1.1. Lý do chọn đề tài.
Bước sang thế kỉ XXI đất nước ta bước vào thời kì đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong đường lối đổi mới toàn diện của
đất nước ta về giáo dục và đào tạo, Đảng ta xác định: “Cùng với khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.”
Việc bồi dưỡng học sinh giỏi - học sinh năng khiếu, ươm trồng những hạt
giống nhân tài cho đất nước là một nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết vì những
người tài bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển.
Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương II khóa VIII, trong đó vấn đề bồi
dưỡng, đào tạo học sinh giỏi là vấn đề hết sức cấp bách bởi vì chỉ có những nhân
tài mới nhanh chóng tiếp thu thành tựu khoa học mới của nhân loại, phát minh ra
sáng kiến để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một việc làm thường xuyên và cấp thiết
đối với mỗi bậc học nói chung và đối với bậc Trung học cơ sở nói riêng. Nó tạo
điều kiện cho người thầy giáo qua đó bồi dưỡng cho mình vốn kiến thức sâu sắc
hơn, phong phú hơn. Đối với học sinh thông qua việc học nhằm tạo cho mình niềm
say mê ham hiểu biết, giúp cho các em rèn luyện óc tư duy sáng tạo, trí thông
minh, đức tính kiên trì chịu khó tìm tòi, tạo tiền đề cho việc bồi dưỡng học sinh
giỏi các cấp học tiếp theo. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi phải mang lại hiệu quả
thiết thực cho bản thân học sinh, cho giáo viên cũng như các bậc cha mẹ học sinh.
Xuất phát từ những nhận thức trên bản thân tôi đã và đang bồi dưỡng đội
tuyển giải toán qua mạng lớp 9, bồi dưỡng tuyến 2 đội tuyển học sinh giỏi Toán
lớp 8, 9 và đội tuyển giải toán trên máy Casio lớp 9 không khỏi trăn trở, suy nghĩ
tìm các biện pháp để bồi dưỡng học sinh giỏi tuyến 2 đạt hiệu quả. Trong phạm vi
đề tài này, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi
dưỡng tuyến 2 học sinh giỏi môn Toán lớp 8, 9 ở trường trung học cơ sở mà tôi
đã và đang áp dụng.
quá khó hoặc quá dễ. Ví dụ: Khi dạy bổ sung chuyên đề "Bất đẳng thức" mà giáo viên tuyến 1 đã cung cấp, tôi tiếp tục cho các em ôn lại các kiến thức cơ bản về Bất đẳng thức như định nghĩa, tính chất cơ bản, và một số bất đẳng thức cơ bản thường găp. Sau đó đưa ra một số dạng bài tập sử dụng các phương pháp chứng minh các bất đẳng thức đơn giản rồi nâng dần lên các bài tập phức tạp hơn nhằm bổ sung những vấn đề còn thiếu, còn yếu cho các em. Bổ sung những kiến thức cơ bản rồi thông tin giáo viên tuyến 1 những vấn đề đã bổ sung. * Ví dụ: Chứng minh rằng: |a| + |b| |a + b| a, b. Giáo viên tuyến 1 đưa ra bài tập hướng dẫn học sinh chứng minh bằng phương pháp biến đổi tương đương: Ta cần biến đổi bất đẳng thức cần chứng minh là A B về bất đẳng thức C D nào đó mà ta đã biết là đúng: Giải: Nhận xét: |x|2 = x 2 với x và |x|.|y| = |xy| x, y. Ta có: |a| + |b| |a + b| (|a| + |b|)2 (|a + b|) 2 |a|2 + 2|a|.