- Những cái mà HS đã làm như bài làm văn, bài báo tường, sổ nhật kí, bức tranh vẽ, hình vẽ, vở HS, các mô hình sẽ cho ta nhiều điều quý báu nêu lên được đặc điểm của HS. Tất cả những dạng sáng tạo này của các em sẽ giúp ta tìm ra được những đặc điểm cá nhân của các em chỉ trong trường hợp nếu như sự phân tích những sản phẩm này là khách quan, và những cứ liệu thu nhận được sẽ được đối chiếu với những sự kiện khác nhận được bằng các thủ pháp khác về mặt phương pháp. Quy tắc này còn có liên quan đến việc sử dụng các bài tập thực nghiệm trong khi nghiên cứu các quá trình tâm lí riêng biệt của HS.
- Một trong những yêu cầu quan trọng đối với công tác nghiên cứu HS học kém là việc tiến hành ghi chép có hệ thống các sự kiện quan sát trong một cuốn sổ tay dành riêng cho mục đích này. Trong quá trình nghiên cứu HS, sổ tay được sử dụng theo một hệ thống nhất định và có kế hoạch, nó cho phép ta nhìn thấy sự phát triển và vận động của HS, lập được kế hoạch đúng đắn cho toàn bộ công tác giáo dục và giảng dạy HS.
(học sinh có nguy cơ bỏ học, học sinh vi phạm nề nếp nhiều ) lúc đó mới tìm hiểu đối tượng học sinh. - Vì không tìm hiểu học sinh ngay từ đầu nên GVCN cũng không xây dựng được biện pháp giáo dục nào mang tính chất lâu dài đối với các em, chỉ khi các em vi phạm lúc đó mới đưa ra các biện pháp để sử lý, răn đe là chính (viết kiểm điểm, phạt trực nhật, báo phụ huynh học sinh, viết cam kết ), các biện pháp này thường không mang lại hiệu quả lâu dài, không thay đổi được bản chất của các em, thậm chí với một số học sinh có cá tính mạnh thì các biện pháp này có thể còn đưa đến hiệu quả ngược lại, học sinh càng vi phạm nhiều hơn, thái độ bất cần hơn. - GVCN thường chú trọng đến việc quản lý nề nếp học sinh, hạn chế học sinh vi phạm nội quy, nề nếp là chính, rất ít thầy cô GVCN quan tâm đến việc làm sao để học sinh mình không còn học yếu, làm sao để chất lượng học tập của cả lớp được nâng lên, việc này GVCN thường coi đó là nhiệm vụ của giáo viên bộ môn. 2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến: 2.1. Nghiên cứu tâm lý giáo dục đối với học sinh yếu kém: - Việc nghiên cứu các nguyên nhân học kém là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn đối với người giáo viên chủ nhiệm. Để giảm nhẹ cho công việc thu thập tài liệu về HS học yếu, kém chúng ta cần phải có những chương trình đặc biệt. Trong chương trình này có điểm ra những điều cần biết về HS. Chương trình cần nghiên cứu đầy đủ toàn diện về HS bao gồm: Nghiên cứu hoạt động nhận thức, lĩnh vực tình cảm, ý chí, hành vi và tình hình thể lực của các em. Căn cứ vào các dữ liệu như: trạng thái xúc cảm, lí trí hành vi và tình trạng thể lực, trạng thái chú ý và trí nhớ hoặc chức năng tâm lí riêng biệt nào đó của các em HS. - Khi bắt tay vào nghiên cứu HS yếu, kém người GVCN cần thiết lập mối quan hệ cần thiết với em HS. Điều này sẽ giúp cho việc tìm hiểu được tốt hơn những đặc điểm cá nhân của HS. Nhằm mục đích này tôi thường dự giờ các giờ học của lớp chủ nhiệm, thăm gia đình học sinh, tham dự vào các hoạt động ngoại khóa, tham gia trò chuyện cùng HS... 2.2. Tìm hiểu đối tượng học sinh lớp chủ nhiệm - Ngay khi tiếp nhận lớp chủ nhiệm, việc đầu tiên cần làm là tìm hiểu đối tượng học sinh, hoàn cảnh gia đình, sở trường, sở thích, tính cách để từ đó có những đánh giá chính xác nhất về từng đối tượng, trên cơ sở đó có những biện pháp giáo dục phù hợp. Các biện pháp chủ yếu để tìm hiểu đối tượng là: 2.2.1. Tìm hiểu học sinh thông qua phiếu điều tra thông tin học sinh: - Ngay từ ngày đầu nhận lớp GVCN thiết kế 1 phiếu điều tra thông tin học sinh, để nắm bắt 1 cách cơ bản nhất các thông tin cần thiết phục vụ cho việc giáo dục học sinh như: Chỗ ở, phương tiện đi học, độ tuổi, nghề nghiệp bố mẹ, thành phần gia đình, bạn thân, kết quả học tập năm trước, các môn học sinh học tốt và không tốt, chức vụ đã làm, năng lực sở trường, sở thích, ước mơ nghề nghiệp tương lai, những khó khăn và hạn chế của bản thân ... qua các thông tin thu được giáo viên chủ nhiệm có thể dự đoán được phần nào tính cách, ảnh hưởng của gia đình đến học sinh, khả năng phát triển, chiều hướng phát triển của từng học sinh qua đó có những định hướng giáo dục phù hợp. 2.2.2. Tìm hiểu đặc điểm học sinh thông qua quá trình quan sát học sinh học tập, vui trơi hoặc bằng việc trao đổi, trò chuyện với học sinh, phụ huynh, GVCN cũ của các em: - Việc quan sát phải lâu dài và có hệ thống để sao cho các kết luận rút ra từ các sự kiện quan sát được không phải là những kết luận tình cờ và hời hợt, chúng phải phản ánh được những đặc điểm cá nhân đáng kể của HS, cho phép theo dõi em HS trong sự phát triển của em đó, việc quan sát cần phải sâu sắc, nó bao gồm không chỉ một sự ghi chép chính xác và đầy đủ các sự kiện và hiện tượng về hành vi của HS mà còn giải thích đúng đắn các sự kiện và hiện tượng này, vì rằng việc quan sát không chỉ nhằm mô tả các hành động bên ngoài của HS mà còn phải tìm ra các động cơ và nguyên nhân của những hành động này. Đây cũng là mục đích cơ bản của sự quan sát: Xuất phát từ những sự kiện bên ngoài của việc quan sát phải vạch ra được những đặc điểm cá nhân của HS và những đặc điểm đặc thù về nhân cách của em đó. - Hiệu quả của các cuộc trò chuyện phụ thuộc vào sự suy nghĩ kĩ càng về phương pháp tiến hành chúng, tùy thuộc vào kĩ năng, nghệ thuật và sự lịch thiệp cùa giáo viên. Các thủ thuật tiến hành phải được cá biệt hóa tối đa và chúng phải nhất thiết thay đổi tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể , tùy theo cá tính của em học sinh cần nghiên cứu. Khi tiến hành các cuộc trò chuyện cần phải lưu ý không chỉ tới nội dung các câu trả lời của HS, mà cần phải tới cả cách thể hiện bên ngoài của HS trong khi trả lời, tới tính cách giọng nói và cách diễn đạt ngôn ngữ. - Những cái mà HS đã làm như bài làm văn, bài báo tường, sổ nhật kí, bức tranh vẽ, hình vẽ, vở HS, các mô hìnhsẽ cho ta nhiều điều quý báu nêu lên được đặc điểm của HS. Tất cả những dạng sáng tạo này của các em sẽ giúp ta tìm ra được những đặc điểm cá nhân của các em chỉ trong trường hợp nếu như sự phân tích những sản phẩm này là khách quan, và những cứ liệu thu nhận được sẽ được đối chiếu với những sự kiện khác nhận được bằng các thủ pháp khác về mặt phương pháp. Quy tắc này còn có liên quan đến việc sử dụng các bài tập thực nghiệm trong khi nghiên cứu các quá trình tâm lí riêng biệt của HS. - Một trong những yêu cầu quan trọng đối với công tác nghiên cứu HS học kém là việc tiến hành ghi chép có hệ thống các sự kiện quan sát trong một cuốn sổ tay dành riêng cho mục đích này. Trong quá trình nghiên cứu HS, sổ tay được sử dụng theo một hệ thống nhất định và có kế hoạch, nó cho phép ta nhìn thấy sự phát triển và vận động của HS, lập được kế hoạch đúng đắn cho toàn bộ công tác giáo dục và giảng dạy HS. 2.3. Tạo niềm tin đối với học sinh: Người GVCN phải tự xây dựng cho mình một biện pháp riêng để xây dựng niềm tin cho bản thân học sinh, chuyển hóa ý nghĩ tiêu cực của các em học sinh yếu rằng “mình không thể học tốt môn học đó” sang ý nghĩ tích cực rằng “mình có thể học tốt môn học đó”, từ đó xây dựng cho học sinh niềm tin vào bản thân mình, xây dựng động cơ học tập cho các em hướng đến việc học sinh có thể tự hoạch định mục tiêu, kế hoạch, phương pháp học tập của bản thân mình. Việc xây dựng niềm tin cho học sinh có thể bắt đầu từ 2 nội dung sau đây: 2.3.1. Chuyển hóa ý nghĩ tiêu cực thành ý nghĩa tích cực. - Đối với những học sinh học yếu, các em sẽ tìm ra hàng trăm lí do để biện hộ cho các điểm kém của mình khi GVCN hay PHHS hỏi đến (Ví dụ như “thầy cho đề khó”, “thầy dạy khó hiểu”, “em có học bài nhưng lên lớp em lại quên” ). Vậy làm sao để tạo cho các em một niềm tin trong học tập, để làm được điều đó, thì người GVCN hay phụ huynh học sinh phải chuyển hóa những ý nghĩ tiêu cực của HS sang ý nghĩa tích cực, tạo cho các em niềm tin “mình có thể học tốt môn đó”. - Thừa nhận ý kiến của các em là tiền đề cho bước chuyển hóa ý nghĩ tiêu cực sang ý nghĩ tích cực. Khi chúng ta công nhận quan điểm của con cái, chúng sẽ ở trong tâm thế thoải mái và để chấp nhận đề nghị của chúng ta hơn. - Tôi hy vọng phương pháp chuyển hóa ý nghĩ tích cực là một công cụ hiệu quả mà mỗi giáo viên hay phụ huynh chúng ta vận dụng để tác động một cách tích cực đến suy nghĩ của HS hay con cái của chúng ta. 2.3.2. Mười bước thành công trong học tập - Tạo niềm tin cho học sinh thông qua việc cho các em thấy “thành công tuy xa nhưng không phải là không thể đi đến” và GVCN dạy cho học sinh xây dựng mục tiêu, kế hoạch, phương cách học tập để có thể đạt được mục tiêu mà mình đưa ra. Có thể hướng dẫn các em theo các bước sau đây: Bước 1: Niềm tin tích cực Điểm gặp gỡ đầu tiên của tất cả học sinh xuất sắc là chúng có một cơ sở niềm tin tích cực. Chúng tin rằng chúng có thể và xứng đáng đạt được điểm tuyệt đối. niềm tin tích cực truyền cảm hứng mạnh mẽ cho chúng trong học tập. Nếu giả sử chúng có sơ xuất hay không đạt được những gì đề ra, chúng không bỏ cuộc mà trái lại sẽ học hỏi từ sai lầm của mình và làm lại cho đến khi thành công. Bước 2: Đề ra mục tiêu phấn đấu cụ thể, rõ ràng Yếu tố thứ hai phân biệt những học sinh giỏi này với những em còn lại là chúng hướng đến các mục tiêu cụ thể, rõ ràng và trên tất cả, chúng biếtmình muốn gì trong cuộc sống. Các mục tiêu trong tương lai của chúng mang lại cho chúng nguồng động lực lớn thúc đẩy bản thân chúng có tinh thần và thái độ học tập chăm chỉ, trong khi những em khác bị phân tán vào những việc khác ngoài chuyện học tập. Chúng đặt ra những mốc cụ thể như đạt toàn điểm 10 trong kỳ thi và làm hết sức mình để đạt được điều đó. Chúng coi điểm số cao như một phương tiện giúp mình đạt được mong muốn trong cuộc sống. Trong khi đó, những học sinh trung bình dễ dàng bị phân tâm và thiếu hẳn động lực vươn lên, đơn giản vì chúng không có hướng đi cụ thể trong cuộc sống. Chúng không biết rằng mình học để làm gì. Đa số những em này học vì bị cha mẹ và thầy cô ép buộc phải học. Trả lời cho câu hỏi chúng muốn đạt kết quả như thế nào, chúng thường đáp rằng “Tôi không biết”, “Điều đó phụ thuộc vào mức độ khó của bài thi” hay “Tôi chỉ hy vọng mình thi đậu”. Bước 3: Quản lý thời gian Bước cần thiết tiếp theo là mà một học sinh “Điểm 10” thực hiện tốt là biết cách ưu tiên cho những việc quan trọng và quản lý thời gian tốt để hoàn thành những nhiệm vụ đề ra. Nếu không nắm được kỹ năng quản lý thời gian, chúng sẽ bối rối không biết cách phân bổ thời gian cho những yêu cầu trong học tập, hoạt động ngoại khóa, gia đình và giải trí. Chúng sẽ thường rơi vào trạng thái hoang mang không biết phải làm cái gì trước cái gì sau, hoặc để nước đến chân mới nhảy. Câu cửa miệng của những em này thường là “Mình sẽ làm việc đó khi có thời gian” hay “Thôi cứ để đến mai hẵng hay”. Bước 4: Đọc nhanh Điều đầu tiên mà học sinh cần lên kế hoạch phải làm là đọc sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo khác. Các em cần luyện kỹ năng đọc nhanh, rút ngắn thời gian đọc sách và đọc hiệu quả hơn. a. Đọc phần tóm tắt trước Với việc đọc phần tóm tắc trước, HS có một khái niệm rõ ràng hơn, một cái nhìn tổng quan về các ý chính và các đơn vị kiến thức. Sau đó, khi đọc vào nội dung chi tiết, các em có thể lĩnh hội và nắm bài được tốt hơn. b. Đọc câu hỏi trước Các em cần đọc câu hỏi trước khi đọc nội dung. Khi biết câu hỏi trước HS có mục tiêu rõ ràng hơn khi đọc sách và có khái niệm sơ bộ về những thông tin chính cần nắm. Cách thức này sẽ gia tăng khả năng hiểu bài của người đọc lên đáng kể. c. Đọc với cây bút dẫn đường Đọc sách với cây bút dẫn đường cho ánh mắt người đọc qua từng dòng chữ, điều đó sẽ hiệu quả hơn trong việc nắm các ý chính. d. Đọc một lúc từng cụm 5-7 từ Mắt người có khả năng đọc được 5-7 từ trong một lúc. Làm cách này HS có thể đọc sách với tốc độ tăng từ 5-7 lần (khoảng 1500 từ/ phút). Giúp cho việc học của các em có hiệu quả hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian. Bước 5: Lọc ra thông tinh chính Khi đọc sách chúng ta không cần phải nhớ tất cả các từ có trong bài, điều quan trọng là các em cần xác định và thu tập những từ khóa có trong một đoạn văn. Chỉ có khoảng 20% từ khóa chứa đựng thông tin cần thiết để đạt điểm 10, nhờ vậy thời gian học và ôn bài giảm xuống đáng kể. Bước 6: Ghi chú bằng cả não bộ Chúng ta dùng cả não bộ vào việc sắp xếp các từ khóa và thông tin vào bảng ghi chú để ôn bài và ghi nhớ nhanh chóng. Bằng việc sử dụng cách ghi chú: sơ đồ tư duy, đồ thị phát triển, sơ đồ khái niện, bảng tóm tắt chương. Bước 7: Kĩ thuật ghi nhớ Để ghi nhớ tốt bài học hoặc các công thức một cách chính xác, đầy đủ và lâu dài thì cần gắn các bài học hay các công thức bằng các câu chuyện, bài thơ, hay kí hiệu hay hình ảnh minh họa hay một cái tên viết tắc nào đó. Trong bước này giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn học sinh xây dựng bản đồ tư duy để có thể hệ thống, tóm tắt kiến thức tốt hơn, dễ nhớ hơn. Bược 8: Ứng dụng kiến thức lí thuyết để giải các bài tập, câu hỏi Hiếm khi nào những câu hỏi và đề thi ra giống hệt trong sách hoặc chỉ cần bê nguyên si những kiến thức trong bài học vào làm là đạt điểm 10. Vì thế những HS học vẹt chẳng mấy khi đạt điểm tuyệt đối. Chúng ta cũng biết rằng mỗi đơn vị kiến thức có một số dạng câu hỏi và bài tập nhất định. Các em phải là quen với tất cả các dạng câu hỏi và bài tập có thể ra thi (từ các đề thi cũ) và các bước để đưa câu trả lời tốt nhất có thể. Bước 9: Ôn bài Các nghiên cứu khoa học cho thấy não bộ con người có khuynh hướng quên đi 80% những gì được học trong vòng 24 giờ. Vì vậy ông bà ta thường có câu “văn ôn võ luyện” nghĩa là chúng ta phải ôn luyện thường xuyên nhưng việc ôn luyện phải có phương pháp (bằng các bảng tóm tắc và sơ đồ hóa kiến thức), chứ không phải đợi đến ngày mai thi thì hôm nay mới mang vở ra ôn thì quá muộn rồi. Bước 10: Kĩ năng thi Những HS học hành hiệu quả biết cách thư giãn trước giờ thi (vì bộ não chúng ta cũng cần nghĩ ngơi khi đó khả năng tư duy và tái hiện được tốt hơn). Khi làm bài thi chúng ta cần đọc kĩ đề thi, gạch chân những từ khóa quan trọng của câu hỏi, biết cách trình bày bài ngắn gọn, xúc tích và quản lí thời gian hiệu quả để hoàn thành bài thi tốt nhất. 2.4. GVCN lập kế hoạch cá biệt để giúp đỡ từng học sinh yếu kém tiến bộ, cuối năm học có thể được lên lớp. - Trên cơ sở quan sát những hiện tượng tương tự và công tác làm chủ nhiệm trong nhiều năm, tôi đã đi đến một kết luận đúng đắn là lòng hăng say học tập thường bị mất đi trước hết là do những thất bại đầu tiên, do những khó khăn không khuất phục nổi trong khi lĩnh hội các môn học. Nếu như người giáo viên không nhận thấy kịp thời, bỏ qua những thời điểm này, thì những sai sót sẽ tích lũy đến mức độ trầm trọng, khi đó HS mất niềm tin vào khả năng nắm được môn học khó đối với họ. Vì vậy cần nghiên cứu kĩ những lỗ hổng trong kiến thức HS, tạo cho các em niềm tin vào bản thân và sức lực của mình, giúp các em khắc phục những khó khăn gặp phải. Trong một số trường hợp cần phải tiến hành với các em những cuộc tọa đàm nhằm phát triển lòng ham thích đối với kiến thức, đối với học tập và thu hút các em vào các nhóm nghiên cứu của các môn học. - Với vai trò GVCN tôi đã lập một kế hoạch cùng kết hợp với giáo viên bộ môn xây dựng một hệ thống các bài tập từ dễ đến khó, các bài tập căn bản cùng hệ thống các công thức, đồng thời các GV bộ môn đã tận tình hướng dẫn cho em ôn tập lại các kiến thức và giải bài tập vào các buổi học phụ đạo ở trường. Ở nhà cha mẹ em cũng nổ lực để hướng dẫn động viên giúp em học tập để lấy lại căn bản. Cùng với sự nổ lực của nhà trường, gia đình và chính bản thân HS nên dần dần các lỗ hổng trong kiến thức của em sẽ được lấp dần, giúp cho em lấy lại được niền tin vào khả năng của mình. - Việc GVCN không là công tác cá biệt ngay từ đầu và việc đưa em từ lớp này lên lớp khác mà không có những kiến thức và kỉ năng cần thiết đã làm kìm hãm sự phát triển của HS và gây ra nhiều khó khăn trong công tác dạy học. Tóm lại, điều quan trọng là phải nghiên cứu và phân tích đầy đủ, kịp thời, đặc điểm của từng khó khăn trong việc dạy và giáo dục những HS yếu, kém và xây dựng cho được kế hoạch công tác cá biệt với từng em. Đối với những em này cần tiến hành công tác cá biệt lâu dài, cần giao cho các em những bài tập riêng. 2.5. Khắc phục hiện tượng “nghiện” Game. - Có thể nói một trong những vấn đề bức xúc và gây đau đầu nhất hiện nay là hiện tượng nghiện game trong giới trẻ, trong quá trình công tác chủ nhiệm tôi đã không ít lần gặp phải những HS nghiện game bỏ bê công việc học hành, cúp tiết trốn học. - Có rất nhiều lý do để học sinh đến với game và “nghiện” game, tuy nhiên đối với học sinh các lớp tôi đã chủ nhiệm có thể thấy 2 lý do cơ bản sau: + Game tạo ảo giác về việc làm chủ cuộc sống: Với những đòi hỏi ngày càng cao từ trường học, gia đình và xã hội, thiếu niên ngày càng không khỏi có cảm giác mất đi khả năng làm chủ những gì xảy ra xung quanh và trong chính bản thân chúng. Chỉ khi ngồi trước màn hình vi tính, chúng mới có cảm giác dành lại khả năng kiểm soát mọi thứ trên đời. vẫn biết rằng đó chỉ là thế giới ảo, nhưng những cảm xúc mà chúng có khi say sưa bấm nút hoặc di chuyển con trỏ là thật, vì các trò chơi ngày nay được các “phù thủy game” thiết kế sống động như thật, thậm chí đối những bộ óc non nớt thì nó còn thật hơn cả cuộc sống ngoài kia, vì những nhà thiết kế đã khái quát hóa đời sống, phóng chiếu nó với một độ rõ nét và sinh động cực lớn. Cuộc sống trong các trò chơi mang lại cảm giác mạnh, khiến đứa trẻ, một khi rời màn hình, chỉ thấy cuộc sống xung quanh mình tẻ nhạt, nhàm chán + Game giúp chúng ta “thoát li” thực tế: Game đặc biệt có sức hấp dẫn với những HS có cảm giác lạc lõng trong một lớp học, thiếu sự quan tâm yêu thương của cha mẹ hoạc bị bạn bè trong trường bắt nạt, hoặc trong lớp ít bạn chơi chung, hay các bạn trong lớp hay chọc ghẹo xem thường làm tổn thương về tinh thần và thể xác đối với HS. Trò chơi trong thế giới ảo, trong khi đó mang lại cho những HS nạn nhân này cảm giác chúng là người hùng thật sự, không những không để ai bắt nạt mà còn oai phong “cho đo ván” những nhân vật “khét tiếng” khác. - Ngày càng có nhiều HS đi tìm niềm vui và sự khuây khỏa trong thế giới game, vì chỉ có ở đó, các em mới tạo được danh tính riêng, được đánh giá cao đó là những điều mà những HS này tìm thấy trong gia đình hoặc nhà trường. Một hiện tượng đáng lo ngại khác là ở một phương diện nào đó, một số trò chơi kích thích tính hung hăng thiếu kiểm soát của trẻ và là tác nhân gián tiếp gây ra các hành vi bạo lực ở trẻ vị thành niên. - Vậy làm sao để giúp các em học sinh thoát khỏi tình trạng “nghiện game”? Theo tôi cách tốt nhất là phải tạo cho HS có nhiều sân chơi, có nhiều bạn cùng trang lứa cùng làm việc, luyện tập và trao đổi. Trong quá trình chủ nhiệm, đối với những học sinh thường xuyên nghỉ học chơi game tôi thường cố gắng phân công các em và các các nhóm làm việc, vui chơi: Cho vào đội bóng đá của lớp để cùng tập luyện, phân công làm trại, báo tường, phân công chuẩn bị cho các hoạt động ngoại khóa, đề nghị CMHS phân cho các em một số phần việc trong gia đình qua đó giảm bớt thời gian rảnh dỗi của các em, đưa các em vào các nhóm làm việc để tự bản thân các em dần nhận thấy mình rất có ích trong tập thể, dần dần hình thành trong các em thói quen học tập và lao động, từ đó không còn ham muốn chơi game nữa. 2. 6. Nâng cao hiệu quả phối hợp với gia đình và phụ hunh học sinh: - Hiện nay ngành giáo dục đang thực hiện nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện những biện pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng kiến thức của HS và phát triển toàn diện kiến thức đó thì GVCN và gia đình HS cần phải có cộng tác chặt chẽ với nhau trong công tác giáo dục. Gia đình và các đoàn thể xã hội cần phải giúp đỡ tích cực cho nhà trường trong việc phải thực hiện quy chế giáo dục THPT trong việc tổ chức thời gian nhàn rỗi của HS, tổ chức hoạt động của các em trong thời gian ngoài giờ học và trong việc giáo dục HS theo địa cư. Gia đình có thể có những tác động tốt hoặc xấu đối với HS. Với tư cách người làm cha làm mẹ, hiểu rõ động lực trong học tập có một tầm quan trọng như thế nào đối với HS. Nó giúp các em hiểu rõ đích đi tới, hoàn thành từng mục tiêu đề ra và nhờ thế thành công trong con đường học tập. - Vấn đề là ở chỗ đối với một số bậc phụ huynh những kí ức và kinh nghiệm về thời thơ ấu của chúng ta, cùng với cách dạy bảo của cha mẹ ta hình như không liên quan và càng không thể áp dụng vào việc dạy con trong bối cảnh xã hội đang thay đổi từng ngày như hiện nay. Điều này càng trở nên khó hơn với những bậc phụ huynh trong độ tuổi 40, họ chẳng còn nhớ ngày xưa mình ngoan ngoãn nghe lời người lớn, dùi mài đèn sách và luôn hiếu kính với cha mẹ ra sao. Thế mà giờ đây, khi cũng làm cha làm mẹ, họ hoang mang không biết phải làm gì với những đứa con cứ muốn tách rời hoặc cưỡng lại lời cha mẹ. - Các cuộc khảo sát cho thấy các bậc cha mẹ áp dụng nhiều phương pháp dạy dỗ con cái khác nhau, từ các phương pháp truyền thống được truyền lại từ đời trước, cho đến các phương pháp “thế hệ mới” của các chuyên gia trong lĩnh vực nuôi dạy con. Một số phương pháp mang lại hiệu quả, trong khi các phương pháp khác hoàn toàn vô ích. - Những thiếu sót và khuyết đi
Tài liệu đính kèm: