Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài làm văn trong chương trình Ngữ văn lớp 8 tại trường THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài làm văn trong chương trình Ngữ văn lớp 8 tại trường THCS

1.2. Cơ sở thực tiễn

Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được những bài văn

hay nhưng đó không phải là một việc dễ. Bài văn hay trước hết phải là viết đúng

(đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ nhà trường). Hay và đúng có

mối quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết phải viết theo đúng yêu cầu

của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách

Xác định đúng yêu cầu của đề bài là rất cần thiết, bước này giúp học sinh thể

hiện đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề hay lệch đề. Xác định đúng yêu cầu của

đề cũng giúp người viết lập được một dàn ý tốt và do đó cũng tránh được sự dài

dòng, lan man “dây cà ra dây muống”, “ trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” tạo được

sự thống nhất, hài hoà giữa các phần của bài viết. Bên cạnh đó việc viết đúng kiến

thức cơ bản cũng vô cùng quan trọng, kiến thức cơ bản là “bột”, “có bột mới gột

nên hồ”.

Hình thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang

giấy. Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy, chưa cần đọc

đã thấy rõ ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Muốn thế người viết không chỉ phải

chú ý đến nội dung mà hình thức cũng phải rõ ràng.

Trong thực tế dạy – học tôi thấy bài văn của học sinh mình chưa đáp ứng

được những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các em vẫn

còn hiện tượng lạc đề, lệch đề do không chú ý đến việc tìm hiểu đề. Đoạn văn trong

bài thường sai quy cách. Bên cạnh đó là việc giữa các đoạn văn chưa có sự liên kết.

Do đó tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt giúp học

sinh làm tốt bài tập làm văn. Qua thời gian tìm tòi và vận dụng, cho đến nay tôi đã

tìm được cho mình một cách làm mang lại hiệu quả cao. Trong cách làm đó vấn đề

tích hợp có vai trò rất quan trọng. Đó cũng là yêu cầu của dạy học Ngữ văn hiện

nay.

Cũng chính xuất phát từ đó tôi đã tiến hành tìm tòi nghiên cứu và vận dụng

vào thực tế giảng dạy “Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài làm văn trong

chương trình Ngữ văn lớp 8 tại trường THCS”

pdf 17 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 04/03/2022 Lượt xem 477Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài làm văn trong chương trình Ngữ văn lớp 8 tại trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 KINH NGHIỆM 
1. Thực trạng của vấn đề 
Khi nhìn vào kết quả thi đại học hàng năm ở khối D và C, nhiều người không 
khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến thực trạng của học sinh học môn Ngữ văn. Những bài 
phân tích, cảm thụ, bình giảng của các thí sinh đã làm cho các giám khảo đáng 
kính phải cười ra nước mắt và những người trực tiếp làm công tác giảng dạy phải 
rung một hồi chuông báo động trước dư luận về thực tế học sinh học Văn hiện nay. 
Đó là tình trạng học sinh viết sai lỗi chính tả quá nhiều, không phân biệt nổi L và 
N, không viết hoa tên riêng, ngay cả tên tác giả, tên nhân vật; dấu câu thì sử dụng 
tuỳ tiện, có khi cả trang giấy không có dấu chấm hay dấu phẩy, cách hành văn lủng 
củng. Còn về nội dung thi cụt lủn về ý tưởng và tư duy. Ít học sinh biết rung 
động trước một bài thơ hay, một câu văn đẹp, học sinh chưa có ý thức tự khám phá 
ra vẻ đẹp của tác phẩm mà chủ yếu là dựa trên sự cảm thụ của thầy cô giáo và phụ 
thuộc vào sách hướng dẫn, sách học tốt. Việc chuẩn bị bài soạn văn ở nhà của 
nhiều em vẫn còn sơ sài, chưa thật tự giác và thường ỷ vào các sách tham khảo. 
______________________________________________________________________________ 
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
M«n Ng÷ v¨n 8 
-4-
Học sinh học Văn vẫn quan niệm rất sai lầm Ngữ văn là môn học thuộc lòng thuần 
tuý. Vì vậy có em đã học thuộc cả một bài phân tích tác phẩm không sai một từ, 
một câu và cả dấu câu theo sách văn mẫu để chuẩn bị làm bài kiểm tra. 
 Thực trạng đau lòng ấy, rất nhiều giáo viên đã thấy và chỉ biết xót xa, buồn 
lòng mà thôi. Nguyên nhân sâu sa của vấn đề ấy là: 
- Học sinh ít đọc sách Văn học quá. Nhiều em chỉ thích đọc truyện tranh với 
nhiều quyển truyện có lời lẽ, câu cú cụt lủn, lời đối thoại trống không, chỉ mang 
tính giải trí là chính, thiếu tính giáo dục và nghệ thuật. 
- Thời đại Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, học sinh không thích tìm hiểu 
khám phá sách Văn học như thế hệ trước đây. Các em bị cuốn hút vào những trò 
chơi điện tử, mạng, khoa học công nghệ . 
- Thời kì kinh tế thị trường, học sinh có xu hướng thực dụng trong việc chọn 
nghề nghiệp, học sinh thích học khối A để ra trường dễ dàng xin việc làm hơn. 
-Ý chí học tập của nhiều học sinh chưa cao, chưa nỗ lực hết mình, ngại khó 
ngại khổ, dễ chán và chưa chăm chỉ. 
 Về phía người giáo viên, trước đây khi dạy văn tự sự cho các em, tôi mới chỉ 
giúp các em nắm bắt được những nội dung cơ bản trong sách giáo khoa. Trong quá 
trình dạy chỉ dạy tập làm văn ở những tiết học về tập làm văn, chưa tận dụng được 
thời gian ở các phân môn khác để tích hợp với phần tập làm văn. Đặc biệt chưa chú 
trọng luyện tập và ra bài tập về nhà cho các em để từ đó hình thành kĩ năng làm bài. 
Với những khó khăn như vậy, mỗi giáo viên dạy Ngữ văn phải tìm biện pháp 
giúp học sinh nắm và làm tốt bài tập làm văn. Cũng chính từ sự băn khoăn, trăn trở: 
“Làm sao giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn ?”. Qua quá trình dạy học, quá trình 
tìm tòi tôi đã có được những biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong 
chương trình Ngữ văn 8. 
Trong những biện pháp đó, việc động viên khích lệ về tinh thần cũng như vật 
chất (điểm số) là rất quan trọng. 
Sau đây tôi xin trình bày “ Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập 
làm văn trong chương trình Ngữ văn 8 ở trường THCS”. 
2. Một số giải pháp giúp học sinh học tốt phân môn tập làm văn trong nhà 
trường THCS: 
2.1. Tìm hiểu đề (hay còn gọi là phân tích đề): 
______________________________________________________________________________ 
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
M«n Ng÷ v¨n 8 
-5-
Để có một bài văn hoàn chỉnh người viết phải trải qua năm bước (Tìm hiểu 
đề, tìm ý, lập dàn ý, viết bài văn, đọc và sửa bài), trong đó tìm hiểu đề là bước thứ 
nhất. Kĩ năng tìm hiểu đề là kĩ năng định hướng cho toàn bộ quá trình thực hiện 
một bài tập làm văn. Tuy vậy đa số học sinh thường không chú ý đến bước này. Vì 
vậy trong quá trình làm bài các em thường lạc đề hoặc lệch đề nên bài văn thường 
không có điểm cao. 
Cũng chính vì lẽ đó hướng dẫn các em làm tốt bước này sẽ giúp học sinh 
tránh được việc lạc đề, lệch đề. Từ đó bài văn sẽ tốt hơn. 
Nắm được hạn chế đó của học sinh nên tôi luôn hướng dẫn học sinh thực 
hiện thao tác này và nó được lặp đi lặp lại ở mỗi bài viết cũng như trước các đề 
trong bài học. Trên cơ sở đó các em sẽ biến nó thành một kĩ năng cần thiết trước 
khi viết bài. 
Để học sinh xem tìm hiểu đề là một bước không thể thiếu khi làm bài thì 
giáo viên phải giúp các em thành thạo bước này trong quá trình dạy học. Người 
giáo viên nên tận dụng thời gian để cho các em luyện tập. 
Ví dụ: 
Như ra đề rồi yêu cầu HS về nhà thực hiện, trước các bài viết số 1, số 2, 
trong các đề có trong SGK,  
Để giúp học sinh tìm hiểu đề, trước một đề bài tôi thường yêu cầu học sinh 
đọc nhiều lần (thậm chí yêu cầu học sinh đọc thuộc đề); lấy bút chì gạch chân 
những từ cần chú ý, chép lại đề với những ý có gạch đầu dòng để làm cho nổi bật 
các yêu cầu của đề; xác định ba yêu cầu của đề. 
Kết quả của bước tìm hiểu đề phải giúp học sinh xác định được tất cả các yêu 
cầu của đề bài: 
- Kiểu bài: Tự sự hay miêu tả, tường thuật hay giải thích,  
Lời yêu cầu về kiểu bài: theo lối trực tiếp – nói thẳng (như hãy kể  ) hay 
lời yêu cầu gián tiếp – nói vòng (như Em thấy mình đã khôn lớn  ) 
- Đề bài và giới hạn: học sinh cần tìm hiểu rõ qua từng từ ngữ để xác định 
giới hạn của đề bài. Chỉ một sơ suất nhỏ trong việc xác định giới hạn của đề bài 
cũng có thể dẫn các em từ tản mạn, xa đề đến lạc đề 
Ví dụ : 
Cho đề bài: Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc thời thơ ấu. 
______________________________________________________________________________ 
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
M«n Ng÷ v¨n 8 
-6-
Trước đề này có rất nhiều học sinh kể ra hai, ba kỉ niệm, không có kỉ niệm 
nào được kể một cách đầy đủ (nhưng đề yêu cầu kể một kỉ niệm). 
Tìm hiểu đề là bước quan trọng, tuy nhiên trong chương trình học các em lại 
chỉ được học không đến một tiết (ở lớp 6). Thêm vào đó ở chương trình Ngữ văn 8 
các em học văn tự sự chỉ trong 13 tiết nên thời gian không nhiều. 
Để khắc phục được khó khăn đó và cho học sinh thực hiện tốt bước này tôi 
đã kết hợp thời gian trên lớp, thời gian ở nhà của các em để hướng dẫn và cho các 
em thực hành. 
Ví dụ 1: 
Khi dạy xong tiết 8 – Bố cục của văn bản, trước khi đi vào làm bài tập trong 
SGK giáo viên có thể cho học sinh thực hiện bước này. Giáo viên treo bảng phụ có 
chép sẵn đề bài: 
Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc trong thời thơ ấu của em. 
Yêu cầu trả lời : 
- Kiểu bài của mỗi đề là gì? 
- Lời yêu cầu ở mỗi đề là trực tiếp hay gián tiếp? 
- Nội dung của đề bài nằm trong giới hạn nào (kể về một hay nhiều kỉ niệm)? 
- Lưu ý: Đọc thật kĩ đề bài, lấy bút chì gạch dưới những từ ngữ quan trọng. 
Ở đây do là tiết đầu hướng dẫn học sinh làm nên có thể cho các em tự tìm 
hiểu nhanh sau đó giáo viên hướng dẫn các em làm: 
* Kiểu bài: 
- Đề có kiểu bài tự sự. 
- Đề có yêu cầu trực tiếp. 
* Giới hạn của đề bài: kể duy nhất một kỉ niệm, đó là kỉ niệm đáng nhớ nhất 
ở thời thơ ấu. 
Từ nội dung đó giáo viên nhắc nhở học sinh: từ bây giờ, trước khi viết một 
bài văn các em nên tìm hiểu đề bài trước để viết bài văn cho tốt bằng cách thực 
hiện các yêu cầu như bài tập các em vừa làm. Có thể khái quát thành hai nội dung 
cơ bản (ta gọi là Tìm hiểu đề): 
- Xác định kiểu bài; 
- Xác định nội dung của đề bài; 
- Xác định giới hạn của đề bài. 
______________________________________________________________________________ 
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
M«n Ng÷ v¨n 8 
-7-
Sau khi hướng dẫn các em thực hiện xong giáo viên có thể ra đề yêu cầu các 
em về nhà làm. Ở tiết học tiếp theo giáo viên xem bài các em làm và cho điểm (nếu 
làm tốt). 
Ví dụ 2: 
Khi dạy xong bài Xây dựng đoạn văn trong văn bản (tiết 10 – bài 3), giáo 
viên yêu cầu học sinh: Ngoài việc chuẩn bị để làm bài các em thực hiện trước bước 
tìm hiểu đề cho các đề có trong phần Viết bài tập làm văn số 1 – văn tự sự. 
Tới tiết 11-12, trước khi viết bài giáo viên yêu cầu 1 hoặc 2 học sinh trình 
bày kết quả việc tìm hiểu đề rồi mới đi vào viết bài. 
Học sinh trả lời : 
Đề 1: Kể lại những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học. 
- Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu trực tiếp. 
- Giới hạn: những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học (chỉ trong ngày 
đầu tiên mà thôi). 
Đề 2. Người ấy (bạn, thầy, người thân, ) sống mãi trong lòng tôi. 
- Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu gián tiếp. 
- Giới hạn: chỉ kể về một người thân (có thể là một kỉ niệm khó quên 
với người đó). 
Ví dụ 3: 
Tương tự như ví dụ 2, trước khi Viết bài viết số 2, giáo viên cũng yêu cầu 
học sinh thực hiện bước tìm hiểu đề. 
Trong quá trình dạy – học (nhất là ở tiết trả bài) tôi đã cho học sinh thấy một 
cách nghiêm túc rằng lạc đề là lỗi nặng nhất, nghiêm trọng nhất của một bài tập 
làm văn. Một bài văn lạc đề dù có những đoạn văn hay đến đâu cũng không thể đạt 
được điểm số cần thiết. 
Đối với giáo viên, trước một đề tập làm văn việc tìm hiểu đề là đơn giản 
nhưng với học sinh bước này rất quan trọng. Vì vậy, trước bất cứ một đề văn nào 
giáo viên luôn yêu cầu học sinh thực hiện bước này. 
Có thể nói rằng đây là một bước mất ít thời gian của tiết học nhưng nó mang 
lại hiểu quả rất tốt cho học sinh. 
2.2. Viết đoạn văn trong văn bản tự sự : 
______________________________________________________________________________ 
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
M«n Ng÷ v¨n 8 
-8-
Thế nào là đoạn văn? Đoạn văn là đơn vị cấu tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ 
viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một 
ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường 
có câu chủ đề hoặc từ ngữ chủ đề. Ta thường có đoạn văn diễn dịch, quy nạp, song 
hành,  
Đoạn văn là đơn vị cấu tạo nên văn bản. Vì vậy viết tốt đoạn văn là một 
trong những điều kiện để có một bài văn hay. 
Trong chương trình Ngữ văn 8, học sinh được học cách xây dựng đoạn văn ở 
tiết 10 – Xây dựng đoạn văn trong văn bản, trong đó học sinh đã nắm được kiến 
thức về hình thức và nội dung của đoạn văn. Trên cơ sở bài này, các em đã có kiến 
thức về cách xây dựng đoạn văn. Từ đó tôi thường xuyên cho học sinh luyện tập 
nhận diện đoạn văn cũng như viết đoạn văn ở trên lớp và ở nhà. 
Trước hết, sau khi học xong tiết 10 – Xây dựng đoạn văn trong văn bản 
giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận điện đoạn văn. Đây là bước giúp học sinh 
nhận biết cũng như khắc sâu kiến thức về đoạn văn. Trong SGK Ngữ văn 8 có rất 
nhiều đoạn văn chuẩn, dựa vào ưu điểm này giáo viên cho học sinh làm bài tập 
nhận diện. 
Ví dụ 1: 
Sau khi dạy xong tiết 10 - Xây dựng đoạn văn trong văn bản, ở bước củng cố 
nêu yêu cầu: các em xem đoạn văn b trong bài tập 1, phần luyện tập ở trang 26 và 
đoạn văn giới thiệu về Nam Cao trong phần chú thích ở trang 45 rồi xác định các 
đoạn văn đó được viết theo cách nào? 
Học sinh trả lời: 
- Đoạn văn ở trang 26 là đoạn văn viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở 
đầu đoạn), chủ đề là nói về vẻ đẹp huyền ảo trong ngày của Ba Vì. 
- Đoạn giới thiệu về Nam Cao ở trang 45 được viết theo lối song hành (từ 
ngữ chủ đề là Nam Cao, ông), đối tượng là Nam Cao. 
Học sinh trả lời được như vậy là đã nắm được “Thế nào là đoạn văn”. Trên 
cơ sở đó tôi cho học sinh đi vào thực hành kĩ năng viết đoạn văn. 
Ví dụ 2: 
Tiếp tục bài tập nhận diện đoạn văn, giáo viên có thể yêu cầu các em về nhà 
đọc các văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục, Huế rồi yêu cầu các em xác định: 
______________________________________________________________________________ 
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
M«n Ng÷ v¨n 8 
-9-
văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục được viết theo kiểu nào: Trong văn bản 
Huế đoạn văn nào được viết theo kiểu diễn dịch?  
Học sinh trả lời: 
 Văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục là đoạn văn quy nạp (câu chủ đề 
nằm ở cuối đoạn – Văn bản này chỉ có một đoạn văn). Trong văn bản Huế có đoạn 
văn thứ hai và đoạn văn thứ ba được viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở đầu 
đoạn). 
Khi học sinh nhận diện đúng đoạn văn tức là các em đã nắm được kiến thức 
về đoạn văn. Từ đây giáo viên bắt đầu cho các em thực hành viết đoạn văn. 
Trong quá trình học, học sinh được học rất nhiều văn bản tự sự. Đó là điều 
kiện giúp các em viết tốt đoạn văn tự sự. 
Khi cho học sinh thực hành viết đoạn văn giáo viên cũng cần chia làm hai 
giai đoạn: trước hết cho học sinh viết đoạn văn với câu chủ đề cho trước, tiếp theo 
mới là viết theo yêu cầu mà không có câu chủ đề (học sinh tự đặt câu). 
Ví dụ 1: 
Khi học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4) tôi cho học 
sinh bài tập về nhà: Về nhà mỗi em viết một đoạn văn nói về Lão Hạc – người 
nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám (cho HS câu chủ đề: Lão Hạc là 
con người nghèo khổ nhưng có nhiều phẩm chất đáng quý.) 
Tới tiết 16 – Liên kết đoạn văn trong văn bản, khi kiểm tra bài cũ xong, GV 
mời một HS trình bày đoạn văn của mình cho thầy cùng cả lớp nghe rồi GV nhận 
xét. Cuối tiết học GV thu bài lại để về nhà chấm, nhận xét và sửa cho HS. 
Ví dụ 2: 
Khi dạy xong tiết 21 – 22, văn bản Cô bé bán diêm, GV ra bài tập cho HS về 
nhà làm: 
Em thử tưởng tượng mình là người chứng kiến cái chết của cô bé trong 
truyện Cô bé bán diêm của An – đéc – xen, bây giờ các bạn muốn nghe em kể lại 
cái chết của cô bé. Vậy em hãy viết một đoạn văn kể lại cho các bạn cùng nghe. 
Tới tiết học tiếp theo giáo viên thu bài của các em về nhà chấm, sửa và nhận 
xét trong bài viết cho các em. 
Khi trả lại bài cho học sinh, giáo viên cho đọc một số bài viết tốt để các em 
rút kinh nghiệm cho bài của mình. 
Ví dụ 3: 
______________________________________________________________________________ 
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
M«n Ng÷ v¨n 8 
-10- 
Bài Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội (tiết 17 – bài 5) có nội dung 
tương đối ngắn, bài tập dễ nên giáo viên cho học sinh làm bài tập ở nhà. Thời gian 
trên lớp giáo viên cho học sinh làm bài tập: em hãy viết một đoạn văn ngắn kể về 
người mẹ (hoặc cha) của mình trong đó có sử dụng từ ngữ địa phương. 
Khi học sinh viết xong, giáo viên mời 2 học sinh đọc bài rồi mời những học 
sinh khác nhận xét. Sau đó giáo viên kết luận về nội dung, chủ đề và hình thức 
trình bày. 
Bài của những học sinh còn lại giáo viên thu để về nhà xem (học sinh chưa 
viết xong thì thu lại ở tiết sau). 
Ví dụ 4: 
Khi dạy xong tiết 25 - 26, Đánh nhau với cối xay gió, giáo viên yêu cầu học 
sinh về nhà viết đoạn văn với gợi ý: Sự tương phản giữa Đôn - ki - hô - tê và Xan - 
chô - Pan - xa. 
Đến tiết 28, bài 7 - Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và 
biểu cảm, giáo viên mời 2 học sinh trình bày đoạn văn. 
Trên cơ sở đó ở tiết 28 này học sinh viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả 
và biểu cảm là rất dễ. 
Khi học sinh luyện viết đoạn văn có thể có lỗi về câu và chính tả do học sinh 
tự sắp xếp vì vậy giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh sửa lỗi về câu và chính tả. 
Có thể nói việc luyện viết đoạn văn tự sự là rất cần thiết, học sinh viết tốt 
đoạn văn tự sự có nghĩa là học sinh đã nắm được những yêu cầu của đoạn văn. 
Trên cơ sở đó khi học văn bản thuyết minh và văn nghị luận học sinh sẽ viết tốt 
đoạn văn - đó là một trong những tiền đề để học sinh làm tốt các kiểu văn bản khác. 
2.3 Liên kết đoạn văn trong văn bản: 
Một bài văn được tạo thành bởi nhiều đoạn văn liên kết lại với nhau. Bài văn 
là một chỉnh thể hoàn chỉnh nên giữa các đoạn văn cần có sự liên kết với nhau. 
Liên kết đoạn văn nhằm mục đích làm cho ý của cả đoạn vừa phân biệt nhau vừa 
liền mạch với nhau một cách hợp lí, tạo tính chỉnh thể cho văn bản. Muốn vậy, phải 
tạo mối quan hệ ngữ nghĩa chặt chẽ, hợp lí giữa các đoạn văn với nhau và sử dụng 
các phương tiện liên kết phù hợp. 
Trong chương trình ngữ văn 8 học sinh đã được học “Liên kết các đoạn văn 
trong văn bản” ở tiết 16, bài 4. 
______________________________________________________________________________ 
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
M«n Ng÷ v¨n 8 
-11- 
Trên cơ sơ bài học này giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành việc liên kết 
đoạn văn do các em tạo ra. 
Trước hết giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận diện các phương tiện liên 
kết đoạn văn. 
Ví dụ 1: 
Khi dạy xong bài Liên kết các đoạn văn trong văn bản - tiết 16, bài 4, giáo 
viên yêu cầu: về nhà các em đọc văn bản Cô bé bán diêm (An - đéc - xen) ở trang 
64. Sau đó xác định các từ ngữ và câu có tác dụng nối giữa các đoạn văn trong văn 
bản đó. 
Tới tiết 18, bài 5 - Tóm tắt văn bản tự sự, trong phần kiểm tra bài cũ, giáo 
viên mời học sinh trình bày (giáo viên kết luận) những từ ngữ, câu có tác dụng nối 
như: 
- Em quẹt que diêm thứ hai, 
- Em quẹt que diêm thứ ba. 
- Em quẹt que diêm nữa vào tường,  
- Thế là  
- Sáng hôm sau, 
- Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy  
Ví dụ 2: 
Cũng như ở ví dụ 1, nhưng có thể cho học sinh tìm phương tiện liên kết trong 
văn bản “ Đánh nhau với cối xay gió” ( Xéc - van - téc), ở văn bản này thì dễ nhận 
biết hơn. 
Học sinh có thể tìm được các phương tiện liên kết: 
Vừa bàn tán về cuộc phiêu lưu mới xảy ra,  
Đêm hôm ấy,  
Trên cơ sở bài tập này, giáo viên đã giúp học sinh khắc sâu kiến thức phần lí 
thuyết, từ đây có thể cho học sinh thực hành việc liên kết đoạn văn. 
Việc viết các đoạn văn có sự liên kết với nhau đối với học sinh trung bình và 
yếu là tương đối khó. Cho nên trong quá trình dạy tôi luôn có những đoạn văn mẫu 
cho các em. Bên cạnh đó là bài của các em học sinh khá giỏi. Đồng thời luôn khích 
lệ tinh thần cho các em. 
Ở dạng bài này, giáo viên vừa cho học sinh luyện tập ở trên lớp vừa cho các 
em về nhà làm (giáo viên phải thu vở bài tập rồi chấm và sửa cho học sinh). 
______________________________________________________________________________ 
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
M«n Ng÷ v¨n 8 
-12- 
Ví dụ 1: 
Ở bài Miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sư (tiết 24, bài 6), khi dạy đến 
phần luyện tập, giáo viện cho học sinh làm bài tập 1 và đọc phần đọc thêm ở trên 
lớp. Còn bài tập 2 - “viết một đoạn văn kể về những giây phút đầu tiên khi em gặp 
lại một người thân” thì giáo viên cho học sinh về nhà làm. Giáo viên yêu cầu học 
sinh viết thành 2 đoạn văn đoạn trong đó có các phương tiện liên kết. 
Đến tiết 28, bài 7 - Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu 
cảm, giáo viên mời 2 học sinh trình bày bài của mình rồi giáo viên nhận xét. Sau đó 
thu bài về nhà chấm và sửa cho học sinh. 
Ví dụ 2: 
Văn bản Đánh nhau với cối xay gió (Xéc - van - téc) có hai nhân vật Đôn - ki 
- hô - tê và Xan - chô - Pan - xa tương phản nhau về mọi mặt. Vậy sau bài học đó 
giáo viên yêu cấu học sinh viết 2 đoạn văn nói về hai nhân vật (hai đoạn có quan hệ 
đối lập). 
Ví dụ 3: 
Học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4), học sinh biết 
rằng chị Dậu và lão Hạc là những con người tiêu biểu cho tầng lớp nông dân Việt 
Nam trước cách mạng tháng 8. Giáo viên có thể cho học sinh viết hai đoạn văn nói 
về số phận và tính cách của người nông dân (thông qua lão Hạc và chị Dậu). 
Có thể nói rằng để viết được một bài văn đúng và hay là rất khó, bởi ngoài 
việc có kiến thức vững vàng nó còn đòi hỏi người viết phải vận dụng nhiều kĩ năng 
khác nhau. Nhìn chung các kĩ năng đó các em đã được học nhưng do đặc điểm lứa 
tuổi, cũng như thời gian thực hành còn hạn chế nên người giáo viên phải có biện 
pháp giúp các em thành thạo những kĩ năng đó mới mong các em vận dụng tốt 
được. 
3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: 
 Để đánh giá kết quả đã đạt được, giáo viên dựa vào bài kiểm tra chất lượng 
học kì. 
 Kết quả khi chưa áp dụng: 
Tổng 
số 
Giỏi Khá Trung bình Yếu-kém 
SL % SL % SL % SL % 
______________________________________________________________________________ 
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
M«n Ng÷ v¨n 8 
-13- 
120 0 0 26 21.0 78 66.7 16 13.3 
 Kết quả khi áp dụng: 
Tổng 
số 
Giỏi Khá Trung bình Yếu 
SL % SL % SL % SL % 
120 10 8.3 48 40.0 58 48.3 4 3.3 
Sau một thời gian nhận thấy thực trạng bài làm văn của học

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lam_tot.pdf