Đề tài Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

Đề tài Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

So sánh là một biện pháp nghệ thuật có chức năng nhận thức, chức năng biểu cảm, cảm xúc và có cấu tạo đơn giản nên được dùng nhiều trong tiếng Việt: trong lời nói hàng ngày, trong văn chính luận cũng như trong lời nói nghệ thuật. Cái tài tình của nhà văn, nhà thơ là phát hiện ra được nét giống nhau một cách chính xác, bất ngờ mà người khác không nhận thấy hoặc không để ý đến. Ví dụ: “Những thân cây tràm vươn thẳng lên trời như những cây nến khổng lồ” (Đoàn Giỏi). “So sánh” là một nội dung được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3, các kiến thức được cung cấp cho học sinh thông qua hệ thống bài tập không lý thuyết nên hệ thống dữ liệu được lựa chọn phải thực sự chính xác cho học sinh. Nội dung so sánh được cung cấp cho học sinh thông qua hệ thống bài tập thực hành với mục tiêu cụ thể là: Học sinh nhận biết biện pháp so sánh bao gồm hình ảnh so sánh, các kiểu so sánh: ngang bằng, hơn kém; sự vật - sự vật, âm thanh - âm thanh, hoạt động - hoạt động, từ so sánh, phương tiện so sánh trong các bài học trong ngôn từ nói hàng ngày, kể cả lời nói của chính các em. Rèn luyện kỹ năng sử dụng biện pháp so sánh trong giao tiếp.

Như vậy trong Luyện từ và câu lớp 3 so sánh bước đầu được đưa vào thông qua sách giáo khoa, qua các ví dụ và bài tập thực hành giúp cho học sinh cảm nhận, gây hứng thú và từ đó tìm ra được kiến thức mới để áp dụng trong nói và viết hàng ngày.

Các kiến thức trong phân môn Luyện từ và câu nói chung trong dạy học kiểu bài so sánh nói riêng được cung cấp qua hệ thống bài tập nên áp dụng nguyên tắc trực quan trong quá trình dạy học là hết sức cần thiết. Với mỗi bài tập giáo viên có thể chép sẵn ngữ liệu hoặc đáp án ra bảng phụ trước khi bước vào giờ học và sử dụng bảng phụ hợp lý với tiến trình giờ học. Sau khi đã yêu cầu học sinh làm bài tập cá nhân hoặc theo nhóm giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng chữa trực tiếp, có thể dùng giấy khổ to để ghi lại nội dung bài tập, nếu bảng phụ không đủ. Tương tự như bảng phụ và giấy khổ to, các bảng giấy hoặc thẻ từ ghi sẵn ngữ liệu cũng là những đồ dùng dạy học hiệu quả nên được sử dụng linh hoạt trong tiết Luyện từ và câu. Đặc biệt ngày nay công nghệ thông tin đang phát triển chúng ta có thể áp dụng trong dạy kiểu bài so sánh bằng cách đưa ra các hình ảnh động hoặc tranh ảnh để học sinh cảm nhận rõ sự giống và khác nhau giữa các sự vật. Từ đó các em sẽ dễ dàng so sánh sự vật một cách chính xác, chắc chắn giờ học sẽ sinh động và hiệu quả. Tuy nhiên giáo viên cần phải biết sử dụng khéo léo hợp lý đồ dùng với từng bài tập, không quá lạm dụng hình ảnh. Ngoài ra trong quá trình dạy học giáo viên có thể thiết kế và sử dụng phiếu bài tập nhằm thay đổi hình thức tổ chức dạy học, tạo hứng thú cho các em trong giờ học. Chẳng hạn có thể thiết kế phiếu bài tập cho tiết Luyện từ và câu.

 

doc 27 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 11958Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đạt hiệu quả cao trong hoạt động giao tiếp hàng ngày, bước đầu cung cấp cho học sinh một số kỹ năng sơ giản về từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt.
Giáo viên luôn ý thức quan tâm, chăm chút học sinh trong từng tiết học. Với mỗi loại bài tập, giáo viên nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy để lựa chọn và tổ chức những hình thức luyện tập sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, luôn động viên khuyến khích, khơi gợi ở học sinh trí tưởng tượng, óc sáng tạo. Môn Luyện từ và câu với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng củng cố lý thuyết biết cách dùng từ so sánh, biết phân biệt, biết cách so sánh tu từ và ở nhiều thể loại bài tập khác nhau. Vì vậy, giáo viên không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp dạy học phù hợp mục tiêu dạy và học để dẫn dắt rèn luyện học sinh thực hành những bài tập một cách độc lập, sáng tạo.
Trong việc rèn kĩ năng nói - viết cho học sinh, giáo viên có đầu tư nghiên cứu mục tiêu các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù họp từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư chưa sâu nên hiệu quả dạy học phân môn Luyện từ và câu chưa cao. Một số bài trong chương trình đề ra chưa gần gũi với học sinh. Dụng cụ trực quan thiếu, giáo viên chỉ nói suông nên học sinh không hiểu, không nắm bắt được thông tin vì vậy bài làm không đạt hiệu quả cao.
Học sinh chưa có hứng thú học tập phân môn này. Đa số các em đều cho rằng Luyện từ và câu là môn học khó. Một số kiến thức còn trừu tượng, khó hiểu, phần lý thuyết cũng không có, học sinh chỉ được hiểu qua những bài tập làm mẫu của giáo viên rồi cảm nhận và làm các bài tập còn lại vì thế học sinh thường ngại học phân môn này.
Chất lượng phân môn Luyện từ và câu đầu năm rất thấp, học sinh chưa biết làm những bài tập có ý tưởng phong phú, sáng tạo mà chỉ biết trả lời theo câu hỏi gợi ý. Đấy là vấn đề nan giải đòi hỏi giáo viên phải có biện pháp thích hợp để từng bước giảng dạy đạt kết quả.
Giải pháp, biện pháp
Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Tổ chức cho học sinh làm quen và tập diễn đạt giữa những điều nhỏ nhất trong từng tiết học với cuộc sống, giao tiếp, đối nhân xử thế hàng ngày, đặc biệt nó có thể liên hệ với tính chất liên kết các phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện, Tập viết, Tập làm văn,... Điều này quả thật là có giá trị vô cùng lớn trong việc thông qua học mà giáo dục được con người, hình thành nhân cách đúng với yêu cầu cấp bách của xã hội ngày nay. Đồng thời còn hình thành và rèn luyện cho các em bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tốt tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt.
Ngoài ra còn giúp các em trau dồi thêm vốn ngôn từ cho bản thân để vận dụng trong giao tiếp hàng ngày, biết trình bày nội dung cần thiết trước tập thể. Mà thiết thực nhất vẫn là để làm được bài tập ở các dạng so sánh trong phân môn Luyện từ và câu rõ ràng, rành mạch, lôgic.
Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
Nội dung
Nội dung chương trình: Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu đề tài, tôi thống kê phân tích các hướng nghiên cứu biện pháp so sánh trong phân môn Luyện từ và câu của chương trình sách giáo khoa lớp 3 phục vụ cho việc giảng dạy. Kiến thức lý thuyết về so sánh tu từ được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3 ở phân môn Luyện từ và câu. Toàn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập I đã dạy về so sánh gồm 8 bài với các mô hình sau: Mô hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật. Mô hình 2: So sánh Sự vật - Con người. Mô hình 3: So sánh Hoạt động - Hoạt động. Mô hình 4: So sánh Âm thanh - Âm thanh. Tác giả sách giáo khoa đã giúp học sinh nhận diện dạng, loại và phân biệt hiệu quả so sánh qua các dạng bài tập.
Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Tùy theo nội dung, yêu cầu của mỗi đơn vị và từng đối tượng học sinh, giáo viên có thể áp dụng các biện pháp hoặc một biện pháp chủ đạo kết hợp với một số biện pháp bổ trợ khác, về cơ bản tôi thấy có một số biện pháp sau:
Phân biệt kiểu so sánh phân môn Luyện từ và câu lớp 3:
Trong sách giáo khoa có ít bài tập sáng tạo, kiến thức còn mang tính trừu tượng nên giáo viên cần phải sưu tầm nhiều dạng bài sáng tạo và kiến thức cụ thể nói theo tình huống. Vì khi giáo viên đưa lệnh bài tập cần rõ ràng để học sinh hiểu được mục đích yêu cầu của bài tập. Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng Việt người giáo viên cần lồng ghép giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với nhau như khi dạy bài Tập đọc: “Hai bàn tay em” (Trang 7- Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 - Tập I), trong bài này có rất nhiều hình ảnh tu từ so sánh giáo viên cần nhấn mạnh để gây hứng thú cho tiết tiếp theo của môn Luyện từ và câu. Để học sinh học tốt môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu, dạng bài tu từ so sánh học sinh cần nắm và làm theo các yêu cầu sau: Đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài sau đó mới làm bài. Muốn học sinh của mình có một kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh vững vàng đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn các dạng bài tập về kiểu bài so sánh như:
Mô hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật.
Ví dụ: Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây: 
 	“Hai bàn tay em 
	 Như hoa đầu cành”
 (Huy Cận)
 “Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch”
 (Vũ Tú Nam)
“Cánh diều như dấu á
 Ai vừa tung lên trời"
 (Lương Vĩnh Phúc)
 	“Ơ cái dấu hỏi
 Trông ngộ ngộ ghê
 Như vành tai nhỏ
 Hỏi rồi lắng nghe”
 (Phạm Như Hà)
Để làm tốt bài tập này học sinh phải nắm chắc các từ chỉ sự vật, từ đó các em sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên là:
“Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành”.
“Mặt biển” so sánh với “tấm thảm khổng lồ”.
“Cánh diều” so sánh với “dấu á”
“Dấu hỏi” so sánh với “vành tai nhỏ”.
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với “hoa đầu cành”? Lúc đó giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn: Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa (Cho học sinh quan sát tranh ảnh để các em dễ nhận thấy điếm giống nhau).
Hay vì sao nói “Mặt biển” như “tấm thảm khổng lồ”? Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp; Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
 (Giáo viên có thể giới thiệu hình ảnh “Cánh diều” và vẽ lên bảng “dấu á”) để học sinh quan sát, so sánh.
Dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai. (Giáo viên có thể cho học sinh nhìn vào vành tai bạn hoặc cho học sinh quan sát tranh).
	b) Mô hình 2: So sánh Sự vật - Con người.
 * Ví dụ: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây:
“Trẻ em như búp trên cành
 Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”
(Hồ Chí Minh)
“Bà như quả ngọt chín rồi
 Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng”.
(Võ Thanh An)
Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con người nhưng các em chưa giải thích được “Vì sao?”. Chính vì thế điều đó giáo viên giúp học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn: “Trẻ em” giống như “búp trên cành”. Vì đều là những sự vật còn tươi non đang phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng. Bà sống đã lâu, tuổi đã cao giống như “quả ngọt chín rồi” đều phát triển đến độ già dặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng.
Mô hình 3: So sánh Hoạt động - Hoạt động
Ví dụ: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau:
“Con trâu đen lông mượt
 Cái sừng nó vênh vênh
 Nó cao lớn lênh khênh
 Chân đi như đập đất”
 (Trần Đăng Khoa)
Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. 
Chẳng hạn: Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đập đất” qua từ “như”.
“Cau cao, cao mãi
 Tàu vươn giữa trời 
 Như tay ai vẫy 
 Hứng làn mưa rơi”
 (Ngô Viết Dinh)
	Dạng bài tập yêu cầu học sinh tạo lập các hình ảnh, các câu thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh dựa trên ngữ liệu có sẵn hoặc một phần do học sinh phải tự tạo lập.
Hoạt động “vươn” của tàu lá cau giống hoạt động “vẫy” tay của con người.
 “Con mẹ đẹp sao
 Những hòn tơ nhỏ
 Chạy như lăn tròn
 Trên sân trên cỏ”
Hoạt động “chạy” so sánh với hoạt động “lăn tròn” qua từ “như”. Hoạt động chạy của những chú gà con được miêu tả giống như hoạt động lăn tròn của những hòn tơ nhỏ. Đó là miêu tả bằng cách so sánh. Có thể miêu tả bằng cách so sánh như vậy vì chú gà con thường có lông màu vàng óng như tơ, thân hình lại tròn nên các chú chạy giống như những hòn tơ đang lăn.
Mô hình 4: So sánh Âm thanh - Âm thanh
Ví dụ: Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ, văn dưới đây:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
 Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”
(Nguyễn Trãi)
Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ “như”. Chẳng hạn:
“Tiếng suối” được so sánh với “tiếng đàn cầm” qua từ “như”.
 Ngoài các mô hình so sánh trên học sinh còn được làm quen với kiểu so sánh: Ngang bằng và không ngang bằng (hay còn gọi là so sánh hơn kém). So sánh ngang bằng dùng các từ so sánh: như, là, tựa, như thể...
Ví dụ: “Nhìn từ xa những mảng tường vàng, ngói đỏ như những cánh hoa lấp ló trong cây”.
Cũng có khi so sánh ngang bằng không dùng từ so sánh mà dùng dấu câu như dấu gạch ngang, dấu hai chấm.
 Ví dụ:	“Thân dừa bạc phếch tháng năm
 Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao
Đêm hè, hoa nở cùng sao
 Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.”
 (Trần Đăng Khoa)
Hay:	“Đồng ruộng: vựa thóc thơm”
 (Phạm Hổ)
So sánh không ngang bằng dùng các từ so sánh: hơn, kém, chẳng bằng ... 
Ví dụ:	“Những ngôi sao thức ngoài kia
 Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con”
 (Trần Quốc Minh)
Hay:	“Bế	cháu	 ông 	thủ 	thỉ
Cháu khỏe hơn ông nhiều!
Ông là buổi trời chiều
Cháu là ngày rạng sáng”
 (Phạm Cúc)
“Trăng khuya sáng hơn đèn”
 (Trần Đăng Khoa)
Các dạng bài tập về biện pháp so sánh học sinh phải nhận diện được những sự vật được so sánh, những hình ảnh so sánh những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu. Cảm nhận và nêu được tác dụng của so sánh.
Tập đặt câu dùng hình ảnh so sánh (dựa vào các bức tranh để đặt câu)
Ví dụ: Bài tập 3/trang 126. 
Dựa vào bức tranh mặt trăng và quả bóng, giáo viên hướng dẫn cho học sinh: Chúng ta sẽ so sánh mặt trăng với quả bóng, muốn so sánh ta phải tìm điểm giống nhau giữa mặt trăng và quả bóng, học sinh đặt được câu: “Ông trăng tròn như quả bóng”. Từ đó gợi ý học sinh đặt được các câu khác có hình ảnh so sánh như “Bé cười tươi như hoa ”, “Đèn điện sáng như sao ”, “Đất nước ta cong cong hình chữ S”.
So sánh là đối chiếu hai hay nhiều sự vật, sự việc có nét tương đồng, có dấu hiệu chung nào đó nhằm tăng sức gợi cảm hoặc diễn tả một cách cụ thể hình ảnh đặc điểm của sự vật, sự việc. Trong thực tế có hai loại so sánh là so sánh tu từ và so sánh luận lý. So sánh tu từ còn gọi là so sánh hình ảnh.
Ví dụ: 	“Ông trăng tròn sáng tỏ
 Soi rõ sân nhà em
 Trăng khuya sáng hơn đèn
 Ơi ông trăng sáng tỏ”
 (Trần Đăng Khoa)
Mục đích của so sánh tu từ nhằm diễn tả hình ảnh đặc điểm của sự vật, sự việc. Chính do đặc điểm này mà so sánh tu từ mang tính chất khoa trương. So sánh luận lý nhằm mục đích xác lập sự tương đương giữa hai đối tượng. (Vỉ dụ: Bảo cũng học giỏi như Hoàng).
Trong quá trình dạy học so sánh, giáo viên cần giúp học sinh phân biệt rõ ràng hai loại so sánh trên để tránh sự nhầm lẫn khi nhận biết cũng như tạo lập các hình ảnh tu từ trong văn nói cũng như văn viết. So sánh có hai bình diện đó là so sánh đồng loại và so sánh khác loại. So sánh đồng loại là so sánh giữa người với người, vật với vật.
Ví dụ: 	 “Hai bàn tay em
 Như hoa đầu cành”
So sánh khác loại là so sánh giữa vật với người, so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng.
Ví dụ: 	 “Công cha như núi Thái Sơn
 	Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Mô hình cấu tạo hoàn chỉnh của phép so sánh gồm 4 yếu tố:
+ Yếu tố 1 là yếu tố được hoặc bị so sánh (tùy theo việc so sánh là tích cực hay tiêu cực).
+ Yếu tố 2 là từ ngữ chỉ phương diện so sánh
+ Yếu tố 3 là từ ngữ chỉ ý so sánh hay còn gọi là từ so sánh.
+ Yếu tố 4 là yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh.
Ví dụ: “Đôi mắt long lanh như thủy tinh”
Trong thực tế mô hình cấu tạo nói trên có thể có sự biến đổi, có nhiều trường hợp so sánh không đầy đủ cả 4 yếu tố. So sánh vắng yếu tố 2 được gọi là so sánh chìm. So sánh chìm khiến cho sự liên tưởng được rộng rãi hơn kích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn.
Ví dụ: 	“Dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng”
So sánh vắng cả 2 yếu tố: yếu tố 2 và yếu tố 3 được gọi là so sánh sử dụng chỗ ngắt giọng và hình thức đối chọi.
Ví dụ: “Trường Sơn: chí lớn ông cha
 Cửu Long lòng mẹ bao la sóng trào”.
Hay:	“Máy bay: chim sắt lớn
Có trái tim động cơ”
Có những trường hợp có thể được đảo lên trước cùng với từ so sánh. (Ví dụ: “Giống như những con chim màu vàng, những chiếc lá phong lượn tròn trên không trung và rơi xuống mặt đất”). Có rất nhiều từ ngữ được sử dụng làm yếu tố thể hiện quan hệ so sánh như: như, tựa như, là, bao nhiêu, bấy nhiêu, giống, giống như, chẳng khác gì...
So sánh là một biện pháp nghệ thuật có chức năng nhận thức, chức năng biểu cảm, cảm xúc và có cấu tạo đơn giản nên được dùng nhiều trong tiếng Việt: trong lời nói hàng ngày, trong văn chính luận cũng như trong lời nói nghệ thuật. Cái tài tình của nhà văn, nhà thơ là phát hiện ra được nét giống nhau một cách chính xác, bất ngờ mà người khác không nhận thấy hoặc không để ý đến. Ví dụ: “Những thân cây tràm vươn thẳng lên trời như những cây nến khổng lồ” (Đoàn Giỏi). “So sánh” là một nội dung được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3, các kiến thức được cung cấp cho học sinh thông qua hệ thống bài tập không lý thuyết nên hệ thống dữ liệu được lựa chọn phải thực sự chính xác cho học sinh. Nội dung so sánh được cung cấp cho học sinh thông qua hệ thống bài tập thực hành với mục tiêu cụ thể là: Học sinh nhận biết biện pháp so sánh bao gồm hình ảnh so sánh, các kiểu so sánh: ngang bằng, hơn kém; sự vật - sự vật, âm thanh - âm thanh, hoạt động - hoạt động, từ so sánh, phương tiện so sánh trong các bài học trong ngôn từ nói hàng ngày, kể cả lời nói của chính các em. Rèn luyện kỹ năng sử dụng biện pháp so sánh trong giao tiếp.
Như vậy trong Luyện từ và câu lớp 3 so sánh bước đầu được đưa vào thông qua sách giáo khoa, qua các ví dụ và bài tập thực hành giúp cho học sinh cảm nhận, gây hứng thú và từ đó tìm ra được kiến thức mới để áp dụng trong nói và viết hàng ngày.
Các kiến thức trong phân môn Luyện từ và câu nói chung trong dạy học kiểu bài so sánh nói riêng được cung cấp qua hệ thống bài tập nên áp dụng nguyên tắc trực quan trong quá trình dạy học là hết sức cần thiết. Với mỗi bài tập giáo viên có thể chép sẵn ngữ liệu hoặc đáp án ra bảng phụ trước khi bước vào giờ học và sử dụng bảng phụ hợp lý với tiến trình giờ học. Sau khi đã yêu cầu học sinh làm bài tập cá nhân hoặc theo nhóm giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng chữa trực tiếp, có thể dùng giấy khổ to để ghi lại nội dung bài tập, nếu bảng phụ không đủ. Tương tự như bảng phụ và giấy khổ to, các bảng giấy hoặc thẻ từ ghi sẵn ngữ liệu cũng là những đồ dùng dạy học hiệu quả nên được sử dụng linh hoạt trong tiết Luyện từ và câu. Đặc biệt ngày nay công nghệ thông tin đang phát triển chúng ta có thể áp dụng trong dạy kiểu bài so sánh bằng cách đưa ra các hình ảnh động hoặc tranh ảnh để học sinh cảm nhận rõ sự giống và khác nhau giữa các sự vật. Từ đó các em sẽ dễ dàng so sánh sự vật một cách chính xác, chắc chắn giờ học sẽ sinh động và hiệu quả. Tuy nhiên giáo viên cần phải biết sử dụng khéo léo hợp lý đồ dùng với từng bài tập, không quá lạm dụng hình ảnh. Ngoài ra trong quá trình dạy học giáo viên có thể thiết kế và sử dụng phiếu bài tập nhằm thay đổi hình thức tổ chức dạy học, tạo hứng thú cho các em trong giờ học. Chẳng hạn có thể thiết kế phiếu bài tập cho tiết Luyện từ và câu.
Trong các tiết Luyện từ và câu ta có thể sử dụng nhiều đồ dùng dạy học khác nhau để giờ học sinh động, hấp dẫn, không tẻ nhạt. Giáo viên phải biết phối hợp sử dụng các đồ dùng dạy học một cách linh hoạt. Có như vậy hiệu quả tiết dạy mới được như mong muốn. Giáo viên cần nắm vững và tích cực vận dụng đổi mới phương pháp dạy học khi dạy Luyện từ và câu; Để học sinh tự thực hành các bài tập, làm quen khám phá kiến thức. Cuối bài giáo viên có thể tóm tắt (chốt kiến thức) thật ngắn gọn để học sinh nắm chắc bài.
Ví dụ: Bài 1/ trang 24. Sau khi học sinh luyện tập tìm được các hình ảnh so sánh trong những khổ thơ sau:
“Mắt hiền sáng tựa vì sao
 Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời”
 (Thanh Hải)
“Mùa đông
Trời là cái tủ ướp lạnh”
 (Lò Ngân Sùn)
Giáo viên cho các em bước đầu cảm nhận được trong mỗi hình ảnh so sánh các sự vật đều có những nét tương đồng (đặc điểm giống nhau) chẳng hạn:
 “Em yêu nhà em
Hàng xoan trước ngõ
Hoa xao xuyến nở
Như mây từng chùm”
 (Tô Hà)
(Đưa hình ảnh động hoặc tranh ảnh Hoa xoan - mây)
Trên thực tế có những học sinh chưa từng được nhìn thấy hoa xoan. Do vậy hình ảnh hoa xoan - mây sẽ giúp học sinh thấy được đặc điểm giống nhau giữa hai sự vật và qua đó cảm nhận được cái hay, cái đẹp. Hoa xoan nhỏ li ti, màu tím ngắt, nở thành chùm. Khi hoa xoan nở rộ gợi cho ta cảm giác chúng như những chùm mây tím xốp đang bồng bềnh trôi. Ở bài tập 2/trang24, sau khi các em tìm được các từ chỉ sự vật so sánh trong những câu trên: tựa, là, như (có thể thay bằng những từ khác : tựa như, giống như, y như). Giáo viên có thể chốt bài “Trong mỗi hình ảnh so sánh trên thường có mấy sự vật được so sánh với nhau; Các sự vật được so sánh có những đặc điểm như thế nào với nhau ? (ngang bằng, giống nhau) Để thực hiện sự so sánh ngang bằng (giống nhau) ta thường dùng những từ chỉ sự so sánh nào ? (là, tựa, như, tựa như...). Giáo viên cần nắm vững mức độ nội dung của cả chương trình và từng bài để dạy phù hợp với từng loại bài và từng đối tượng học sinh.
Nội dung dạy học về so sánh ở các tuần 1, 3, 5, 7, 9, 10,12, 15, 18 của học kì I, nhưng mỗi bài chỉ dạy một nội dung nhỏ. Ví dụ: Tuần 1- Học sinh bước đầu làm quen với biện pháp tu từ so sánh (xác định những từ chỉ sự vật so sánh trong câu thơ để nhận diện biện pháp so sánh). Tuần 3- Học sinh xác định được các hình ảnh so sánh trong câu thơ, văn. Nhận biết từ chỉ sự so sánh (ngang bằng) trong những câu đó. Tuần 5 - Học sinh nắm được các kiểu so sánh mới, so sánh hơn kém ... .Tuần 7- Học sinh nắm được kiểu so sánh sự vật với con người v.v...Nắm được yêu cầu trên, giáo viên cần căn cứ vào đối tượng cụ thể của học sinh mình để dạy, giúp các em nắm kiến thức trọng tâm hoặc có thể mở rộng nâng cao thêm với học sinh khá giỏi. Ví dụ : Ở tuần 7 sau khi chốt kiến thức cơ bản, giáo viên có thể hỏi thêm: cách so sánh sự vật này với sự vật khác như vậy có tác dụng gì? (nhằm làm tăng thêm vẻ đẹp của sự vật được nói tới...).
Lựa chọn phương pháp dạy:
Có nhiều phương pháp để dạy Luyện từ và câu lớp 3. Tuy nhiên, khi dạy nội dung so sánh ta thường hay sử dụng hai phương pháp cơ bản đó là trực quan và giảng giải. Trong các bài tập của sách Tiếng Việt 3 các câu văn, thơ trích dẫn đều thuộc loại so sánh tu từ (so sánh hình ảnh) nhằm diễn tả một cách có hình ảnh đặc điểm của sự vật sự việc. Trong khi đó tư duy của trẻ tiểu học là tư duy trực quan cụ thể. Có em chưa hề nhìn thấy cánh diều, có em sẽ khó khăn khi liên tưởng (dấu hỏi) với “Vành tai nhỏ” hoặc “Những chùm dừa” với hình ảnh "đàn lợn con” nằm quây quanh bụng mẹ. Bởi vậy trực quan tranh hoặc hình ảnh động về cánh diều, vành tai hay cây dừa sai quả ....sẽ góp phần đắc lực giúp các em dễ dàng nhận thấy các hình ảnh so sánh đó thật chính xác, sinh động và gợi tả ... Tuy nhiên có những hình ảnh so sánh không thể dùng trực quan để giảng giải vì nó thuộc kiểu so sánh khác loại (so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng) 
Ví dụ: “Công cha nghĩa mẹ như núi cao biến rộng”.
Hay : “Đêm nay con ngủ giấc tròn
 Mẹ là ngọn gió của con suốt đời”.
Khi đó giáo viên phải dùng phương pháp giảng giải, mô tả để học sinh phát huy tư duy trừu tượng của mình để hình dung tưởng tượng ra đặc điểm giống nhau giữa cái cụ thế và trừu tượng ấy. (Ý nói công ơn sinh thành nuôi dưỡng dạy bảo của cha mẹ giành cho con như biển nước, biển không b

Tài liệu đính kèm:

  • docth_105_1761_2021978.doc