Sáng kiến kinh nghiệm Một cách rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong một giờ đọc hiểu tác phẩm văn học nhằm nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn của học sinh lớp 12A2 trường THPT số 2 Văn Bàn

Sáng kiến kinh nghiệm Một cách rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong một giờ đọc hiểu tác phẩm văn học nhằm nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn của học sinh lớp 12A2 trường THPT số 2 Văn Bàn

Trong giờ giảng văn, trước khi giảng giáo viên có thể dùng lời kể hoặc lời dẫn kết hợp với một số hình ảnh, đoạn phim, bài hát, câu thơ minh hoạ để tạo tâm thế thoải mái, giúp học sinh có điều kiện thâm nhập được vào tác phẩm, vào bài dạy một cách hứng thú.

Ví dụ:

- Giảng bài Đàn ghi ta của Lor-ca của tác giả Thanh Thảo, giáo viên có thể cho học sinh nghe bài hát Cây đàn ghi ta của Lor-ca, lồng vào đó là những hình ảnh về đất nước và những nét văn hóa đặc sắc của đất nước Tây Ban Nha, sau khi nghe xong giáo viên có thể hỏi cảm nhận của học sinh về bài hát và các hình ảnh đó hát về ai, hình ảnh ấy gợi ta liên tưởng đến đất nước nào? và những hiểu biết về đặc trưng văn hoá của đất nước đó? Học sinh sẽ trình bày được suy nghĩ ban đầu của mình về bài học Đàn ghi ta của Lorca.

- Giảng bài “ Ai đã dặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta có thể dẫn dắt học sinh bằng lời giới thiệu, lời dẫn về con sông Hương của Huế ở vẻ đẹp tự nhiên, văn hoá, lịch sử; hoặc cho học sinh nghe đoạn nhạc “Dòng sông ai đã đặt tên?” kết hợp một số hình ảnh về sông Hương, xứ Huế và hỏi cảm nhận của học sinh về dòng Hương.

- Giảng bài “ Sóng ” của Xuân Quỳnh, ta có thể bắt đầu bằng một đoạn bài hát về biển, một bài thơ có cùng chủ đề hoặc một trò chơi, một bài hát về tình yêu từ đó gợi dẫn về vấn đề cơ bản cần tìm hiểu trong tác phẩm.

 

doc 14 trang Người đăng Hoài Minh Ngày đăng 16/08/2023 Lượt xem 499Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một cách rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong một giờ đọc hiểu tác phẩm văn học nhằm nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn của học sinh lớp 12A2 trường THPT số 2 Văn Bàn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n tượng học sinh học theo kiểu cũ: đọc thuộc, sao chép, nói lại ý sách vở thầy cô mà không hoặc ít có sự sáng tạo khi tiếp xúc tác phẩm văn chương.
b. Hiện tượng ít tập trung suy nghĩ, ít tìm tòi ở học sinh phải được khắc phục dần qua những giờ dạy của giáo viên ở trên lớp và cách học của học sinh.
c. Thị trường sách hiện nay: Sách in ấn nhiều, giảng giải cụ thể tác phẩm, học sinh mua về chép lại một cách máy móc mà không suy nghĩ, sáng tạo do đó dẫn đến tình trạng mù kiến thức
d. Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học, học sinh chỉ hiểu theo một chiều, ít chịu khó phát hiện, vốn từ ngữ nghèo, diễn đạt kém. Vì vậy, không đạt hiệu quả cao khi cảm nhận tác phẩm văn chương. 
II. Biện pháp, giải pháp thay thế
1. Phát huy sự sáng tạo cho học sinh trong giờ giảng văn.
 	 Như ta đã biết tiếp nhận văn học là một hoạt động nhằm chiếm lĩnh giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Thông qua quá trình đầu tiên là tiếp xúc, cảm thụ văn bản ngôn từ đến việc cảm nhận, hiểu ra chân giá trị của hình tượng nghệ thuật và cảm hứng của nhà văn, tài năng diễn tả của nhà văn để làm nên tác phẩm đó. Và cuối cùng là quá trình kết thúc sự tiếp nhận ở người đọc qua việc hiểu, rung cảm, có được những rung cảm, những ấn tượng và chịu ảnh hưởng của tác phẩm, của hình tượng nghệ thuật trong đời sống cá nhân.
 Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học đã giúp cho con nhười có được những thói quen, những tình cảm lành mạnh, những suy ngẫm để tự rèn luyện, tự điều chỉnh bản thân bởi vì chức năng tiếp nhận văn học không chỉ đơn thuần là quá trình người đọc tiếp xúc với tác phẩm văn học mà nó còn diễn ra quá trình nhận thức ở họ khi người đọc và người học có ý thức cao về những vấn đề trong tác phẩm văn học. Quá trình học văn ở trường THPT đối với lứa tuổi học sinh chính là quá trình thầy cô giúp các em tiếp xúc tác phẩm, hiểu ra cái đúng, cái hay của nó và bằng tài năng của mình người thầy phải cảm thụ, cảm nhận một cách toàn diện để sau đó từng bước đưa học sinh bước vào tác phẩm mà phân tích, cảm thụ và hiểu tác phẩm một cách đầy đủ, đúng đắn.
Trong cảm nhận tác phẩm văn học, người đọc phải dùng liên tưởng, tưởng tượng để hình dung, để hiểu ý đồ, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng nhà văn trong tác phẩm, bởi vì  nhà văn đã dùng liên tưởng, tưởng tượng làm phương tiện, cách thức, thủ pháp nghệ thuật để sáng tác tác phẩm văn học. Quá trình tiếp xúc, tiếp thu một giờ giảng văn trên lớp của học sinh phải nhờ ào tài năng, kĩ năng của người thầy qua các thao tác đọc, phân tích, bình giảng, nhận xét để bằng các giác quan, học sinh có thể hiểu tác phẩm qua hệ tjống ngôn ngữ, hình tượng, các thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm. Sự dẫn dắt của người thầy rất quan trọng, vì thế thầy muốn dẫn dắt học sinh bước vào khám phá tác phẩm thì trước hết phải hiểu tác phẩm, thâm nhập vào tác phẩm một cách tự nhiên, thoải mái và có khả năng phân tích, đánh giá tác phphẩm và qua sự cảm thụ của mình hướng cho học sinh cảm thụ cái hay, chỗ độc đáo của tác phẩm để từ đó từng bước hiểu ra vấn đề nhà văn đặt ra và giải quyết trong tác phẩm.
 Đề cập đến bản chất của giờ giảng văn, GS Đặng Thai Mai cho rằng: “giảng văn trước hết là theo dõi trong nếp áng văn tất cả cái tinh vi về tư tưởng, cái độc đáo về nghệ thuật của một tác giả. Hiểu như vậy giảng văn trước hết là chỉ ra sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa kĩ thuật và tư tưởng trong một tác phẩm văn chương ”(Giảng văn Chinh phụ ngâm- Đặng Thai Mai- ĐHSPI HN; 1992). Vậy thì muốn chỉ ra sự thống nhất ấy trong tác phẩm rõ ràng lao động của giáo viên dạy văn vừa phải có tính nghệ thuật vừa phải có tính sư phạm. Mà tính nghệ thuật của giờ giảng văn tất nhiên lại phải phụ thuộc vào tài năng của giáo viên và trìnhđô, khả năng của học sinh. Như trên đã nói, tiếp xúc với tác phẩm văn chương, học sinh cần có sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, rõ ràng mới có thể cảm nhận được cái hay của tác phẩm, cái tài của tác giả. Việc đó theo tôi hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tiếp thu của học sinh qua tài năng dẫn dắt của giáo viên. Vậy thì việc đầu tiên theo tôi người thầy dạy văn cần phải làm đó là phải bằng mọi cách tác động vào tư duy sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học. Sự tác động ấy có thể bằng nhiều hình thức khác nhau. Có thể đó là giọng đọc thiết tha diễn cảm khi phân tích tác phẩm trữ tình, giọng đọc hài hước dí dỏm khi tiếp cân tác phẩm trào phúng, giọng đọc đanh thép mạnh mẽ khi thể hiện thái độ căm thù, giọng đọc nhẹ nhàng ấm áp khi diễn tả tình cảm yêu thương... hoặc có thể đó còn là một hệ thống câu hỏi phù hợp, đúng lúc gõ vào trí tuệ học sinh, bắt học sinh phải suy nghĩ, phải căng thẳng chút ít để phán đoán mở hướng hiểu, cách khai thác vấn đề.
 Qua 10 năm giảng dạy bộ môn Văn ở trường THPT, tôi thấy rằng để có được một giờ giảng văn trọn vẹn quả thật là khó bởi vì đó là cả một nghệ thuật. Giờ giảng văn đòi hỏi học sinh phải liên tưởng, tưởng tượng mới có sự sáng tạo trong phát hiện tìm tòi trong khi đó thời gian rất eo hẹp. Đã thế lớp học có ít nhất 32 học sinh, thầy chỉ có một mà trò thì quá nhiều, sự liên tưởng, tưởng tượng không đồng đều ở học sinh. Tất cả chừng ấy yếu tố cũng đủ để húng ta hiểu rằng khó có thể cầu toàn đối với một giờ giảng văn. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn không thể có được những giờ dạy, bài giảng thành công. Với những gì đã làm, đã học tập ở đồng nghiệp và tiếp xúc với nhiều khoá học sinh, tôi thấy rằng chúng ta có thể giúp cho học sinh có điều kiện rèn luyện tư duy sáng tạo khi tiếp xúc với tác phẩm văn chương qua một số vấn đề, một số thao tác sau đây:
 1.1. Trong giờ giảng văn, trước khi giảng giáo viên có thể dùng lời kể hoặc lời dẫn kết hợp với một số hình ảnh, đoạn phim, bài hát, câu thơ minh hoạ để tạo tâm thế thoải mái, giúp học sinh có điều kiện thâm nhập được vào tác phẩm, vào bài dạy một cách hứng thú.
Ví dụ: 
- Giảng bài Đàn ghi ta của Lor-ca của tác giả Thanh Thảo, giáo viên có thể cho học sinh nghe bài hát Cây đàn ghi ta của Lor-ca, lồng vào đó là những hình ảnh về đất nước và những nét văn hóa đặc sắc của đất nước Tây Ban Nha, sau khi nghe xong giáo viên có thể hỏi cảm nhận của học sinh về bài hát và các hình ảnh đó hát về ai, hình ảnh ấy gợi ta liên tưởng đến đất nước nào? và những hiểu biết về đặc trưng văn hoá của đất nước đó? Học sinh sẽ trình bày được suy nghĩ ban đầu của mình về bài học Đàn ghi ta của Lorca.
- Giảng bài “ Ai đã dặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta có thể dẫn dắt học sinh bằng lời giới thiệu, lời dẫn về con sông Hương của Huế ở vẻ đẹp tự nhiên, văn hoá, lịch sử; hoặc cho học sinh nghe đoạn nhạc “Dòng sông ai đã đặt tên?” kết hợp một số hình ảnh về sông Hương, xứ Huế và hỏi cảm nhận của học sinh về dòng Hương.
- Giảng bài “ Sóng ” của Xuân Quỳnh, ta có thể bắt đầu bằng một đoạn bài hát về biển, một bài thơ có cùng chủ đề hoặc một trò chơi, một bài hát về tình yêu từ đó gợi dẫn về vấn đề cơ bản cần tìm hiểu trong tác phẩm.
 1.2. Phải khơi gợi ở học sinh sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú từ những gì đã có trong văn bản ngôn từ của tác phẩm bằng hệ thống câu hỏi có khả năng tạo được tâm lí thoải mái trong tư duy của các em khi tiếp cận tác phẩm ở các dạng câu hỏi từ khái quát đến cụ thể, từ khẳng định đến gợi mở, định hướng. 
Ví dụ 1: Khi tìm hiểu tác phẩm Việt Bắc, đoạn thơ :
	Ta về mình có nhớ ta
	...................................
 Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
	 Giáo viên có thể hỏi học sinh: em có cảm nhận gì về  đoạn thơ trên?
	Học sinh sẽ trả lời: Đoạn thơ là bức họa về thơ, một bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc tuyệt đẹp.  
Ví dụ 2: Khi tìm hiểu tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa”, GV có thể hỏi: Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên ở đoạn đầu tác phẩm?
Học sinh: Bức tranh được đặc tả với vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng. Giữa không gian bao la của biển, của bầu trời, hình ảnh chiếc thuyền cùng con người đang thu lưới sau một đêm lao động vất vả ẩn hiện trong những mảng màu sáng tối của ánh bình minh trên biển sớm mờ sương. Cảnh mang vẻ đẹp lãng mạn, gợi lên một cuộc sống thanh bình, yên ả và cũng thấy được tình yêu mà người nghệ sĩ dành cho nghề nghiệp của mình, một người nghệ sĩ luôn đam mê, hết mình vì cái đẹp, bởi cái đẹp nó đến lúc con người ta không ngờ tới.
 1.3. Trong giảng văn, giọng đọc của giáo viên như trên đã nói là rất quan trọng. Với giọng đọc của mình, giáo viên có thể đã và đang truyền thụ được cái hồn của tác phẩm cho học sinh. Qua giọng đọc của thầy, học sinh đã có thể thấy mở ra trong tâm trạng, trong cảm xúc và tư duy những gì cần lĩnh hội. Đọc đúng, đọc diễn cảm đòi hỏi sự luyện tập công phu của người thầy. Nhiều đoạn thơ, đoạn văn thầy không cần giảng, bình mà chỉ đọc đã có thể mở ra cho trò bao nhiêu điều thú vị. Tuy nhiên không chỉ có thầy đọc mà thầy phải có trách nhiệm tập luyện cho học sinh thói quen đọc đúng, đọc diễn cảm  văn bản bởi vì đây chính là khâu đầu tiên giúp học sinh cảm nhận tác phẩm văn chương bằng chính giọng đọc của mình để cảm thụ đúng tác phẩm, cảm thụ cái hay của tác phẩm thông  qua sự ngân vang của cảm xúc, là yếu tố quan trọng cho học sinh đến được và dần hiểu tác phẩm vản chương. Một giờ giảng văn mà cả thầy lẫn trò đều có giọng đọc tốt sẽ truyền được cảm xúc của mình từ tác phẩm cho học sinh trong lớp.
 	1.4. Trong giờ giảng văn, để rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh, giáo viên còn phải cố gắng tập cho học sinh có thói quen rèn luyện và thao tác những thói quen cần thiết khi chuẩn bị ở nhà và khi học giờ giảng văn ở lớp. Theo tôi đó có thể là những thói quen sau:
- Thói quen đọc tác phẩm cẩn thận, kỹ càng, đọc đúng đọc, diễn cảm để tự cảm nhận tác phẩm, đồng thời với việc đọc có suy nghĩ là thói quen gạch chân và ghi lại những đoạn hay của tác phẩm.
- Thói quen đọc thuộc  tác phẩm, ghi nhớ, suy ngẫm tác phẩm, những câu đoạn mà mình tâm đắc nhất.
- Thói quen liên tưởng, liên hệ với những vấn đề, những tác phẩm khác có liên quan đến những giá trị cơ bản trong tác phẩm đang học.
- Thói quen lật đi lật lại những vấn đề quan trọng khi cảm nhận phân tích tác phẩm.
- Thói quen cảm nhận tác phẩm theo nhiều chiều, nhiều khía cạnh không máy móc thụ động; phải tập trung suy nghĩ, phát hiện những điều mới lạ ở tac phẩm khi cảm nhận nó qua sự dẫn dắt gợi ý của thầy cô, có nghĩa là phải có sự cảm nhận của riêng mình.
- Phải biết và có thói quen cảm nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại, đặc trưng thi pháp.
 	 1.5. Rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh ở giờ giảng văn không chỉ dừng lại ở những thao tác trên mà nó còn đòi hỏi ở cả thầy lẫn trò một cách học, cách dạy hợp lý, khoa học, linh hoạt, không phải bài nào cũng giảng và liên tưởng theo một cách, không phải tác giả tác phẩm nào cũng một dạng lời bình mà phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, tác phẩm cụ thể để hướng dẫn học sinh cách cảm thụ, cách phát hiện. Về phía học sinh, theo tôi nếu cầu toàn 100% học sinh đều cảm thụ tốt tác phẩm văn học bằng tư duy của các em thì khó mà đạt được. Vì vậy phải tùy đối tượng, tùy năng lực cảm thụ văn học của từng đối tượng mà hướng dẫn chỉ đạo các em phát hiện sáng tạo phù hợp: Hệ thống câu hỏi đặt ra phải linh hoạt, phải có sự phân chia đối tượng, có câu hỏi khó cho học sinh giỏi, câu hỏi phù hợp cho học sinh trung bình, thậm chí khi đặt câu hỏi mà học sinh không trả lời được thì giáo viên phải gợi dẫn, giúp học sinh tìm hiểu nhã tự, biện pháp tu từ để hcọ sinh hiểu nội dung của câu, của đoạn, của bài thơ ...Có thế một giờ giảng văn mới đảm bảo được cùng lúc sự sáng tạo cho các em.
 1.6. Để giúp học sinh có được sự sáng tạo trong giờ giảng văn, giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh đi theo con đường thi pháp học bởi vì thi pháp học sẽ giúp học sinh hiểu đúng, nhanh chóng phát hiện ra những điểm sáng thẩm mỹ ở tác phẩm. Muốn vậy, người thầy phải nắm và vận dụng linh hoạt, vững vàng lý luận thi pháp trong quá trình giảng văn.
 Ví dụ: Với thơ, nên đi từ mạch cảm hứng, cảm xúc của nhân vật trữ tình hoặc hình tượng trữ tình trong tác phẩm ( Chẳng hạn khi tìm hiểu bài thơ “ Sóng” của Xuân Quỳnh ta có thể phân tích hình tượng sóng và hình tượng em; Khi tìm hiểu bài thơ “Đất Nước ” của nguyễn Khoa Điềm ta phân tích theo mạch trữ tình- chính luận của nhân vật trữ tình trong bài thơ).
Với văn xuôi, có tác phẩm giảng bằng thi pháp nhân vật, có tác phẩm giảng bằng thi pháp cốt truyện, tình tiết...( Chẳng hạn khi tìm hiểu tác phẩm “ Hai đứa trẻ ” của nhà văn Thạch Lam thì  phân tích theo nghệ thuật miêu tả bởi truyên Thạch Lam không có cốt truyện nên không có giọng kể mà chỉ có giọng tả; Khi tìm hiểu tác phẩm “ Chữ ngời tử tù” của Nguyễn Tuân thì phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật; khi tìm hiểu tác phẩm “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” hoặc “ Người lái đò sông Đà” thì phân tích tác phẩm theo đăc trưng thể loại bút kí, tuỳ bút).
 1.7. Để phát huy sự sáng tạo, tích cực chủ động của học sinh cũng như kết hợp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, giáo viên cần vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới vào giờ đọc văn, như phương pháp thảo luận nhóm, giao nội dung bài học cho học sinh chuẩn bị bài trước khi tiết học bắt đầu, kết hợp linh hoạt kĩ thuật dạy học mới vào bài dạy của mình, tránh gò ép,...
	1.8. Bên cạnh các thao tác trên để giúp học sinh lĩnh hội tác phẩm văn chương một cách trọn vẹn, đầy đủ và có tính thực tế thì giáo viên luôn phải tích hợp kiến thức liên môn, tích hợp kiến thức trong môn để học sinh hiểu thấu đáo tác phẩm và có thể liên hệ thực tế đời sống của các từ đó các em sống nhân văn hơn và yêu thích bộ môn hơn bởi hiện nay nhiều em sau khi học xong THPT các em không thi khối C, hoặc không theo con đường văn chương thì ít nhiều các em cũng có một chút văn chương để vận dụng vào cuộc sống của mình. Được như vậy coi như môn Văn đã thành công. 
	Ví dụ: Dạy bài Sóng, học sinh rút ra cho mình bài học về tình yêu, trong tình yêu có tình cảm nhưng cũng phải có lý trí để soi đường. Bài Chiếc thuyền ngoài xa, học sinh không chỉ thấy được cuộc đời này rất đẹp, rất đáng quý nhưng cũng nhận ra được vấn đề bức xúc trong xã hội hiện nay là nạn bạo hành gia đình đã và đang trở thành mối lo của toàn xã hội. Vậy học sinh sẽ có thái độ như thế nào trước hiện tượng này?....
2. Minh hoạ đọc - hiểu tác phẩm:
 Đọc văn 
 SÓNG
 - Xuân Quỳnh –
 I. Mục tiêu bài học: Giúp HS
1. Kiến thức:- Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn và niềm khát khao của người phụ nữ về một tình yêu thuỷ chung, bất diệt.
 - Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật kết cấu, xây dựng hình ảnh, nhịp diệu và ngôn từ của bài thơ.
2. Kỹ năng: Rèn kỹ năng nghị luận bài thơ, đoạn thơ.
3. Thái độ: Kỹ năng sống:
- Giao tiếp: trình bỳ trao đổi về mạch cảm xúc của bài thơ, về sự thể hiện hình tượng sóng và em trong bài thơ.
- Tư duy sáng tạo: phân tích, so sánh, bình luận về vẻ đẹp của tình yêu trong thơ ca, về vẻ đẹp của gương mặt thơ Xuân Quỳnh.
- Tự nhận thức về vẻ đẹp tình yêu trong cuộc sống, qua đó tự rút ra bài học cho cá nhân.
II. Phương pháp, phương tiện.
- Phương pháp: Phát vấn, giảng bình, thảo luận nhóm, gợi mở.
- Phương tiện: SGK, GA, TBTG.
III. Tiến trình tổ chức giờ học:
- ÔĐTC:
- KTBC: Tình cảm của cháu giành cho người bà trong bài thơ Đò Lèn? Liên hệ bản thân em?
 - BM: *HĐ1: Khởi động: GV cho hoc sinh nghe bài hát Thuyền và biển nhạc Phan Huỳnh Điểu, thơ Xuân Diệu. Sau khi nghe xong. Gv hỏi; Bài hát viết về đề tài gì? Cảm nhận chung về bài hát? Sau đó dẫn vào bài học. 
HĐ giáo viên và học sinh
Yêu cầu cần đạt
*HĐ 2: Tìm hiểu chung
.- Gv: Nêu vài nét về tác giả XQ, đặc biệt là phong cách NT thơ?.
tác giả và hoàn cảnh ra đời bài thơ.
- HS đọc phần tiểu dẫn và trả lời câu hỏi.
- Gv: Bài thơ ra đời vào thời gian nào?
- Hs: trả lời dựa vào tiểu dẫn sgk.
*HĐ3: Đọc văn bản:
-Gv: Đọc giọng thơ suy tư chiêm nghiệm,băn khoăn day dứt, nồng nhiệt, chân thành.
Gọi 1.2 học sinh đọc. Gv nhận xét kết quả đọc Gv đọc 1 lượt.
Chú ý những từ khó cuối mỗi trang.
* HĐ4:Đọc hiểu văn bản.
-Gv: Hình tượng bao trùm, xuyên suốt bài thơ là hình tượng sóng. Mạch liên kết các khổ thơ là những khám phá liên tục về sóng. Hãy phân tích hình tượng sóng?
- Hs: trả lời cá nhân.
- Gv: nhận xét và chốt ý.
-Gv: Giữa sóng và em trong bài thơ có mối quan hệ ntn? Nhận xét về NT kết cấu của bài thơ?
- Hs: trả lời cá nhân.
- Gv: nhận xét và chốt ý.
- Gv: Chỉ ra sự tương đồng giữa trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đang yêu với những con sóng?
- Hs: trả lời cá nhân.
- Gv: nhận xét và chốt ý.
- Gv: Bài thơ là lời tự bạch của một tâm hồn phụ nữ đang yêu. Theo cảm nhận của anh (chị), tâm hồn người phụ nữ đó có đặc điểm gì? Tìm các BPNT được dùng để thể hiện tâm tư và cảm xúc của tác giả?
- Hs: trả lời cá nhân.
- Gv: nhận xét và chốt ý.
-Gv: Nhận xét về thể thơ, âm điệu, nhịp điệu bài thơ? Âm điệu, nhịp điệu đó được tạo nên bởi những yếu tố nào?
- Hs: trả lời cá nhân.
- Gv: nhận xét và chốt ý.
-Gv: Khơi gợi để phát huy cảm nhận riêng của mỗi HS.
-Gv: Cảm nhận hai khổ cuối của bài thơ?
- Hs: trả lời cá nhân.
- Gv: nhận xét và chốt ý.
*HĐ5: Kết thúc đọc hiểu.
Khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ?
HS trả lời các nhân.
Gọi 1,2 học sinh đọc to ghi nhớ trong SGK. Về nhà học thuộc ghi nhớ này.
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: Xuân Quỳnh (1942 - 1988) (SGK)
2. Bài thơ: 
- Sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). 
- Là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
- In trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).
II. Đọc văn bản:
Đọc và giải thích từ khó:
Bố cục:
Phần1: 2 khổ đầu: Nghĩ về đặc tính của sóng và tình yêu cua người con gái trẻ.
- P2: Khổ 3+4: Nghĩ về sóng và nguồn gốc của tình yêu.
- P3: Khổ 5,6,7: Nghĩ về sóng và nỗi nhớ của em, tình yêu thuỷ chung của em.
-P4: khổ:8,9: Nghĩ về sóng và khát vọng tình yêu của em.
III. Đọc hiểu văn bản:
1. Hình tượng “sóng” với khát vọng tình yêu:
- Bao trùm, xuyên suốt bài thơ là hình tượng “sóng”. “Sóng” là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hoá thân, phân thân của cái tôi trữ tình. Bài thơ được kết cấu trên cơ sở nhận thức sự tương đồng, hoà hợp giữa hai hình tượng trữ tình: “sóng” và “em” (cấu trúc song hành). “Sóng” và “em” tuy hai mà một, có lúc phân chia, có lúc hoà nhập ª sự phong phú, phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn nhưng thống nhất trong tâm hồn người con gái đang yêu. 
- Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lý đặc biệt của một tâm hồn khao khát yêu đương đang tìm đến một tình yêu rộng lớn hơn với nhiều trạng thái đối cực, khi dịu êm, khoan thai, khi dồn dập, dữ dội: Dữ dội - dịu êm, ồn ào - lặng lẽ (kết cấu đối lập, đặt từ cuối câu tạo điểm nhấn). 
- Trái tim người con gái đang yêu không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao có thể đồng cảm, đồng điệu với mình: “Sông không hiểu ... tận bể” ª quan niệm mới mẻ về tình yêu: người con gái khao khát yêu đương nhưng không nhẫn nhục, cam chịu, từ bỏ nơi chật hẹp để đến với cái cao rộng, bao dung. 
- Nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim, là khát vọng muôn đời của nhân loại, nhất là của tuổi trẻ. Cũng như sóng, nó mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian: “Ôi ...ngực trẻ”. 
 2. Tình yêu của “sóng”:
- Câu hỏi tu từ “Trước ... yêu nhau” ª tình yêu là một hiện tượng tâm lí tự nhiên, đầy bí ẩn, khó hiểu, khó giải thích về khởi nguồn và thời điểm bắt đầu của nó. Cách cắt nghĩa ty rất XQ - nữ tính và trực cảm. (Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao ... tình yêu?”). 
- Biện pháp NT nhân hoá + điệp từ, ngữ + điệp cú pháp + hình thức đối lập ª nỗi nhớ mãnh liệt của một trái tim đang yêu - ty luôn đồng hành với nỗi nhớ - nỗi nhớ thường trực cả khi thức, khi ngủ, bao trùm cả ko gian và thời gian - ko chỉ tồn tại trong ý thức mà còn len lỏi vào trong tiềm thức, xâm nhập vào cả giấc mơ. Nỗi nhớ cồn cào, da diết, ko thể nào yên, ko thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn, dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn - Thể thơ 5 chữ, ngắt nhịp linh hoạt, phóng túng, nhịp thơ là nhịp sóng (sóng biển - sóng lòng) dào dạt, sôi nổi, mãnh liệt: “Con sóng ... còn thức”. 
- Khát khao yêu đương của người con gái được bộc lộ mãnh liệt nhưng cũng thật giản dị: sóng khát khao tới bờ cũng như em luôn khát 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_cach_ren_luyen_su_sang_tao_cho_hoc.doc