|b| + |b| 2 (a + b) 2 a2 + 2|ab| + b 2 a 2 + 2ab + b 2 |ab| ab (đúng với mọi a, b). Vậy bất đẳng thức cần chứng minh là đúng. Dấu “=” xảy ra ab 0. Thông qua bài tập này giáo viên tuyến 2 giới thiệu bổ sung thêm cho học sinh còn có một bất đẳng thức khác tương tự cũng liên quan tới dấu giá trị tuyệt đối: |a| − |b| |a − b| (Dấu “=” xảy ra a b 0 hoặc 0 b a). Rồi cho học sinh chứng minh bất đẳng thức này nhằm giúp các em cũng cố, khắc sâu thêm kiến thức. - Người thầy giáo cần tập cho học sinh biết lựa chọn công cụ thích hợp để giải các bài toán. Việc giải toán phụ thuộc chủ yếu vào việc xác định đúng đắn 9 đường lối giải bài toán đó. Nhưng quá trình đi từ đường lối đúng đắn đến việc có một lời giải tốt đòi hỏi người làm toán phải biết cách lựa chọn các phương pháp và công cụ thích hợp. Việc làm đầu tiên để xác định phương pháp giải toán là phân tích và phát hiện các đặc điểm của bài toán. Biến đổi các điều kiện của bài toán thành các điều kiện tương đương, đưa về bài toán quen thuộc. Liên kết các điều kiện đã cho của bài toán xem chúng có những mối liên hệ với nhau như thế nào. *Ví dụ 1: Khi giải hệ phương trình )2(3 )1(3 2 2 xyy yxx (Toán 9). Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: Khi thay x cho y, y cho x thì (1) (2) và (2) (1). Đây là hệ phương trình đối xứng loại 2 có dạng tổng quát : 0),( 0),( xyf yxf Đường lối giải: Lấy hai phương trình trừ vế theo vế cho nhau ta được phương trình mới, đưa phương trình mới về dạng phương trình tích từ đó giải phương trình tích để tìm nghiệm của hệ đã cho. *Ví dụ 2: Giải hệ phương trình 3 933 yx yx (Toán 9). Đây là hệ phương trình đối xứng loại 1. Đường lối giải: Đặt u = x + y, v = x.y với điều kiện u2 4v Từ đó sử dụng hệ thức Viét để biến đổi hệ phương trình đã cho về hệ phương trình có ẩn u, v để giải. *Ví dụ 3: Giải phương trình: 5x4 – 3x3 + 4x2 – 3x + 5 = 0 (1) (Toán 9) Vì x = 0 không là nghiệm nên chia cả hai vế của phương trình cho x2 ta được: 04) 1 (3) 1 (50 53 435 2 2 2 2 x x x x xx xx (2) Nhận xét 2) 1 ( 1 2 2 2 x x x x nên đặt x xy 1 thì phương trình (2) được biến đổi trở thành phương trình bậc hai một ẩn, từ đó sữ dụng công thức nghiệm để giải. Phương trình (1) là phương trình đối xứng bậc chẵn dạng tổng quát của phương trình: ax4 + bx3 + cx2 + bx + a = 0 (1) Vì x = 0 không là nghiệm nên chia cả hai vế của phương trình cho x2 ta được: 10 0) 1 () 1 (0 2 2 2 2 c x xb x xa x a x d cbxax Đặt x xy 1 ta được phương trình bậc hai 1 ẩn: a (y2 – 2) + by + c = 0 ay2 – 2a + by + c = 0 ay2 + by + c – 2a = 0 - Trong quá trình giải toán người thầy giáo cần tập dượt cho học sinh biết mò mẫm và dự đoán. Thực ra trong khi gặp bài toán khó không phải tự nhiên người ta lại nghĩ ngay vẽ đường phụ nọ, đường phụ kia mà những cái đó chỉ là kết quả của một quá trình mò mẫm, suy nghĩ tìm tòi. Ngay những ý sáng tạo độc đáo, bất ngờ nhất cũng thường nảy sinh trên con đường quanh co tìm lời giải của bài toán. Như chúng ta thấy, quá trình đi đến lời giải đúng không đơn giản, phải mò mẫm dự đoán kết quả bằng cách dựa vào các trường hợp đặc biệt của bài toán, chứng minh bài toán cho các trường hợp đặc biệt, từ đó đưa ra đường lối giải cho bài toán tổng quát một cách dễ dàng. Ví dụ: Bài toán: “Tìm trong tam giác ABC một điểm sao cho tổng các khoảng cách từ điểm đó tới các đỉnh của ABC là bé nhất”. (Hình 9). Đây là một bài toán khó. Trước hết nó không chỉ rõ là trong tam giác có một điểm như vậy không và nếu có thì đó là điểm nào? Chính vì vậy trước tiên giáo viên hướng dẫn học sinh dự đoán vị trí của điểm phải tìm (nếu có) bằng cách mò mẫm dựa trên những trường hợp đặc biệt chẳng hạn ta chọn tam giác đó là tam giác đều. Vì do tính chất đối xứng của tam giác đều mà điểm phải tìm (nếu có) sẽ có tính chất đối xứng với 3 đỉnh. Trong tam giác đều có một điểm đáng chú ý là O vừa là tâm của đường tròn nội tiếp vừa là tâm của đường tròn ngoại tiếp ABC vừa là trọng tâm, trực tâm của ABC. Ta dự đoán rằng trong tam giác đều ABC điểm phải tìm là điểm O. Nghĩa là OA + OB + OC < AM +BM + CM với M là một điểm bất kì khác O trong tam ABC việc chứng minh nó không khó. Như vậy bài toán đã cho được giải quyết trong trường hợp đặc biệt là tam giác đều. Chuyển sang trường hợp tổng quát với tam giác bất kì thì khó khăn đầu tiên dự đoán xem O là điểm nào? Tâm của đường tròn nội tiếp hay ngoại tiếp ABC trọng tâm hay là trực tâm ...? Ta phải tiếp tục mò mẫm trên một trường hợp đặc biệt khác đó là tam giác cân vì trong tam giác cân các điểm đặc biệt đó đều nằm trên đường cao ứng với cạnh đáy của tam giác cân và có thể dễ khảo sát hơn. Để dễ tính toán ta lại cho tam giác vuông cân tại A có cạnh góc vuông bằng đơn vị có trực tâm là đỉnh A của ABC. Qua quá trình phân tích và chứng minh 11 cho cái đặc biệt ta tìm được điểm O có tính chất đặc biệt là từ điểm đó nhìn các cạnh của ABC bất kì dưới một góc bằng 1200 đó là điều khá bất ngờ, bây giờ rất dễ dàng chứng minh cho trường hợp tổng quát và đưa về thành bài toán đơn giản “Trong ABC giả sử có điểm O sao cho: BOA = COA = BOC = 1200 . Chứng minh: OA + OB + OC < AM + BM + CM với M khác O. - Việc tìm ra đường lối giải chưa đủ mà người thầy giáo cần phải rèn cho học sinh nét đặc thù của toán học đó là tính logic và chặt chẽ. Mỗi điều nói, viết ra sau phải là hệ quả của những điều đã nói, viết và đã được chứng minh tính đúng đắn của nó. Chẳng hạn: Khi dạy bồi dưỡng tuyến 2 cho học sinh lớp 8 về chuyên đề "Số chính phương" câu hỏi rất tự nhiên nảy ra là: Hai chữ số cuối cùng của số chính phương có thể là những chữ số nào?. Giả sử : A là số chính phương, tức là có thể biểu diễn A dưới dạng A = ( 10a + b)2 ở đây a, b là các số nguyên không âm và b 9 Vì A = 20a (5a + b) + b2, mà số 20a (5a + b) có hàng đơn vị là 0 còn hàng chục là số chẳn nên tính chẳn lẽ của hai chữ số tận cùng của A trùng với tính chẳn lẽ của hai chữ số của số b2. Điểm lại tất cả các giá trị có thể có được của b2: 00; 01; 04; 09; 16; 25; 36; 49; 64; 81 ta rút ra một số kết luận sau. Tính chất 1: Nếu hàng đơn vị của 1 số chính phương là 6 thì chữ số hàng chục phải là số lẽ. Tính chất 2: Nếu hàng đơn vị của 1 số chính phương khác 6 thì chữ số hàng chục phải là số chẵn. Tính chất 3: Không có số chính phương nào có tận cùng là hai số lẽ. Tính chất 4: Nếu hai số cuối cùng của một số chính phương cùng chẵn thì chữ số hàng đơn vị của số đó chỉ có thể là 0 hoặc 4 sử dụng các tính chất trên ta có thể giải một cách dễ dàng hàng loạt các bài toán liên quan tới số chính phương xin nêu ví dụ điển hình. Bài tập 1. Chứng minh rằng: a) Tổng của ba số chính phương liên tiếp không phải là một số chính phương. b) Tổng S = 12 + 22 + 32 +....+ 302 không phải là một số chính phương. (Toán 8) Giải: a) Gọi ba số chính phương liên tiếp là (n - 1)2 ; n2 ; (n + 1)2 Tổng của chúng là: (n - 1)2 + n2 + (n + 1)2 = 3n2 + 2 12 Tổng này chia 3 dư 2 nên không phải là số chính phương. b)Ta viết S thành tổng của 10 nhóm, mỗi nhóm 3 số hạng. S = (12 + 22 + 32) + ( 42 + 52 + 62) +...+ (282 + 292 + 302) Mỗi nhóm chia 3 dư 2 nên: S = (3k1 + 2) + (3k2 + 2) +...+ (3k10 + 2) S = 3k1 + 3k2 +...+ 3k10 + 18 + 2 S = 3k + 2 (trong đó k = k1 + k2 +...+ k10 +6) Trên đây ta đã chứng minh một số không phải là số chính phương bằng cách xét số dư trong phép chia số đó cho 3. Vì số dư là 2 nên ta khẳng định số đó không phải là số chính phương. Nếu số dư là 0 hay là 1 thì ta chưa khẳng định được điều gì, nên chớ vội vàng kết luận số đó là số chính phương. - Trình bày xong lời giải một bài toán chưa vội thỏa mãn ngay mà người dạy với người học cần phải tạo ra cho mình thói quen: cần tập trung suy nghĩ, lật lại vấn đề tìm kết quả mới hơn. Tìm được cái mới hơn rồi lại tiếp tục đi tìm cái mới hơn nữa cứ như thế chúng ta sẽ tìm được những kết quả thú vị. Nói một cách khác, trong quá trình giải toán hãy luôn nghĩ đến việc khai thác bài toán để có thể sáng tạo ra các bài toán mới trên cơ sở bài toán đã có. Sau đây là một ví dụ minh họa: Ví dụ 1: (Bài tập về nhà của giáo viên tuyến 1 cho HS lớp 8 năm 2014). Tính tổng: 9.8 1 ... 4.3 1 3.2 1 2.1 1 A Áp dụng công thức: 1 11 )1( 1 nnnn tính A dễ dàng. Tổng quát: Tính tổng )1( 1 ... 3.2 1 2.1 1 )( nn S n 11 1 1 n n n Khai thác bài toán: Ta thấy các giá trị ở tử không thay đổi và chúng đúng bằng hiệu hai thừa số ở mẫu tương ứng. Mỗi số hạng đều có dạng mbbmbb m 11 )( . Tức là hiệu hai thừa số ở mẫu luôn bằng giá trị ở tử thì phân số đó luôn viết được dưới dạng hiệu của hai phân số khác với các mẫu tương ứng. Nên ta có một tổng với đặc điểm: các cặp số hạng liên tiếp đối nhau (số trừ của nhóm trước bằng số trừ của nhóm sau liền kề). Trên cơ sở bài toán đó ta có thể đó sáng tạo ra bài toán mới, tương tự : 13 Tính tổng : 19.17 2 ... 5.3 2 3.1 2 B Ví dụ 2: Cho tam giác ABC đều cạnh a, gọi O là trung điểm của BC. Trên cạnh AB, AC theo thứ tự lấy M, N sao cho góc MON = 600. (Toán 9). a) Chứng minh 4 . 2a CNBM ; b) Gọi I là giao điểm của BN và OM. Chứng minh BM.IN = BI.MN; c) Chứng minh MN luôn tiếp xúc với một đường tròn cố định. Phân tích bài toán: a) Ở phần a là một dạng toán chứng minh hệ thức, chính vì vậy việc hướng dẫn học sinh tìm lời giải bài toán hết sức quan trọng nhằm phát triển tư duy hình học ở học sinh. Chúng ta có thể dùng phương pháp phân tích đi lên để tìm lời giải bài toán. Với sơ đồ như sau: 4 . 2a CNBM 2 . 2 . aa CNBM COBOCNBM .. CN CO BO BM BMO đồng dạng CON 060ˆˆ CB BMO = CON B+BMO+BOM = BOM +MON+NOC (= 1800). Căn cứ vào sơ đồ ta có lời giải sau: Ta có BMO: B+M+O = 1800 BOM+MON+NOC = 1800 (BOC = 1800) BMO = CON; lại có 060ˆˆ CB (vì ABCđều) N I C O B M A 14 BMO đồng dạng CON (g.g), từ đó suy ra CN CO BO BM hay COBOCNBM .. ; mà 22 aBC COBO do đó 4 . 2a CNBM (đpcm) b) Cũng tương tự như vậy ở phần b) thầy giáo cũng giúp học sinh phát triển tư duy lôgic, thao tác tư duy phân tích, tổng hợp, đặc biệt là tư duy phân tích đi lên, một thao tác tư duy đặc trưng của môn hình học. Với sự phân tích như vậy học sinh sẽ thấy đó chính là sử dụng tính chất đường phân giác của tam giác BMN. Nghĩa là học sinh cần chỉ ra MI là tia phân giác của góc BMN. Từ đó ta có lời giải sau: Theo phần a) BMO đồng dạng CON suy ra ON MO BO BM hay ON MO CO BM Lại có B = MON (=600) BMO đồng dạng OMN (c.g.c). Từ đó suy ra BMO = OMN do đó MO là tia phân giác của góc BMN hay MI là tia phân giác BMN. Xét BMN có MI là tia phân giác của BMN, áp dụng tính chất đường phân giác trong tam giác ta có IN IB MN MB hay MNBIINBM .. (đpcm). c) Đây là một dạng toán liên quan giữa tính bất biến (cố định) và tính thay đổi: ứng với mỗi điểm M, N thì ta có vị trí của đoạn thẳng MN thay đổi theo (chuyển động) nhưng lại luôn tiếp xúc với một đường tròn cố định (bất biến). Vậy trước khi tìm lời giải của bài toán giáo viên cần cho học sinh chỉ ra yếu tố cố định, yếu tố nào thay đổi. Ta có lời giải sau: Từ O kẻ OH, OK theo tứ tự vuông góc với AB và MN. Do O, AB cố định nên OH cố định. Vậy đường tròn (O;OH) là đường tròn cố định. Vì MO là tia phân giác của góc BMN nên OK = OH (t/c đường phân giác) K(O;OH) (1). C O B N I M A H K 15 Lại có OKMN ( cách dựng) (2) Từ (1) và (2) suy ra MN là tiếp tuyến của đường tròn (O;OH). Vậy MN luôn tiếp xúc với một đường tròn (O;OH) cố định. Khai thác bài toán: Ở phần a) của bài toán ta thấy tích BM.CN không đổi, nếu sử dụng BĐT Côsi ta có thêm câu hỏi sau: 1: Tìm vị trí của M, N trên AB, AC để BM + CN đạt giá trị nhỏ nhất. Giải: Áp dụng BĐT Côsi cho hai số không âm là BM và CN ta có CNBMCNBM .2 dấu "=" xảy ra BM = CN. Theo phần a) 4 . 2a CNBM do đó a a CNBM 4 2 2 (không đổi). Vậy GTNN của BM + CN = a BM = CN = 2 a M, N theo thứ tự là trung điểm của AB và AC. Ta thử suy nghĩ nếu tam giác ABC là tam giác cân thì bài toán còn đúng không? và giả thiết như thế nào? từ đó ta có bài toán sau: 2: Cho tam giác ABC cân ở A, O là trung điểm BC. Trên cạnh AB, AC theo thứ tự lấy các điểm M, N sao cho BMO = CON. Chứng minh rằng: 3: Cho tam giác ABC cân ở A, O thuộc cạnh BC đường tròn tâm O tiếp xúc với các cạnh AB, AC của tam giác. Trên AB, AC theo thứ tự lấy hai điểm M, N. Chứng minh rằng MN là tiếp tuyến của đường tròn (O) 4 . 2BC CNBM Giải: Vì (O) tiếp xúc với các cạnh AB, AC nên O cách đều AB, AC do đó O thuộc tia phân giác của góc A. a) 4 . 2BC CNBM ; b) BNMO = I , Chứng minh BI.MN = IN.BM; c) Khi M, N thay đổi trên AB, AC thì MN luôn tiếp xúc với một đường tròn cố định. A M B C N ớ O I 16 MON = B; BOM = ONC; NOC = BMO; từ đó suy ra: BMO đồng dạng CON (g.g) 4 . 2BC CNBM CN BO CO BM (đpcm). ( ) Giả sử có 4 . 2BC CNBM cần phải chứng minh MN là tiếp tuyến của (O). Cách 1: Chứng minh tương tự trên; Cách 2: Từ M dựng tiếp tuyến với (O) cắt AC ở N'. Ta chứng minh N'N. Theo phần thuận ta có 4 '. 2BC CNBM . Kết hợp với giả thiết ta suy ra BM.CN' = BM.CN CN' = CN. Mà N', N cùng thuộc cạnh AC do đó N' N (đpcm). Chú ý: - Nếu M nằm trong đoạn AB thì N nằm trong đoạn AC. - Nếu M nằm ngoài đoạn AB thì N cũng nằm ngoài đoạn AC. 4: Cho ABC cân ở A. Lấy M, N trên cạnh AB, AC sao cho 4 . 2BC CNBM . Tìm vị trí của M, N sao cho AMN có diện tích lớn nhất. 5: Cho M, M' trên tia AB và tia đối của tia BA; N, N' thuộc tia CA và tia đối của tia CA. Chứng minh rằng: 1) Nếu MB.NC = M'B.N'C = 4 2BC thì tứ giác MM'N'N ngoại tiếp được một đường tròn; 2) Phân giác tạo bởi MN và MM' đi qua một điểm cố định. 6: 1) Cho tam giác ABC. Dựng hai điểm P, Q thứ tự trên AB và AC sao cho AP = AQ và BP.CQ = 4 2PQ ; Lại có ABC cân nên phân giác góc A đồng thời là trung tuyến mà OBC nên O là trung điểm cạnh BC. ( ): Giả sử MN là tiếp tuyến (O) tại P. Nối OM, ON. Do MB, MP là hai tiếp tuyến cắt nhau của (O), NP, NC cũng là hai tiếp tuyến cắt nhau của (O), sử dụng tính chất hai tiếp tuyến cắt nhau ta suy ra được P C N A M B O 17 2) Cho hình vuông ABCD, lấy điểm F thuộc CD, G thuộc BC sao cho EG//AF (với E là trung điểm của AB). Chứng minh rằng FG là tiếp tuyến của đường tròn nội tiếp hình vuông. 7: Cho tam giác ABC cân ở A. Đường tròn có tâm O là trung điểm của BC tiếp xúc với AB, AC thứ tự ở H và K. Lấy P thuộc đoạn AB, Q thuộc đoạn AC sao cho PQ là tiếp tuyến của (O). Tìm quĩ tích tâm O' của đường tròn ngoại tiếp tam giác OPQ. - Trong quá trình giải toán, việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu nhiều cách chứng minh khác nhau từ một bài toán, tôi thấy giờ học của học sinh sôi nổi hơn, các em say mê tạo các phương án để tìm lời giải khác nhau cho bài toán, giờ giảng không bị thụ động vào tài liệu, học sinh độc lập chủ động khai thác để có nhiều cách giải bài qua đó phần nào rèn luyện tính linh hoạt, sáng tạo của các em. Ngoài ra, việc hướng dẫn học sinh tập dượt phương pháp suy luận như đặc biệt hoá, khái quát hoá cũng rất quan trọng. Ví dụ 3: Trong hình vuông ABCD và nữa đường tròn đường kính AD và vẽ cung AC mà tâm là D. Nối D với điểm P bất kỳ trên cung AC, DP cắt nữa đường tròn đường kính AD ở K. Chứng minh PK bằng khoảng cách từ P đến AB. Cách giải 1: Hình 1 Gợi ý : - Kẻ PI AB - Xét hai tam giác APK và API Giải: Kẻ PI AB (I AB). Xét APK và API có APK vuông tại K (Vì góc AKD là góc nội tiếp chắn nửa đường tròn đường kính AD) ADP cân tại D (vì AD = DP ) DAPP 2 Mặt khác. DAPP 1 ( So le trong vì AD // PI ) Do đó: 21 PP APK = API (cạnh huyền - góc nhọn) PK = PI Cách giải 2: Hình 2 Gợi ý: - Ngoài cách chứng minh APK = API bằng nhau cách 1 ta chứng minh 21 PP . Ta có thể chứng minh 21 AA 18 - Gọi F là giao điểm của AP với đường tròn đường kính AD Giải: Ta có: 090AFD ( Góc nội tiếp chắn nữa đường tròn) Tam giác ADP cân tại D có DF là đường cao nên DF cũng là phân giác suy ra 21 DD mà 12 AD ; 21 AD Vì đều là góc có các cặp cạnh tương ứng vuông góc Suy ra: 21 AA APK = API (Cạnh huyền - góc nhọn) PK = PI Cách giải 3: Hình 2. Gợi ý: - Cách giải này chúng ta cũng đi chứng minh 21 AA nhưng việc chứng minh được áp dụng bằng kiến thức khác. - Chú ý rằng AB là tiếp tuyến của đường tròn tâm D nên ta có: Giải: Ta có ADKIAK ( Có số đo bằng 1 2 sđ cung AK ) Mặt khác IAP là góc tạo bởi tiếp tuyến và dây cung AP của đường tròn tâm D nên góc IAP bằng 1 2 số đo của góc ở tâm cùng chắn một cung là góc ADP IAKADPIAP 2 1 2 1 Suy ra: 21 AA APK = API ( Cạnh huyền - góc nhọn) PK = PI Cách giải 4: Hình 3 Gợi ý: - Kéo dài AK cắt đường tròn tâm D tại E - Áp dụng định lí của góc tạo bởi tiếp tuyến và dây cung Giải: DK AE nên P là điểm chính giữa của cung AE. Góc BAE (góc tạo bởi tiếp tuyến và dây cung AE ). Vì AP lại đi qua điểm chính giữa của cung AE nên AP là tia phân giác của góc BAE Suy ra: 21 AA APK = API ( Cạnh huyền - góc nhọn ) 19 PK = PI Đối với bài toán trên để chứng minh hai đoạn thẳng PK và PI bằng nhau ta đi chứng minh APK = API vấn đề giáo viên tuyến 2 cần cho học sinh tư duy và vận dụng sáng tạo kiến thức về trường hợp bằng nhau trong tam giác vuông, góc tạo bởi tiếp tuyến và dây cung, góc nội tiếp. Như vậy thì học sinh mới tư duy và tìm tòi lời giải. Giáo viên không nên đưa ra lời giải mà phải để học sinh tìm lời giải cho bài toán. - Sau khi giáo viên tuyến 2 phối kết hợp với giáo viên tuyến 1 giảng dạy cho học sinh các chuyên đề, luyện kĩ từng chuyên đề, phương pháp giải từng bài tập, giáo viên phải biết liên kết vận dụng các chuyên đề thông qua việc cho học sinh luyện giải các bộ đề thi khác (của các năm trước và khai thác các bộ đề trên mạng), rèn cho các em phương pháp trình bày bài giải và thực hành. Thông qua các bài kiểm tra từng đợt giáo viên sửa chữa cho học sinh một số sai lầm mắc phải, những yêu cầu chung, yêu cầu cá biệt cần bổ sung cho từng em. Đồng thời chỉ ra các phương pháp giải hay, độc đáo, từng bước nâng dần hiệu quả làm bài của học sinh. Qua đó nhận xét quá trình học tập của từng em theo từng giai đoạn, có dự kiến về mục tiêu cần đạt (liên thông với giáo viên tuyến 1 để dự kiên mỗi học sinh đến tháng nào được lọt vào tốp mấy? giải mấy?...). - Để tăng thêm hứng thú
Tài liệu đính kèm: