Khi lên chương trình cụ thể một tuần thế này ta cần lưu ý, tất cả các hoạt động của một tuần đều liên quan đến chủ đề, chủ đề nhánh của tuần đó. Như ở trên, chủ đề nhánh là “Lớp bé yêu thương ” thì các hoạt động ngoài trời, hoạt động góc đều liên quan về lớp học, môn khám phá khoa học với đề tài: “Lớp lá có gì? ”; Môn: tạo hình: “Vẽ cô giáo của bé ” và các trò chơi liên quan đến đồ dùng của lớp học, nhằm mục đích củng cố lại kiến thức vừa học cho trẻ.
Từ chương trình kế hoạch tuần như trên, ta tiến hành soạn giảng theo từng ngày cụ thể, Ví dụ như ngày thứ 2 hoạt động ngoài trời gồm những hoạt động nào? Cần những đồ dùng gì cho hoạt động này? Hoạt động tiết dạy ta dạy môn gì? Cần sử dụng những đồ dùng đồ chơi gì? Hoạt động góc, gồm những góc nào? Cần đồ chơi gì cho phù hợp với từng góc? Sau đó soạn rõ ràng từng phần, chuẩn bị, tiến hành hoạt động chủ đích. Bắt nguồn từ những yêu của bài soạn ta tiến hành làm những việc tiếp theo:
Biện pháp 2: Thiết kế mẫu đồ dùng, đồ chơi và chọn nguyên vật liệu phù hợp:
Khi thiết kế những mẫu đồ dùng đồ chơi, và chọn nguyên vật liệu cần chú ý những yếu tố sau:
+ Đảm bảo tính phổ biến: Là những nguyên vật liệu có sẵn, dễ kiếm tại địa phương.
+ Đảm bảo tính phù hợp, an toàn: Phải phù hợp về màu sắc, kích thước, hình dáng, đảm bảo an toàn khi trẻ sử dụng, tránh sắc nhọn, tránh những đồ dùng có kích thước quá nhỏ, trẻ lớp mầm dễ bỏ vào mũi, vào tai các bạn trong lớp, cần vệ sinh sạch sẽ những vật liệu trước khi tạo thành những đồ dùng, đồ chơi, tránh những vật liệu gây độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ.
trẻ tham gia các hoạt động đạt hiệu quả như thế nào phần lớn tùy thuộc vào đồ dùng đồ chơi cô chuẩn bị, trong thời buổi ngành công nghiệp phát triển mạnh như hiện nay, đã sản xuất ra hàng loạt những bộ đồ dùng, đồ chơi. Nhưng không phải bộ đồ dùng đồ chơi nào cũng mang lại hiệu quả trong các hoạt động vì màu sắc không chính xác, kích thước không hợp lý, bên cạnh đó còn một số đồ dùng, đồ chơi có tiền nhưng mua cũng không được như ý. Chính vì vậy, để có được những bộ đồ dùng, đồ chơi bền, đẹp, đảm bảo độ chính xác về màu sắc, khích thước thì phải cần đến những đôi bàn tay khéo léo của các cô giáo, sự nhiệt tình, tỉ mỉ, đầu óc sáng tạo để tạo ra những bộ đồ dùng đồ chơi như ý, mang lại kết quả cao trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu: * Khái quát: Tổng số CBVC : 34 đồng chí Ban giám hiệu : 03 đồng chí Giáo viên : 26 đồng chí + Nhân viên: 05 đồng chí Đảng viên : 11 đồng chí Giáo viên dân tộc: 10 đồng chí Tổng số học sinh: 404 trẻ/ 14 lớp ; Nữ: 193 trẻ; Dân tộc: 172 trẻ; Nữ dân tộc: 80 trẻ Đầu năm học tôi đã tiến hành kiểm tra vệ sinh, trang trí, nề nếp, sĩ số, tiết học trên trẻ của 14/ 14 lớp, trong đó tôi chú ý khâu trang trí và dự giờ thao giảng các lớp. Qua đợt kiểm tra cho thấy hầu hết các lớp có sự đầu tư vào trang trí lớp học, có chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho các hoạt động dạy và học, nhưng bên cạnh đó sự chuẩn bị về đồ dùng, đồ chơi còn hạn chế, chưa có độ bền đẹp và đa dạng, lẽ ra trong dịp hè các cô tranh thủ thời gian làm đồ dùng, đồ chơi, trang trí các góc và làm những đồ dùng cần thiết, thì giáo viên bỏ lại ra một khoản tiền khá lớn để mua đồ dùng công nghiệp có sẵn, một số đồ dùng có hình ảnh minh họa quá mờ nhạt về màu sắc, khiến trẻ khó phân biệt màu sắc, hay một số đồ dùng của cô có kích thước quá nhỏ dẫn đến không cuốn hút được trẻ, không mang lại kết quả cao trong quá trình dạy học, chỉ có năm đến sáu lớp có sự đầu tư về làm đồ dùng đồ chơi nhưng số lượng đồ chơi còn hạn hẹp, sự sáng tạo chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của trẻ. * Khảo sát chất lượng đầu năm học 2016 – 2017 + Giáo viên (Phụ lục 1, kèm theo) Stt Tiêu chí Đạt Chưa đạt Số giáo viên Tỉ lệ % Số giáo viên Tỉ lệ % 1 Giáo viên hiểu tầm quan trọng của đồ dùng đồ chơi tự tạo 13/26 50% 13/26 50% 2 Giáo viên biết cách làm đồ dùng đồ chơi 12/26 46% 14/26 54% 3 Sử dụng đồ dùng đồ chơi đạt hiệu quả cao 12/26 46% 14/26 54% + Học sinh (Phụ lục 2, kèm theo) Stt Tiêu chí Đạt Chưa đạt Số trẻ Tỉ lệ % Số trẻ Tỉ lệ % 1 Trẻ đủ đồ dùng đồ chơi 167/ 404 41,3 % 237/ 404 58,7 % 2 Trẻ biết sử dụng đồ dùng đồ chơi 172/ 404 42,5 % 232/ 404 57,4 % 3 Trẻ tích cực trong các hoạt động 177/ 404 43,8 % 227/ 404 56,2 % Bước đầu sự chỉ đạo công tác hướng dẫn giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi tôi nhận thấy có những mặt như sau: * Ưu điểm: Nhà trường luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện, Đảng ủy, Ủy ban Nhân dân xã Ea Na, đặc biệt là sự chỉ đạo sâu sát, tận tình của lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo trong các hoạt động của nhà trường. Hàng năm nhà trường tổ chức từ 1- 2 lần hội thi “Giáo viên Mầm non làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo” để giáo viên có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, sau mỗi cuộc thi sẽ tạo ra một số lượng đồ dùng, đồ chơi cho trẻ. Cơ sở vật chất tương đối đảm bảo, có đầy đủ phòng học, có sân chơi rộng, thoáng mát, an toàn, lớp học an toàn, trong lớp có tủ để đồ dùng đồ chơi, ngoài ra một số lớp đã có kệ để đồ dùng đồ chơi cho các cháu. Các lớp được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường, phân công 2 giáo viên trên một lớp, sự giúp đỡ của chuyên môn, đồng nghiệp, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các buổi tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nhà trường tổ chức hội thi chấm đồ dùng, đồ chơi tự tạo tại trường, tuyển chọn những bộ đồ dùng, đồ chơi xuất sắc đi huyện. Đội ngũ giáo viên trẻ khỏe, nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, tận tụy với nghề, các cô luôn có tinh thần học hỏi, trau dồi kinh nghiệm nên hầu hết chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có tới 84,6% số giáo viên có bằng trên chuẩn trở lên, giáo viên trong trường luôn đoàn kết và có tinh thần vượt khó vượt khổ, đặc biệt là các cô ở phân hiệu buôn Tơ lơ và buôn Cuah thuộc vùng 3. Đa số cha mẹ học sinh đã quan tâm đến vấn đề chăm sóc giáo dục con em mình, thể hiện qua các buổi đón và trả trẻ, ch mẹ học sinh luôn gần gũi với giáo viên chủ nhiệm để trao đổi chuyện học tập và các hoạt động của con họ khi ở trường, nhiệt tình với các hoạt động của lớp khi được giáo viên chủ nhiệm cần sự giúp đỡ, cha mẹ học cũng ý thức được tầm quan trọng của việc cho trẻ từ 3 đến 5 tuổi đi học là cần thiết, nên tỷ lệ chuyên cần hàng tháng luôn được duy trì ở tỷ lệ 95% - 98% (Trừ một số cháu đau ốm nên nghỉ học ). Các cháu đến lớp đa phần vệ sinh sạch sẽ, ngoan hiền, lễ phép với cô giáo, sự tiếp thu kiến thức của trẻ ngày càng cao, các cháu đến lớp gần gũi cô giáo và hòa đồng với các bạn. Bản thân tôi là một Phó Hiệu trưởng được phân công mảng chuyên môn, nên ngay từ đầu năm học tôi rất quan tâm đến công việc chuyên môn của nhà trường, tôi thường lên kế hoạch cụ thể, và thường xuyên giám sát kiểm tra xem giáo viên của mình thực hiện như thế vào, có hướng điều chỉnh kịp thời, để có những kết quả tốt trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Bản thân tôi cũng không ngừng học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu những cái hay, cái mới trong chuyên môn nghiệp vụ từ cấp trên triển khai, cũng như những kinh nghiệm từ đồng nghiệp. * Hạn chế: Nhưng bên cạnh đó cũng còn những mặt hạn chế như sau: Có 2 phòng học thuộc phân hiệu Quỳnh ngọc diện tích hẹp, phòng học đã cũ và xuống cấp, cần được xây mới. Một số giáo viên chưa biết cách làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ, khi sử dụng còn chưa đạt hiệu quả, phần đông giáo viên chưa có sự tìm tòi, sáng tạo trong quá trình làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, chưa có sự phối hợp giữa cha mẹ học sinh và giáo viên chủ nhiệm, trong khi cha mẹ học sinh nhiệt tình nhiệt tình, nguyên vật liệu dễ kiếm. Trong trường tỷ lệ trẻ em là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới 42,7%, có tới 38,5% trẻ em thuộc hộ nghèo và cận nghèo, vì bố mẹ bận đi làm nên một số trẻ ít được bố mẹ quan tâm, có tới 11% trẻ chưa học qua lớp Mầm, và 4,3% trẻ em chưa học qua lớp Chồi. Công việc giảng dạy trên lớp bận rộn và liên tục từ sáng đến chiều nên giáo viên không có nhiều thời gian để đầu tư cho việc làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ. Từ tình hình thực tế trên thấy được những điểm thuận lợi, khó khăn, mặt mạnh mặt yếu của nhà trường trước khi bản thân tôi áp dụng nghiên cứu đề tài, và nổi trội hơn hẳn đó là những mặt thuận lợi ví dụ như: Thuận lợi về được sự quan tâm của nhà trường, của chuyên môn, cha mẹ học sinh nhiệt tình quan tâm lớp, học sinh chăm ngoan, nguyên vật liệu tạo đồ dùng, đò chơi dễ kiếm. Nhưng giáo viên chủ nhiệm chưa biết cách phối hợp với phụ huynh tận dụng những vật liệu xung quanh để tạo ra những đồ dùng đồ chơi tự tạo phù hợp trong công tác giảng dạy, mà các cô lại đi mua những đồ dùng trên thị trường, số lượng đồ dùng đồ chơi tự làm còn rất ít, chưa đủ về số lượng, chưa đạt về chất lượng, chưa phong phú, đa dạng, các góc trang trí chưa được đẹp, chưa phù hợp, đặc biệt là một số lớp mầm số lượng đồ dùng đồ chơi còn ít, trang trí các góc còn sơ sài. Nói chung, ở thời điểm ban đầu các cô có chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi cho các hoạt động trước khi lên lớp, nhưng số lượng đồ chơi còn ít và sơ sài, hầu hết số đồ chơi mua sẵn trên thị trường, chưa có độ bền, độ chính xác về màu sắc và kích thước, chỉ có một số lớp có đồ dùng tự tạo nhưng số lượng cũng hạn chế, chưa có sự sáng tạo cao, đồ chơi các cô tạo ra còn thô, chưa có sự tinh tế. Với những hạn chế về tình hình đồ dùng đồ chơi tại trường như vậy, dẫn đến các cháu tiếp thu bài chưa cao, không tích cực, hứng thú trong các hoạt động, vì ở trường Mầm non đồ dùng đồ chơi là quan trọng, cần phải có đồ dùng để trẻ quan sát và liên tưởng đến thực tế, thế nhưng đồ dùng trực quan không có độ chính xác, không đẹp mắt, không đa dạng phong phú, dẫn đến không thu hút sự tập trung của trẻ, một số tiết thao giảng dự giờ đầu năm chưa đạt kết quả cao, ảnh hưởng đến chất lượng chuyên môn của nhà trường. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, bản thân tôi cần đưa ra một số biện pháp hướng dẫn giáo viên tạo ra những đồ dùng đồ chơi tự tạo, đa dạng, phong phú, giúp cho các hoạt động hàng ngày của trẻ tích cực, sinh động hơn. Để tạo ra được những bộ đồ dùng, đồ chơi đẹp mắt, phù hợp với các hoạt động trước tiên bản thân tôi hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch phù hợp với khả năng của trẻ trong các hoạt động họa và chơi, tiếp theo tôi tiến hành soạn giáo án và lên kế hoạch chuẩn bị làm đồ dùng đồ chơi tự tạo để nâng cao công tác chăm sóc giáo dục trẻ tại trường. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp Để khắc phục được thực trạng nêu trên bản thân tôi đã đưa ra một số biện pháp giúp giáo viên tạo ra những bộ đồ dùng, đồ chơi phù hợp, đẹp mắt áp dụng có hiệu quả trong công tác giảng dạy ta cần sử dụng đầy đủ, linh hoạt các biện pháp cơ bản sau: Xây dựng kế hoạch giáo dục hoạt động chung, hoạt động vui chơi rõ ràng, cụ thể (Lên chương trình soạn giảng ). Thiết kế mẫu đồ dùng, đồ chơi, chọn nguyên vật liệu phù hợp. Hướng dẫn giáo viên tuyên truyền, phối hợp với cha mẹ học sinh tìm kiếm nguyên vật liệu làm đồ dùng, đồ chơi. Giáo viên phải cần cù, chịu khó học hỏi kinh nghiệm và tìm kiếm nguyên vật liệu. Phương pháp hướng dẫn tạo đồ dùng, đồ chơi Tổ chức thi làm đồ dùng, đồ chơi. a ) Mục tiêu của giải pháp Hướng dẫn giáo viên lựa chọn xây dựng được kế hoạch bám sát với kế hoạch của nhà trường, phù hợp với tình hình thực tế của lớp, của địa phương. Đưa ra một số giải pháp, biện pháp giúp giáo viên làm ra những bộ đồ dùng, đồ chơi tự tạo bền, đẹp và sử dụng hiệu quả trong các hoạt động vui chơi và học tập, giúp trẻ tích cực, sáng tạo trong các hoạt động cô tổ chức. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch giáo dục hoạt động chung, hoạt động vui chơi rõ ràng, cụ thể( Lên chương trình, soạn giảng tích hợp một ngày ). Để mang lại kết quả cao cho các hoạt động chung, hoạt động tiết dạy điều đầu tiên chúng ta cần làm là lên kế hoạch cụ thể cho các hoạt động đó, khi lên kế hoạch chúng ta biết mình sẽ phải chuẩn bị những đồ dùng gì, tiến hành các hoạt động ra làm sao để hôm sau ta tiến hành dạy. Khi lên kế hoạch chúng ta cần dựa vào các yếu tố sau: + Dựa vào tình hình thực tế của địa phương, của lớp học. + Dựa vào mạng nội dung, mạng hoạt động của chủ đề lớp đang thực hiện. + Chuẩn bị những đồ dùng, đồ chơi phù hợp với nội dung, chủ đề, chủ đề nhánh mình đang dạy. + Dựa vào sự tiếp thu của trẻ. Ví dụ: Chủ đề: “Trường Mầm non” Chủ đề nhánh: “Lớp bé yêu thương” Ngày Hoạt động Thứ hai 7/9 Thứ ba 8/9 Thứ tư 9/9 Thứ năm 10/9 Thứ sáu 11/9 1. Đón trẻ, thể dục buổi sáng - Trao đổi với phụ huynh về sinh hoạt của trẻ ở nhà, ở trường. - Cho trẻ xem tranh ảnh về chủ đề, chủ đề nhánh. - Cô hướng dẫn cho trẻ cất đồ dùng, đồ chơi vào nơi quy đinh. - Cho trẻ xếp hàng theo tổ và tập TD buổi sáng kết hợp với các bài hát theo chủ đề. 2. Trò chuyện - Cô và trẻ cùng trò chuyện về lớp của bé. Hỏi thăm tình hình của trẻ khi ở nhà, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin. - Trò chuyện với trẻ về chủ đề, Cô giáo, các bạn trong lớp 3. Hoạt động ngoài trời - Dạo chơi, trò chuyện với trẻ về ngày tựu trường, ngày khai giảng, về lớp của bé. - Trò chơi vận động: Thi đi nhanh - Trò chơi dân gian: Dung dăng dung dẻ - Chơi tự do 4. Hoạt động có chủ đích 1.Thể dục: Lăn bóng bằng hai tay và đi theo bóng 2.Toán: Trẻ ôn số lượng 3, nhận biết số 3, ôn so sánh chiều rộng. KPKH: Lớp lá có gì TẠO HÌNH: Vẽ cô giáo của bé Âm nhạc: Hát kết hợp vận động bài hát: Cô và mẹ Nghe Cô giáo miền xuôi Trò chơi Tai ai tinh LQVH: Thơ: Hương cốm đến trường LQCC: Làm quen chữ cái o,ô.ơ. 5. Hoạt động góc - Góc xây dựng: Xây trường mầm non. - Góc phân vai: Bé làm cô giáo. - Góc nghệ thuật : Múa hát vận động cơ thể theo nhạc, trẻ tập vận động lắc các bộ phận, uốn lượn tạo dáng theo nhạc - Góc học tập: Chơi lô tô các đồ dùng, đồ chơi, tô màu đồ chơi ở trường mầm non, trẻ đọc chữ cái, chữ số. Trẻ kể chuyện theo tranh. - Góc thiên nhiên: Tưới cây, tỉa lá vàng, chơi với cát, nước 6. Vệ sinh, ăn ngủ - Rửa tay trước khi ăn, ăn hết suất. Đi vệ sinh, đi ngủ 7. Hoạt động chiều - Vệ sinh cá nhân - Ăn bữa phụ . - Ôn luyện các bài thơ, bài hát, trò chơi, các từ mới đã học 8. HĐ tăng cường tiếng Việt Quyển sách, hộp chì màu Cái ca, cái ly Cái bát, cái thìa Bạn trai, bạn gái Ôn - Chơi tự do. 9. Vệ sinh, trả trẻ - Vệ sinh cá nhân cho trẻ sạch sẽ, gọn gàng. - Nhắc nhở trẻ trước khi ra về. 10.Nhận xét đánh giá - Nhận xét, đánh giá cuối ngày. Khi lên chương trình cụ thể một tuần thế này ta cần lưu ý, tất cả các hoạt động của một tuần đều liên quan đến chủ đề, chủ đề nhánh của tuần đó. Như ở trên, chủ đề nhánh là “Lớp bé yêu thương ” thì các hoạt động ngoài trời, hoạt động góc đều liên quan về lớp học, môn khám phá khoa học với đề tài: “Lớp lá có gì? ”; Môn: tạo hình: “Vẽ cô giáo của bé ” và các trò chơi liên quan đến đồ dùng của lớp học, nhằm mục đích củng cố lại kiến thức vừa học cho trẻ. Từ chương trình kế hoạch tuần như trên, ta tiến hành soạn giảng theo từng ngày cụ thể, Ví dụ như ngày thứ 2 hoạt động ngoài trời gồm những hoạt động nào? Cần những đồ dùng gì cho hoạt động này? Hoạt động tiết dạy ta dạy môn gì? Cần sử dụng những đồ dùng đồ chơi gì? Hoạt động góc, gồm những góc nào? Cần đồ chơi gì cho phù hợp với từng góc? Sau đó soạn rõ ràng từng phần, chuẩn bị, tiến hành hoạt động chủ đích. Bắt nguồn từ những yêu của bài soạn ta tiến hành làm những việc tiếp theo: Biện pháp 2: Thiết kế mẫu đồ dùng, đồ chơi và chọn nguyên vật liệu phù hợp: Khi thiết kế những mẫu đồ dùng đồ chơi, và chọn nguyên vật liệu cần chú ý những yếu tố sau: + Đảm bảo tính phổ biến: Là những nguyên vật liệu có sẵn, dễ kiếm tại địa phương. + Đảm bảo tính phù hợp, an toàn: Phải phù hợp về màu sắc, kích thước, hình dáng, đảm bảo an toàn khi trẻ sử dụng, tránh sắc nhọn, tránh những đồ dùng có kích thước quá nhỏ, trẻ lớp mầm dễ bỏ vào mũi, vào tai các bạn trong lớp, cần vệ sinh sạch sẽ những vật liệu trước khi tạo thành những đồ dùng, đồ chơi, tránh những vật liệu gây độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ. + Đảm bảo tính sư phạm: Mục đích của những đồ dùng đồ chơi này nhằm củng cố những khái niệm, thực tế hóa các vấn đề trong cuộc sống đi vào giảng dạy trẻ, từ những đồ dùng, đồ chơi, mô hình cụ thể này giúp trẻ hứng thú hơn trong các hoạt động ở trường mầm non, kích thích sự tìm tòi, sáng tạo ở trẻ. + Đảm bảo tính sáng tạo: Đòi hỏi giáo viên phải tạo ra những đồ dùng, đồ chơi đẹp mắt, ngộ nghĩnh, một loại đồ dùng đồ chơi có thể sử dụng được nhiều mục đích với các hoạt động khác nhau. + Đảm bảo về số lượng: Tất cả các bộ đồ dùng đồ chơi yêu cầu phải đảm bảo về số lượng, tránh tình trạng trẻ có, trẻ không có, vd: Môn: toán, đề tài: Đếm đến 3, nhận biết số 3, thì yêu cầu 30/30 trẻ đều phải có đồ dùng, mỗi trẻ phải có 3 đồ để phục vụ trẻ khi trẻ thực hiện luyện tập cả lớp. + Đảm bảo tính dễ sử dụng: Khi đưa những đồ dùng, đồ chơi vào các hoạt động làm sao trẻ dễ dàng sử dụng, mang lại hiệu quả cao trong quá trình hoạt động. Tránh tình trạng chuẩn bị nhiều đồ dùng đồ chơi nhưng trẻ sử dụng không hiệu quá, xảy ra sự cố trong giảng dạy. Biện pháp 3: Hướng dẫn giáo viên tuyên truyền, phối hợp với cha mẹ học sinh tìm kiếm nguyên vật liệu làm đồ dùng đồ chơi: Muốn có được những bộ đồ dùng đồ chơi đẹp thì yêu cầu phải có những nguyên vật liệu, tôi luôn nhắc nhở giáo viên nên sử dũng những vật liệu có sẵn, dễ kiếm tại địa phương, là những vật dụng hàng ngày không dùng nữa đã bỏ đi, ta tận dụng thu gom lại và biến chúng thành những đồ dùng đồ chơi có ích trong các hoạt động ở trường mầm non như: Lá cây, vỏ ốc, vỏ con chai, vỏ hến, vỏ nắp bia, lon bia, chai, lọ, lốp xe... Nhưng để việc tìm kiếm dễ dàng, hiệu quả hơn thì chúng ta nên cần sự trợ giúp của cha mẹ học sinh trong trường. Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm tôi đã nêu ra kế hoạch tổ chức thi làm đồ dùng chơi giữa các lớp, và yêu cầu giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng đồ chơi khi lên lớp phục vụ cho các hoạt động của cô và trẻ. Trong cuộc họp tôi đã nêu ra tầm quan trọng của việc làm đồ dùng đồ chơi tự tạo và tuyên truyền ch mẹ học sinh nên phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp. Từ đó giáo viên nên vận động cha mẹ học sinh đóng góp nguyên vật liệu sẵn có để giúp giáo viên chủ nhiệm tạo ra những bộ đồ dùng, đồ chơi hữu ích. Và giáo viên trường tôi đã tuyên truyền tích cực đến cha mẹ học sinh thông qua các buổi sáng đón trẻ, giờ trả trẻ, thông qua bảng tuyên truyền của lớp, các cô đã khéo léo gợi ý cho cha mẹ học sinh đóng góp những vật liệu mà các cô cần. Tuy nhiên ở một số phân hiệu như phân hiệu buôn Tơ lơ, phân hiệu buôn Cuah thuộc vùng III, việc tuyên truyền, vận động cha mẹ học sinh gặp phải một số khó khăn, nhưng bằng sự gần gũi, nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm đã vận động được cha mẹ học sinh thu gom những vật liệu có sẵn tại buôn làng, tuy không nhiều và phong phú nhưng cũng đủ số lượng mà giáo viên yêu cầu. Qua đây cho thấy tôi đã hướng cho giáo viên một cách thành công trong công tác tuyên truyền, vận động cha mẹ học sinh đóng góp vật liệu làm đồ dùng đồ chơi. Bắt đầu từ ý tưởng thiết kế đồ dùng đồ chơi, rồi đến chọn những vật liệu để tạo ra đồ dùng đồ chơi đó có dễ kiếm ở địa phương không? Nếu là những vật dụng dễ kiếm ta tuyên truyền, phối hợp cùng cha mẹ học sinh thu gom lại, sau đó vệ sinh sạch sẽ phơi ngoài trời nắng ráo sau đó bằng đầu óc sáng tạo, tính cần cù tỉ mỉ chúng ta sẽ tạo ra những bộ đồ dùng, đồ chơi như ý. Biện pháp 4: Giáo viên phải cần cù, chịu khó học hỏi kinh nghiệm và tìm kiếm nguyên vật liệu Để làm ra một bộ đồ dùng đồ chơi giành cho trẻ mầm non cần có khoảng thời gian dài, vì những kích thước của những bộ đồ chơi nhỏ bé, một số đồ dùng đồ chơi ta phải dùng keo gắn các bộ phận nhỏ lại với nhau để tạo thành, đòi hỏi các cô cần có sự tỉ mỉ, cần cù. Muốn có những bộ đồ dùng đồ chơi của lớp trở nên phong phú, đa dạng, phù hợp, bản thân tôi nhắc nhở giáo viên cần học hỏi thêm từ đồng nghiệp, sách báo, internet từ đó giáo viên có thêm kiến thức làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các hoạt động. Công việc thu gom vật liệu sẽ diễn ra dễ dàng nếu như ta biết huy động thu gom từ người thân, như bạn bè, hàng xóm, người thân trong gia đình để xin: Vỏ chai lọ, lịch treo tường, vải vụn, ống trẻ, hộp xốp, khung ảnh, băng đĩa cũ, vải vụn.. Qua các hoạt động hàng ngày của trẻ, cô quan sát xem trẻ thích sử dụng đồ dùng đồ chơi bằng nguyên vật liệu nào nhất, ví dụ như các cháu rất thích những đồ dùng, đồ chơi làm từ vật liệu bằng: Lá cây, người hay con vật làm rối... Biện pháp 5: Phương pháp hướng dẫn, tạo đồ dùng, đồ chơi. Sau thời gian ngắn đã thu gom được rất nhiều các loại nguyên vật liệu phong phú, đa dạng, nhiều thể loại và đã được vệ sinh sạch sẽ, tiếp theo chúng ta sẽ biến những đống nguyên liệu này thành những đồ dùng đồ chơi cho trẻ, tôi sẽ là người gợi ý cho giáo viên, nhằm kích thích sự sáng tạo ở giáo viên, tôi hỏi: Với nguyên vật liệu này cô sẽ tạo ra đồ dùng, đồ chơi gì? Đồ dùng đồ chơi ấy giúp cho việc giảng dạy sắp tới, cho giáo viên tự nếu ý tưởng. Tuần tới lớp cô sẽ học chủ đề gì? Chủ đề đó gồm những hoạt động nào? Vậy cô sẽ sáng tạo ra những đồ dùng, đồ chơi nào để phục vụ cho các hoạt động của trẻ trong tuần tới? Sau đó tôi gợi ý cách làm từng loại đồ dùng, đồ chơi cho trẻ nhằm phục vụ cho các hoạt động trong ngày của trẻ. Ví dụ: Ở đây có rất nhiều thùng bìa carton, miếng xốp màu, que kem, nắp bia... Từ những vật liệu này chúng ta sẽ tạo ra mô hình trường mầm non, bìa carton sẽ cắt và tạo ra thành những lớp học, xốp màu cắt dán thành cây xanh, các bé đi học, que kem sẽ làm hàng rào tạo khuôn viên trường, và tạo ra xích đu, cầu trượt, nắp bia làm đường đi. Với mô hình trường mầm non này các cô cho trẻ quan sát trò chuyện vào lúc hoạt động ngoài trời, vào tiết thơ với bài “ Hương cốm đến trường ”. + Môn thể dục: Ta dùng sơn màu, trang trang trí
Tài liệu đính kèm: