Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn đọc cho học sinh chưa đạt chuẩn ở Lớp Một

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn đọc cho học sinh chưa đạt chuẩn ở Lớp Một

5. Mô tả bản chất của sáng kiến:

5.1. Tính mới của sáng kiến

Môn Tiếng Việt nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc hình thành

nhân cách tốt đẹp cho con người trong thời đại mới.

Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học là một môn chiếm phần lớn thời gian

trong chương trình học của trẻ. Việc đọc thông, viết thạo rất cần thiết đối với2

học sinh Tiểu học vì nó phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ và hoạt động giao

tiếp của các em. Muốn đọc thông thì các em phải học tốt phần âm, vần. Để nâng

cao chất lượng Giáo dục trong nhà trường Tiểu học, chúng ta phải không ngừng

đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh,

lấy học sinh làm trung tâm. Tổ chức giờ dạy một cách linh hoạt, sang tạo. Vận

dụng các trò chơi học tập để kích thích sự hứng thú của học sinh. Việc đổi mới

phương pháp, hình thức tổ chức dạy học kết hợp dạy học cá nhân với dạy học

theo nhóm làm cho học sinh tích cực trong học tập. Trong đó việc hỗ trợ học

sinh chưa đạt chuẩn là mục tiêu cơ bản hàng đầu, là mối quan tâm lớn nhất đối

với sự nghiệp Giáo dục hiện nay, đặc biệt là ở lớp một. Để khắc phục tình trạng

trên giáo viên cần phải phối kết hợp cùng Ban giám hiệu nhà trường và phụ

huynh học sinh đề ra kế hoạch cụ thể để giúp các em học tập tốt.

5.2. Nội dung sáng kiế

pdf 20 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 02/03/2022 Lượt xem 1171Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn đọc cho học sinh chưa đạt chuẩn ở Lớp Một", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
em đồng bào dân tộc STiêng cụ thể như sau: 
Năm học 
Tổng số học sinh Tổng số học sinh dân tộc 
Nam Nữ Nam Nữ 
2020 - 2021 14 18 4 7 
 Tuy nhiên cái khó khăn lớn nhất của tôi trong suốt các năm chủ nhiệm lớp 
Một là đa số học sinh của lớp là con của các gia đình có hoàn cảnh kinh tế còn 
khó khăn, các em không được qua lớp mẫu giáo. Năm học 2020 - 2021 do dịch 
bệnh Covid- 19 các em học sinh dân tộc không được học qua lớp ( Chuẩn bị 
Tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số trước khi vào lớp một) vì thế một số 
em chưa nói sõi Tiếng Việt. Trong lớp hơn 40% các em chưa nhận biết được các 
chữ cái. Bên cạnh đó đa số là con em gia đình lao động nghèo, lại đông con nên 
kinh tế càng khó khăn, bố mẹ các em là những người chuyên làm thuê kiếm 
sống hoặc làm rẫy xa nhà nên ít có thời gian dạy bảo con cái học hành cũng như 
quan tâm đến việc học tập của con mình. Đặc biệt học sinh lớp tôi chủ nhiệm 
năm học này nhiều em bố mẹ đã li dị: Điểu Minh Thiên, Vũ Hoàng Long, Lê 
Tiến Vũ, Nguyễn Gia Bảo, Nguyễn Minh Hoàng, Đặng Vũ Ngọc Giàu. Vì vậy 
các em phải ở với ông bà đã lớn tuổi nên việc dạy bảo các em học tập cũng gặp 
không ít khó khăn. 
 - Là học sinh tiếp thu bài chậm các em thường có tâm lý tự ti, mặc cảm. 
Hiểu cái mới chậm, quên nhanh cái vừa tiếp thu được. Quá trình ghi nhớ chậm 
chạp, không đầy đủ và thiếu chính xác. Dễ quên với cái gì không liên quan, 
không phù hợp với nhu cầu mong đợi của trẻ, khó nhớ những kiến thức có tính 
khái quát và thường nản lòng. Sự chú ý của các em còn hạn chế, các em còn lơ 
đãng không tập trung khi cô giảng bài. 
 * Về phía phụ huynh 
 Qua buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi nhận thấy đa số PHHS chưa nắm 
vững cách dạy cho con học ở nhà. Phụ huynh chưa nắm rõ cấu trúc của nội dung 
4 
các bài học trong SGK mới ( bộ sách Chân trời sang tạo) và cách dạy con đánh 
vần, ghép chữ theo chương trình học hiện nay, có phụ huynh còn hướng dẫn con 
cách ghép chữ theo lối học trước đây mà phụ huynh đã học.( âm x phụ huynh 
hướng dẫn các em đọc là ích xì, s đọc là ét sờ, ch đọc là xê hát) Một số phụ 
huynh nhận thức còn hạn chế, chưa hiểu rõ tầm quan trọng việc học tập của con 
em mình và cũng do tâm lý của phụ huynh còn phó mặc con em cho nhà trường 
nên chưa có sự quan tâm đúng mức, điều này ít nhiều dẫn đến việc học sinh học 
chưa hoàn thành môn Tiếng Việt và gây trở ngại trong công tác giảng dạy của 
tôi. 
 Từ những thực trạng nêu ở trên đã làm tôi suy nghĩ, tìm hiểu cũng như đề 
ra một số biện pháp cụ thể để thay đổi thực trạng nói trên. 
 5.2.2 Biện pháp thực hiện 
 5.2.2.1. Kết hợp với phụ huynh: 
 Trong buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm ngoài những trao đổi chung 
về đặc điểm tình hình của lớp, các quy định của lớp, của trường tôi còn dành 
một khoảng thời gian giới thiệu bộ SGK ( Chân trời sang tạo) lớp một chương 
trình Giáo dục phổ thông 2018 để giúp phụ huynh nắm được: 
 - Những điểm đổi mới và điểm trọng tâm của chương trình và SGK bộ 
sách ( Chân trời sáng tạo) lớp 1 nhất là môn Tiếng Việt. 
 - Cấu trúc và trình tự các bài học âm, vần, tập đọc trong SGK( Chân trời 
sáng tạo) lớp một. 
 + Yêu cầu của học sinh lớp một: Cần tập trung vào yêu cầu dạy đọc đúng, 
đọc trơn tiếng. Đây là một trong những kĩ năng trọng tâm của chương trình rèn 
đọc cho học sinh. 
 - Cách đánh vần chữ 
 Ngoài ra tôi còn đi sâu vào cách kiểm tra và hướng dẫn cho các em học ở 
nhà của phụ huynh học sinh. 
 Nếu phụ huynh thực hiện tốt cách dạy học ở nhà cho các em đó là đã góp 
một phần lớn trong việc giúp các em học tốt môn Tiếng Việt. 
 - Thường xuyên trao đổi với gia đình về tình hình học tập của các em để 
5 
được sự hỗ trợ của phụ huynh khi các em học ở nhà. 
 - Thường xuyên trao đổi với gia đình về tình hình học tập của các em để 
được sự hỗ trợ của phụ huynh khi các em học ở nhà. 
 Tôi thiết nghĩ nếu chúng ta biết phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ giữa gia 
đình và nhà trường thì dù các em có tiếp thu bài chậm hay không có ý thức học 
tập cỡ nào thì dưới tác động của gia đình và nhà trường nhất định việc học của 
các em sẽ dần tiến bộ. 
 5.2.2.2. Đối với giáo viên chủ nhiệm: 
 Trước tiên là giáo viên phải nhiệt tình, thật sự tha thiết với trò, say mê đưa 
các em thoát khỏi tình trạng chán học. Chính sự tâm huyết đó tôi đem hết năng 
lực ra giảng dạy, vượt mọi khó khăn, vất vả và nhẫn nại, chịu khó đầu tư soạn 
giảng đổi mới phương pháp cho thích hợp với trình độ của các em tạo sự lôi 
cuốn, hấp dẫn để các em ham học và cố gắng học tập. 
 - Tôi trao đổi, tiếp xúc với các em để tìm hiểu tâm lí cũng như tìm hiểu 
hoàn cảnh gia đình của các em ( nhất là đối với các em có hoàn cảnh khó khăn, 
đặc biệt là các em cá biệt). Từ đó có sự tác động kịp thời và có phương pháp dạy 
thích hợp với từng em. 
 - Trong quá trình học phải luôn điều chỉnh thời gian hợp lý giữa học tập, 
vui chơi và nghỉ ngơi thư giãn. Thường xuyên thay đổi hoạt động tránh gây căng 
thẳng cho trẻ. 
 - Với những em làm sai điều gì không nên trách phạt mà chủ yếu là động 
viên và tìm điểm tốt của các em để khen ngợi trước lớp, tạo cho các em cảm 
giác được yêu thương và che trở khiến các em tự tin và vươn lên trong học tập. 
 - Kiểm tra kiến thức của các em hằng ngày để kịp thời hỗ trợ, bổ sung kiến 
thức mà các em mất căn bản, tránh để quá lâu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tiếp 
thu kiến thức sau này. 
 - Xem xét và lựa chọn phương pháp giảng dạy từng bài trước khi đến lớp. 
 - Trong tiết dạy tôi thường vận dụng hết sức linh hoạt, sáng tạo các phương 
pháp nhằm giúp các em dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu như: Sử dụng hình ảnh trực 
6 
quan như vật thật, mô hình, tranh ảnh, hình vẽ để giúp học sinh tăng vốn từ và 
luyện phát âm cho học sinh mọi lúc, mọi nơi. 
 - Trong quá trình học tập luôn luôn chú ý theo dõi, phát hiện những cố 
gắng tiến bộ để tuyên dương, khen thưởng các em trước lớp nhằm động viên 
tinh thần học tập và khuyến khích các bạn khác cố gắng noi theo. 
 - Giáo dục học sinh lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói 
quen làm việc với sách cho học sinh. Thông qua việc đọc phải làm cho các em 
thích đọc và thấy được khả năng đọc là có ích cho các em trong cả cuộc đời. 
Phải làm cho các em học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để 
tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. 
 5.2.2.3 Chú trọng việc xác định mục tiêu: 
 - Bước đầu là tôi xác định mục tiêu của môn học: môn Tiếng Việt lớp 1 
chương trình Giáo dục phổ thông 2018 là 
 + Hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu năng lực chung và những 
năng lực đặc thù của môn học: Như năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học; rèn 
luyện các kĩ năng: đọc, viết, nói, nghe. 
 + Cung cấp cho học sinh những kiến thức về ngôn ngữ nói và ngôn ngữ 
viết, chú ý hơn đó là ngôn ngữ đọc. 
 5.2.2.4 Xác định và nắm vững nội dung: 
 Sau khi đã xác định được mục tiêu tôi đi vào phần nội dung: 
 a. Phần âm: 
 Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc 
từng chữ cái thì mới ghép được các chữ vào với nhau để thành tiếng, các tiếng 
đơn ghép lại với nhau tạo thành từ và thành câu. 
 Giai đoạn này tôi dạy cho trẻ phân tích từng nét chữ cơ bản trong từng chữ 
cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều kiểu viết khác nhau hay 
gặp trong sách báo như: chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận 
biết đó là: chữ a, chữ g để khi gặp kiểu chữ đó trong sách báo trẻ dễ hiểu và 
không bị lúng túng. 
 Ví dụ: 
7 
 Âm: a - a , g - g. 
 + Âm a gồm hai nét: nét tròn nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải; a 
cũng gồm nét tròn và nét móc trên. 
 + Âm g gồm : nét kín và nét móc dưới; g gồm nét cong kín nối với nét 
cong phải. 
 Từ việc học kỹ cấu tạo âm tạo bởi các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ 
giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của bốn âm sau: d; 
b; p; q. 
 Ví dụ: 
 + Âm d gồm hai nét: nét cong kín nằm ở bên trái và nét sổ thảng nằm bên 
phải. đọc là: “ dờ “. 
 + Âm b gồm hai nét: nét cong phải nằm ở bên phải và nét sổ thẳng nằm ở 
bên trái. đọc là: “ bờ “. 
 Sang phần âm ghép nghĩa là âm gồm hai âm đơn ghép lại với nhau. Tôi 
cũng dạy thật kĩ và cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một 
nhóm để nói lên được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó. 
 + Ví dụ cụ thể: 
 Dạy âm: ch- kh ( Bài 4 trang 36) chủ đề: Đi chợ 
(TIẾT 1) 
 Muốn học sinh đọc được, viết được chữ ghi âm ch thì ở các bài âm c và h 
học sinh phải nắm vững. 
 Tiến trình lên lớp:( ch ) 
HOẠT ĐỘNG CỦA GV HOẠT ĐỘNG CỦA HS 
*Bài mới 
1. Khởi động 
- GV giới thiệu tranh SGK/36 
- YCHS quan sát tranh và trả lời câu hỏi 
theo gợi ý: 
+ Nêu những gì em thấy trong tranh? 
- HS mở SGK/36 
- HS nêu CN 
8 
- GV ghi nhanh lên bảng các tiếng: (chậu, 
chổi, chuối) 
+ Em hãy nêu những điểm giống nhau của 
các tiếng : chậu, chổi, chuối 
- GV nhận xét, tuyên dương 
- GV giới thiệu tên bài, ghi tựa 
2.Nhận diện âm chữ mới, tiếng có âm chữ 
mới. 
*: Nhận diện âm chữ ch 
- GV giới thiệu chữ ch 
- Âm ch có mấy âm ghép lại? 
- GV đọc mẫu 
- YCHS đọc 
3. Đánh vần tiếng khóa, đọc trơn từ khóa 
- Bước 1: Đánh vần, đọc trơn tiếng chợ 
- GV giới thiệu tranh cuối bên trái SGK/36 
- YCHS nêu tranh vẽ gì? 
- GV nhận xét rút ra tiếng : chợ 
- GV giới thiệu tiếng chợ trong mô hình 
tiếng 
ch ơ 
 chợ 
- YCHS phân tích tiếng chợ 
- YCHS đánh vần chợ 
- YCHS đọc trơn chợ 
- YCHS đọc mô hình tiếng chợ 
- Nêu âm mới vừa học trong tiếng chợ? 
- Nhận xét, tuyên dương 
- HS nêu: đều có âm ch 
- HS quan sát 
- Có 2 âm: (âm c và âm h ghép 
lại) 
- HS lắng nghe 
- HS đọc (CN-ĐT) 
- HS quan sát 
- HS nêu CN 
- HS quan sát 
- HS phân tích CN 
- HS đọc CN-ĐT 
- HS đọc CN- ĐT 
- HS đọc CN-ĐT 
- Âm ch 
9 
(TIẾT 2) 
 Chủ yếu rèn kĩ năng đọc của tiết 1 . 
 Luyện đọc từ, câu: rèn thêm về cách ngắt, nghỉ hơi trong câu. Tìm tiếng 
ứng dụng có trong câu. 
 Không để học sinh đọc vẹt (cho các em học yếu đánh vần và đọc không 
theo thứ tự). 
 Tổ chức đọc theo nhóm kèm lẫn nhau: giáo viên theo dõi, giúp đỡ và nhắc 
nhở học sinh 
 Hoạt động mở rộng: Luyện nói theo tranh bằng những câu hỏi gợi ý mở 
rộng. 
* Giới thiệu chữ kh( tương tự chữ ch 
* Yêu cầu HS so sánh: ch- kh 
4. Tập viết 
Bước 1: Tập viết vào bảng con 
- GV giới thiệu chữ mẫu ch, kh, chợ, khế 
- GV viết mẫu nêu quy trình viết 
- Theo dõi, HDHS 
Bước 2: Viết vở tập viết 
- GV giới thiệu bài viết trong VTV 
- GV nêu YC tập viết 
- Nhắc nhở HS tư thế ngồi viết. 
- YCHS viết VTV 
- Thu một số vở kiểm tra, nhận xét, tuyên 
dương. 
5. Củng cố : Yêu cầu HS tìm thêm tiếng, từ 
có chứa âm ch, kh 
- Nhận xét, tuyên dương 
- Nhận xét tiết 1 
- Giống nhau âm h đứng cuối, 
khác âm c,k đứng đầu 
- HS quan sát 
- HS viết BC 
-HS mở vở, quan sát 
- HS lắng nghe 
- HS viết vở 
- HS tìm, nêu CN 
10 
 - Khi học sinh đã nắm vững phần âm tôi cho học sinh sắp xếp các âm có 
âm h đứng sau thành một nhóm để nói lên được sự giống nhau và khác nhau của 
các âm đó. 
 Ví dụ: 
 + Các âm ghép: 
 ch - c 
 nh - n 
 th - t 
 kh - k 
 gh - g 
 ph - p 
 ngh - ng 
 + Còn lại các âm: gi, tr, q, ng, tôi cho học thật kỹ cấu tạo và cách ghép chữ. 
 + Phân từng cặp: ch-tr, ng-ngh, c-k, g-gh để phát âm chính xác và viết 
chính tả phân biệt.... 
 Trong từng ngày, từng bài ôn tôi đã nghĩ ra được một số bài để kiểm tra sự 
nhận thức của trẻ thông qua các giờ chơi, các giờ nghỉ. Từ đó, củng cố thêm 
kiến thức về từ ngữ, câu văn cho trẻ tránh sự đơn điệu của các bài ôn tập trong 
sách. Vì những bài ôn này ở trong sách được lặp đi lặp lại làm cho học sinh tiếp 
thu một cách nhàm chán nên tôi đã thay vào phần trò chơi trong tiết hai của bài 
ôn là những bài mà tôi tự nghĩ và viết ra phiếu. Có thể phiếu chỉ là một từ gồm 2 
hoặc 3 tiếng cũng có thể là một câu văn. Song những từ và câu văn này phải có 
nghĩa và mang tính giáo dục. 
 Cả trong những khi kiểm tra bài có thể là bảng con cũng có khi là phiếu 
cho học sinh lên bốc thăm rồi đọc lên. Bảng và phiếu là những từ chỉ có âm, vần 
mới học xong, từ đó không lấy trong sách ra. Vì nếu học sinh đã thuộc mặt chữ 
rồi thì bất kỳ một từ mới nào trẻ cũng đọc được. Đến khi học sinh viết chính tả 
vào bảng con, tôi cũng không đọc cho học sinh viết những tiếng và từ đã có sẵn 
trong bài. Thông qua phần xây dựng tiếng, từ mới trẻ được hiểu biết thêm nhiều 
11 
từ và ý nghiã của các từ mà trẻ tìm đựơc của hôm trước nay viết vào bảng. Do 
đó phong trào tìm tiếng, từ mới học sinh rất hào hứng và phấn khởi tham gia sôi 
nổi nhiệt tình. Những đọan văn hay bài văn mang tính chất: 
 - Cung cấp kiến thức về âm, vần, tiếng. 
 - Hợp thành đoạn hay bài văn có nội dung mang tính giáo dục đạo đức, tư 
tưởng cho học sinh theo chủ điểm các đợt thi đua như kỷ niệm các ngày lễ: 8/3, 
26/3, 15/5, 19/5, 22/12... để xây dựng bài cho học sinh đọc. 
 b. Phần vần: 
 Sau khi học sinh nắm chắc phần âm, việc dạy cho học sinh ghép vần đóng 
vai trò hết sức quan trọng. Nếu không chú trọng phần dạy vần thì việc ghép vần 
của học sinh chỉ dừng lại ở chỗ là đánh vần, lên lớp 2, 3, 4, 5 thậm chí nhiều em 
vẫn đánh vần. Làm thế nào để giúp học tốt phần vần tôi xin minh họa kế hoạch 
bài dạy cụ thể sau: 
 Ví dụ cụ thể: 
 Dạy vần: â- âu ( Bài 3 trang 74) chủ đề Thể thao 
(TIẾT 1) 
 Muốn học sinh đọc được, viết được âu thì ở bài âm u học sinh phải nắm 
vững. 
 Tiến trình lên lớp: (â- âu) 
HOẠT ĐỘNG CỦA GV 
* Bài mới. 
1.Khởi động 
- GV giới thiệu tranh SGK 
- YCHS quan sát tranh và trả lời câu hỏi 
theo gợi ý: 
+ Nêu những gì em thấy trong tranh? 
- GV ghi nhanh lên bảng các tiếng: cây 
cầu, cầu trượt, đá cầu, đấu vật 
+ GV nêu những tiếng : cầu, vật đều vần 
âu hôm nay chúng ta học 
HOẠT ĐỘNG CỦA HS 
- HS mở SGK 
- HS nêu CN 
- HS quan sát 
12 
- GV giới thiệu tên bài, ghi tựa 
2.Nhận diện vần, tiếng có vần mới. 
*Nhận diện âm â, vần âu 
- GV giời thiệu âm â 
- GV đọc mẫu 
- Yêu cầu HS đọc 
- GV giới thiệu vần âu 
- GV đọc mẫu âu 
- Vần âu có mấy âm ghép lại 
3. nhận diện và đánh vần mô hình 
tiếng 
GV viết mô hình tiếng lên bảng 
c âu 
cầu 
- YCHS phân tích tiếng cầu 
- YCHS đánh vần theo mô hình 
4. Đánh vần tiếng khóa, đọc trơn từ 
khóa 
- Giáo viên giới thiệu tranh rút ra từ khóa 
đá cầu 
- YCHS tìm tiếng có vần vừa học 
-YCHS đánh vần tiếng cầu 
-YCHS đọc trơn từ: đá cầu 
- GV giải nghĩa từ: đá cầu 
5. Tập viết 
5.1: Tập viết vào bảng con: â-âu, đá cầu 
- GV viết mẫu nêu quy trình viết 
-YCHS viết BC 
- Theo dõi, HDHS 
- HS lắng nghe 
- HS đọc CN- ĐT 
- HS quan sát 
- HS đọc CN-ĐT 
- HS: vần âu có 2 âm, âm â và âm 
u;( âm â đứng trước, u đứng sau) 
- HS quan sát 
- HS phân tích CN 
- HS đọc CN- ĐT 
- HS quan sát 
- HS nêu: cầu 
- HS đọc CN-ĐT 
-HS đọc CN-ĐT 
- HS lắng nghe 
- HS theo dõi 
-HS viết BC 
-HS mở vở, quan sát 
- HS lắng nghe 
13 
5.2: Viết vở tập viết 
- GV giới thiệu bài viết trong VTV 
- GV nêu YC tập viết 
- Nhắc nhở HS tư thế ngồi viết. 
- YCHS viết VTV 
- Thu vở một số vở kiểm tra, nhận xét, 
tuyên dương. 
6. Củng cố- Dặn dò 
- Tổ chức cho HS chơi: Đố bạn, làm bài 
tập điền vần (hoặc từ có vần đang học) 
VD: Đưa tranh, ảnh con gấu, quả bầu, 
cái cầu, quả dâu 
- Yêu cầu học học sinh viết tiếng có 
vần âu 
ổ chức thi tìm tiếng có vần mới 
Nhận xét, tuyên dương 
Nhận xét tiết 1 
- HS viết vở 
- Làm theo nhóm 
- HS tìm, nêu CN 
 d. Giúp học sinh làm quen với chữ hoa: 
 Vì ở lớp một sang học kì II mới được học tô chữ hoa nhưng từ đầu năm các 
em đã được làm quen với chữ hoa rồi. Nên tôi giúp học sinh làm quen với chữ 
hoa trong các câu văn; đoạn thơ; luyện cho học sinh nhận biết và đọc chữ hoa 
sau dấu chấm, các danh từ riêng tên gọi. 
 5.2.2.5 Tổ chức tốt đôi bạn cùng tiến: 
 Ông cha ta đã dạy" Học thầy không tày học bạn ". 
Ngay từ đầu năm học tôi đã phân loại học sinh và sắp xếp chỗ ngồi cho các em 
 một cách hợp lý, ngồi xen kẽ giữa học sinh đạt chuẩn hoặc trên chuẩn với học 
sinh chưa đạt chuẩn thành từng cặp. Sau đó giáo viên giao nhiệm vụ cho những 
em đạt chuẩn hoặc trên chuẩn phải giúp đỡ các bạn chưa đạt chuẩn và kiểm tra 
bài của các bạn vào trước mỗi buổi học. Đồng thời tôi cũng thường xuyên kiểm 
14 
tra các em để đánh giá sự tiến bộ của các em như thế nào để có biện pháp giảng 
dạy các em tốt hơn, nhằm củng cố cho các em về kiến thức một cách vững vàng 
hơn. 
 5.2.2.6. Khuyến khích tinh thần tự học và khơi gợi sự hứng thú của 
học sinh: 
 Tất cả những công việc trên là sự hướng dẫn của giáo viên nhưng có học 
tốt hay không thì còn phải phụ thuộc rất nhiều vào sự cố gắng của trò. Giáo viên 
phải biết khơi gợi cho các em tính nhẫn nại, kiên trì, chịu khó học tập, làm bài 
đầy đủ theo sự hướng dẫn và yêu cầu của giáo viên thì mới đạt hiệu quả. Vì vậy 
ngoài việc cung cấp kiến thức tôi còn phải chỉ cho các em phương pháp học tập 
để có điều kiện học tiến bộ, thoát khỏi tình trạng đọc chậm: 
 + Các em phải thường xuyên luyện đọc, luyện viết theo yêu cầu của giáo 
viên. 
 + Chỗ nào không biết, không rõ thì hỏi bạn bè, trực tiếp hỏi giáo viên. Ở 
nhà thì hỏi cha mẹ, anh (chị), 
 Không lười biếng, không nghỉ học, không học thuộc theo kiểu học vẹt. Phải 
tự tin, khi đọc phải đọc to để phát hiện đúng hoặc đọc chưa chính xác mà sửa 
chữa. 
 + Giáo dục các em có tính tự giác học tập, nhận thức được tầm quan trọng 
của môn Tiếng Việt lớp một. 
 + Sắp xếp thời gian học môn Tiếng Việt nhiều hơn các môn học khác, 
không nên ỷ lại thầy cô, bạn bè hay là cha mẹ. 
 5.2.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến: 
 - Sáng kiến này áp dụng cho học sinh lớp một trường Tiểu học- THCS 
Thanh Phú nói riêng và toàn thể học sinh lớp một trong tỉnh Bình Phước nói 
chung. 
 6. Những thông tin cần được bảo mật: Không có 
 7.Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 
 - Để áp dụng sáng kiến này thì trước hết giáo viên tâm huyết với nghề, 
15 
nhiệt tình trong giảng dạy, có năng lực truyền thụ kiến thức tốt, yêu thương học 
sinh như chính con mình. Sự nỗ lực của học sinh trong học tập. Ngoài ra cơ sở 
vật chất, trang thiết bị dạy học là những điều kiện không thể thiếu trong việc 
giảng dạy cho các em. 
 8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng 
sáng kiến theo ý kiến của tác giả: 
 - Dưới sự giảng dạy kỹ, hướng dẫn tận tình của thầy và sự nỗ lực của trò, 
phương pháp học tập đúng đắn, các em chịu khó, kiên trì nên kết quả học tập 
được nâng lên rõ rệt. 
 Sau đây là kết quả học tập của các em 
Đầu năm học 2020-2021 
MỨC ĐỘ TSHS ĐẦU NĂM 
HỌC 
TS % 
Nhận biết được các âm, đọc đúng tốc độ, phát âm 
chính xác. 
32 
8 
25 
Nhận biết được một số âm nhưng có âm phát âm 
chưa chính xác. 
32 
10 
31.3 
Chưa nhận biết các âm 
32 
14 
43.7 
Học kì I năm học 2020-2021 
MỨC ĐỘ TSHS Học kì I 
TS % 
Nhận biết được các âm vần, biết đọc trơn và đọc 
đúng tốc độ, phát âm chính xác. 
32 
15 
46.9 
Nhận biết được các âm, vần nhưng đọc trơn còn 
16 
chậm . 32 14 43.7 
Nhận biết được các âm, vần đã học nhưng đọc còn 
rất chậm phải đánh vần 
32 
3 
9.4 
 Với những kết quả đã đạt được như trên tôi cũng rút ra một số bài học kinh 
nghiệm như sau: 
 - Ngay từ đầu năm học, giáo viên phải kiểm tra khả năng tiếp thu bài của 
các em để phân loại trình độ học sinh . 
 - Tìm hiểu và theo dõi sự phát triển tâm lí của từng đối tượng học sinh. Để 
từ đó tìm ra nguyên nhân cùng những biểu hiện của những em học chưa tốt môn 
Tiếng Việt phần đọc. 
 - Lập kế hoạch và đề ra các biện pháp hỗ trợ cụ thể, rõ ràng: Khi đến lớp 
phải nghiên cứu kĩ mục tiêu bài dạy để đề ra phương pháp và hình thức dạy học 
thích hợp. 
 - Vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với từng nhóm đối tượng học 
sinh. Đặc biệt học sinh nào hổng kiến thức chỗ nào thì giáo viên phải dạy lại nội 
dung đó . 
 - Tổ chức các giờ dạy một cách linh hoạt. 
 - Trong giảng dạy giáo viên phải nhẹ nhàng, kiên trì, chịu khó, biết động 
viên kịp thời khi các em tiến bộ . 
 - Trong quá trình rèn đọc cho các em chú ý cho học sinh đọc cá nhân nhiều, 
phát huy tính tích cực c

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbien_phap_ren_doc_cho_hoc_sinh_chua_dat_chuan_o_lop_mot.pdf