". - GV nhấn mạnh những nét chính cho HS nắm vững và giới thiệu bổ sung để tạo hứng thú cho giờ học. Đọc, hiểu chú thích. 1. GV hướng dẫn cách đọc bài thơ -> Đọc mẫu -> Gọi 3 HS đọc -> Yêu cầu nhận xét và sửa chữa. 2. Cho HS tìm hiểu các chú thích (1)(2), (3), (4) (Tr. 17- SGK). 3. Yêu cầu HS tìm hiểu cách vận dụng thể thơ 8 chữ trong bài thơ của Tế Hanh. 4. Hướng dẫn HS tìm hiểu mạch cảm xúc về quê hương của tác giả trong bài thơ. - Bài thơ bắt đầu từ bức tranh tươi sáng, sinh động của làng quê miền biển và khung cảnh lao động của người dân đến nỗi nhớ da diết và tình cảm thắm thiết của tác giả với quê hương. 5. Phương thức biểu đạt: Trữ tình hiện đại. (Biểu cảm xen tự sự và miêu tả) 6. Trên cơ sở mạch cảm xúc, yêu cầu HS nêu bố cục của bài thơ. - Hai câu đầu (2 dòng): Giới thiệu chung về làng quê miền biển. 10 - Sáu câu tiếp (6 dòng): Cảnh lao động của người dân miền biển. - Tám câu tiếp theo (8 dòng): Cảnh người dân trở về sau một ngày lao động trên biển. - Bốn câu cuối (5 dòng): Nỗi nhớ da diết và tình cảm của tác giả với quê hương mình. (II). HOẠT ĐỘNG 2: Phân tích.. 1. Bức tranh tươi sáng, sinh động của làng quê miền biển và khung cảnh lao động của người dân. Ơ phần này, GV có thể nêu một số câu hỏi để dẫn dắt HS phân tích đúng hướng, đúng cách như: a. Giới thiệu chung về làng quê miền biển. - Tác giả đã giới thiệu về làng quê “tôi” ở qua những hình ảnh thơ nào? - Em có nhận xét gì về lời giới thiệu này? - Cách giới thiệu đó giúp em cảm nhận như thế nào về quê hương của tác giả? b. Cảnh dân chài bơi thuyền đi đánh cá. - Khung cảnh thiên nhiên khi dân chài bơi thuyền đi đánh cá được miêu tả qua hình ảnh thơ nào? - Nhà thơ tả cảnh con thuyền cùng trai tráng của làng ra khơi đánh cá qua những câu thơ nào ? - Biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong những câu thơ trên? Tác dụng của biện pháp tu từ đó? c. Cảnh thuyền cá về bến. - Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về được giới thiệu qua hình ảnh thơ nào? - Kết quả của chuyến ra khơi đánh cá của đoàn thuyền được miêu tả qua những câu thơ nào? - Câu thơ miêu tả hình ảnh con thuyền sau chuyến ra khơi trở về có gì đáng chú ý? - Những biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong các câu thơ trên? Hiệu quả của các biện pháp đó? GV cho HS suy nghĩ cá nhân và trình bày trước lớp, yêu cầu nhận xét, bổ sung. 11 *Lưu ý cần làm rõ các vấn đề cơ bản sau: - Bức tranh làng quê miền biển hiện lên yên bình, tươi sáng qua các hình ảnh “trời trong”, “gió nhẹ”, “sớm mai hồng”. - Khung cảnh lao động của người dân: + Ra khơi với điều kiện thời tiết thuận lợi và hừng hực khí thế. + Chiếc thuyền như một chiến binh dũng mãnh, được miêu tả bằng một loạt các động từ mạnh “hăng”, “phăng”, “mạnh mẽ vượt”,, thể hiện sự dũng mãnh, tràn đầy sức sống, sẵn sàng đương đầu với biển cả bao la, chinh phục thiên nhiên. + Hình ảnh cánh buồm đầy lãng mạn, thi vị khi được so sánh với “mảnh hồn làng”. Cánh buồm chính là linh hồn, là biểu tượng của người dân làng chài. - Cảnh người dân trở về sau một ngày lao động: + Khung cảnh tươi vui, nhộn nhịp của người dân khi đón một mẻ cá bội thu. + Hình ảnh người dân chài trở về sau một ngày lao động hiện lên thật đẹp. Đặc biệt, phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nồng thở vị xa xăm” đầy chất lãng mạn, thi vị khiến cho hình ảnh con người như đẹp hơn bao giờ hết. + Hình ảnh con thuyền với những động từ nhân hóa “im”, “mỏi”, “nằm”, “nghe”, khiến cho con thuyền trở nên sinh động, có hồn, như một con người thực – một người bạn gắn bó của người dân làng chài. 2. Nỗi nhớ quê hương. GV giao nhiệm vụ cho cho cả lớp: Phân tích và nêu nhận xét về nội dung cũng như nghệ thuật của bốn câu thơ cuối. Cho HS suy nghĩ, trao đổi thảo luận nhằm tìm hiểu những suy nghĩ về tình cảm của tác giả với quê hương miền biển. GV có thể dẫn dắt hoạt động thảo luận của HS bằng một số câu hỏi định hướng như: - Trong khoảng xa cách ấy, tác giả nhớ tới những điều gì nơi quê nhà? - Vì sao trong tất cả các nỗi nhớ, tác giả lại nhớ nhất là mùi mặn nồng? 12 - Em đã bao giờ đi xa chưa? Tình cảm của em đối với quê hương khi ấy như thế nào?(Cho học sinh mở rộng lien hệ) * Yêu cầu HS trả lời được các ý sau: - Màu nước xanh của biển. - Cá: màu bạc. - Thuyền: cánh buồm vôi. - Mùi biển (mùi nồng mặn. - Nỗi nhớ da diết, chân thành, giản dị, tự nhiên của một người con xa quê. - Câu thơ cuối như một lời thốt ra từ trái tim của tác giả, cái “mùi nồng mặn” ấy chính là hương vị của biển khơi, của cá tôm, của cả những người dân lao động nơi đây. Đó là thứ mùi vị đặc trưng mà có lẽ bất cứ người dân miền biển nào khi xa quê cũng đều nhớ về nó. (III). HOẠT ĐỘNG 4: Tổng kết (5 phút). - GV giao nhiệm vụ cho cả lớp suy nghĩ những vấn đề chính về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. - GV gọi 1-2 HS trả lời --> cho lớp nhận xét, rút ra ý cần tổng kết. - GV chốt và nhấn mạnh những ý cơ bản cần ghi nhớ. * Cho HS đọc phần ghi nhớ (Tr. 18 - SGK). C.4. CỦNG CỐ: (3 phút) Yêu cầu HS nêu cảm nhận về một số hình ảnh đặc sắc trong bài thơ. C.5. HƯỚNG DẪN VỀ NHÀ: (2 phút) - Hướng dẫn HS học bài "Quê hương" và làm bài tập thực hành (cảm nhận một khổ thơ trong bài mà em yêu thích). - Nhắc HS chuẩn bị Đọc - Hiểu văn bản "Khi con tu hú" của Tố Hữu. 4. Hiệu quả do sáng kiến đem lại - Giáo viên thuận lợi hơn khi giảng dạy các tác phẩm thơ (VNHĐ) ở phân môn Đọc - Hiểu văn bản, từ đó dẫn dắt HS cách cảm, cách hiểu văn học tốt hơn. Khi tiếp xúc với bất kỳ tác phẩm thơ (VNHĐ) nào. 13 - Hầu hết các em đều có ý thức cố gắng chủ động tìm hiểu, đào sâu khám phá các tầng ý nghĩa của bài thơ. Một số HS vượt ra ngoài sự mong đợi của GV, rất sáng tạo khi cảm thụ thơ. Các em đã phát hiện được những tầng ý nghĩa mới, vượt khỏi những cách hiểu thông thường, bổ sung, hoàn thiện thêm những giá trị thẩm mỹ, đem tới cho văn bản một cách hiểu mới, một giá trị mới, đô
Tài liệu đính kèm: