Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh phòng chống bị xâm hại

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh phòng chống bị xâm hại

A.PHẦN MỞ ĐẦU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Có thể nói tình trạng trẻ em bị xâm hại hiện nay đang ở mức báo động cấp thiết,

đang là mối lo ngại, trăn trở của ngành giáo dục, cha mẹ học sinh và toàn xã hội.

Xâm hại trẻ em ở Việt Nam diễn ra không chỉ ở các thành phố lớn mà còn có ở

các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa và xẩy ra với các em học sinh ở mọi lứa

tuổi. Trên các phƣơng tiện thông tin về học sinh bị xâm hại gây hậu quả nghiêm

trọng và bức xúc trong dƣ luận xã hội.

Xâm hại trẻ em diễn ra với nhiều hình thức, nhiều mức độ, xuất phát do

nhiều nguyên nhân. Vì vậy để bảo vệ trẻ em không bị xâm hại là một trong

những vấn đề cần thiết trong xã hội hiện nay. Đây không phải việc làm dành

riêng cho những ngƣời làm công tác giáo dục hay của những ngƣời làm công tác

xã hội mà đó là trách nhiệm của cả cộng đồng.

Bản thân là một ngƣời làm công tác giáo dục, hàng ngày đƣợc chứng kiến sự

ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng của tuổi học trò, hàng ngày cắp sách đến trƣờng

để lĩnh hội tri thức, chuẩn bị hành trang bƣớc vào đời. Vậy mà các em có nguy

cơ gặp phải những trƣờng hợp đau lòng nhƣ bị xâm hại sẽ làm tổn thƣơng đến

tâm lý của các em. Rất có thể các em sẽ trở thành những đứa trẻ hoàn toàn khác

nhƣ: thụ động, thờ ơ, lo sợ, tự kỷ.thậm chí cả cái chết. Đó là điều mà không ai

trong chúng ta mong muốn. Vì vậy, với mong muốn tìm ra những giải pháp tốt

nhất, tối ƣu nhất để có thể giúp các em phòng ngừa xâm hại, tôi đã lựa chọn đề

tài: “Một số biện pháp giúp học sinh phòng chống bị xâm hại”, để góp phần

đào tạo một thế hệ trẻ thực sự năng động, tự tin và giàu bản lĩnh để có thể ứng

phó với bất kỳ tình huống nào trong cuộc sống.

pdf 25 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 03/03/2022 Lượt xem 1946Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh phòng chống bị xâm hại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên cần phải 
tuyên truyền là trẻ em. Các em cần đƣợc trang bị đầy đủ kiến thức cần thiết để 
bảo vệ mình tránh khỏi các hình thức bị lạm dụng. Để làm đƣợc điều này, chính 
các bậc cha mẹ, nhà trƣờng và các cơ quan chức năng cũng cần cập nhật kiến 
thức về các thủ đoạn, hình thức xâm hại mới. 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 7/25 
Trên thực tế, nhiều học sinh ở các trƣờng nói chung và học sinh trƣờng THCS 
Phƣơng Liệt nói riêng các em còn hạn chế những kỹ năng trong cuộc sống nhƣ: 
Kỹ năng nhận thức, kỹ năng kiểm soát, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng hợp tác, 
kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kỹ năng chia sẻ thông tin.... Vì vậy mà còn nhiều 
học sinh chƣa mạnh dạn, thiếu tự tin khi phải ứng phó với những tình huống khó 
lƣờng trong cuộc sống. Hơn lúc nào hết, các em cần đƣợc quan tâm, giáo dục, 
truyền thụ những kiến thức về kỹ năng sống, kỹ năng phòng chống xâm hại .... 
Có nhƣ vậy mới phần nào hạn chế đƣợc tình trạng một số em xa lánh với môi 
trƣờng sống thực tế và thiếu sự tƣơng tác giữa con ngƣời với con ngƣời, kỹ năng 
xã hội của các em ngày càng thiếu và yếu. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng học 
sinh dễ bị kẻ xấu dụ dỗ và rất có thể sẽ bị xâm hại. Ngoài những kiến thức phổ 
thông, các em cần học điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành 
công dân có ích cho cộng đồng. Đây cũng chính là những băn khoăn, trăn trở 
đƣợc đặt ra đối với mỗi giáo viên- những ngƣời làm công tác giáo dục hiện nay. 
VI. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN 
- Từ ngày 12/9/1016 đến 16/9/2016: Lập đề cƣơng, xây dựng kế hoạch. 
- Từ ngày 19/9/2016 đền 8/10/2016: Nghiên cứu và áp dụng. 
- Từ ngày 10/1/2017 đến 28/2/2017: Tổng kết và hoàn tất đề tài. 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 8/25 
B. PHẦN NỘI DUNG 
I. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN 
1. THỰC TRẠNG 
Nhƣ chúng ta đã biết mục tiêu của giáo dục THCS là: 
Giáo dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố, phát triển những kết quả của giáo 
dục Tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu 
về kĩ thuật và hƣớng nghiệp để tiếp tục học Trung học phổ thông, trung cấp học 
nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. 
Mục tiêu tổng quát đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có những nội 
dung mới so với mục tiêu lâu nay đã xác định: 
Về mục tiêu đào tạo con ngƣời: Vừa đào tạo con ngƣời Việt Nam phát triển toàn 
diện, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả, 
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; vừa đảm bảo phát huy tốt nhất 
tiềm năng riêng của mỗi cá 
Về mục tiêu hệ thống: Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy 
tốt, học tốt, quản lí tốt; có cơ cấu và phƣơng thức giáo dục hợp lí, gắn với xây 
dựng xã hội học tập; chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, xã hội hoá và hội 
nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hƣớng xã hội chủ 
nghĩa và bản sắc dân tộc. Tạo chuyển biến căn bản mạnh mẽ về chất lƣợng, hiệu 
quả, giáo dục đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ 
Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục 
Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. 
UNESCO đề xƣớng 4 mục đích học tập: Học để biết, học để làm, học để chung 
sống, học để tự khẳng định mình. Trong khi, nhà trƣờng của chúng ta hiện nay 
đang nặng về: Học để biết, nghĩa là về cơ bản chỉ đạt đƣợc một trong bốn mục 
đích của UNESCO. 
Các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực này đều khẳng định tình trạng 
xâm hại tình dục trẻ em trên thực tế luôn cao hơn nhiều so với các số liệu 
thống kê chính thức. Cụ thể như sau: 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 9/25 
12 số liệu thống kê từ các báo cáo điều tra, nghiên cứu đƣợc chị Jayneen 
Sanders chia sẻ với mong muốn nhƣ một thông tin đánh động tới các bậc cha 
mẹ, những ngƣời chăm sóc và các giáo viên về vấn đề nhức nhối này. Cuối mỗi 
thông tin là nguồn trích dẫn: 
1. Khoảng 20% bé gái (1/5) và 8% bé trai (1/12,5) bị xâm hại tình dục trƣớc 
tuổi 18. (Pereda và các cộng sự, 2009) 
2. 95% những trẻ bị xâm hại tình dục là nạn nhân của một ngƣời chúng biết và 
tin tƣởng. (NAPCAN 2009) 
3. Trong số những kẻ xâm hại tình dục trẻ em dƣới 6 tuổi, 50% đối tƣợng là các 
thành viên trong gia đình. Những ngƣời trong nhà cũng chiếm 23% trong số 
những kẻ xâm hại tình dục trẻ em độ tuổi 12-17. (Snyder, 2000). 
4. Lứa tuổi dễ bị tổn thƣơng nhất trong các vụ xâm hại tình dục là từ 3-8 tuổi. 
Phần lớn các vụ xâm hại tình dục trẻ em bắt đầu xảy ra trong độ tuổi này. 
(Browne & Lynch, 1994). 
5. Nam giới chiếm 90% trong số các đối tƣợng gây ra những vụ xâm hại tình 
dục, trong khi nữ giới chiếm 3,9%. Ngoài ra còn khoảng 6% đối tƣợng xâm hại 
thuộc về "giới tính không xác định". (McCloskey & Raphael, 2005). 
6. Khoảng 40% trẻ em bị những đứa trẻ lớn hơn (hoặc khỏe mạnh hơn) xâm hại 
tình dục (Finkelhor, 2012). Cùng với việc lan tràn các hình ảnh khiêu dâm hiện 
nay, ngƣời ta còn thấy các vụ xâm hại tình dục trẻ em, cụ thể là những vụ việc 
mà thủ phạm gây án là những đứa trẻ lớn hơn hoặc là anh/chị em họ của nạn 
nhân, cũng xảy ra ngày càng nhiều. 23% trẻ em trong độ tuổi 10-17 đều đã tiếp 
xúc với các hình ảnh khiêu dâm ngoài ý muốn. (Jones L. và các cộng sự, 2012). 
7. 84% các vụ việc trẻ em dƣới 12 tuổi bị xâm hại tình dục xảy ra tại nơi ở. 
(Snyder, 2000). 
8. Trong số các vụ việc trẻ bị xâm hại tình dục đƣợc trình báo với cơ quan chức 
năng, có tới 98% các vụ việc lời khai của trẻ em đƣợc xác định là sự thật. (Hội 
đồng bảo an trẻ em bang bang New South Wales, tổ chức Dympna House trích 
dẫn năm 1998). 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 10/25 
9. 1/3 ngƣời lớn sẽ không tin nếu trẻ em nói với họ về việc chúng bị xâm hại 
tình dục. (Quỹ trẻ em Úc, 2010). 
10. 73% trẻ em bị xâm hại tình dục sẽ không nói với bất cứ ai về sự việc này 
trong ít nhất 1 năm. 45% sẽ không nói với ai trong 5 năm. Một số em sẽ không 
bao giờ tiết lộ sự thật. (Broman-Fulks và các cộng sự, 2007) 
11. Những trẻ em từng bị xâm hại tình dục có nguy cơ tự tự cao hơn 10-13 lần 
so với những trẻ em bình thƣờng. (Plunkett A, O’Toole B, Swanston H, Oates 
RK, Shrimpton S, Parkinson P 2001). 
12. Trẻ em không sống cùng cha mẹ (trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi) có nguy 
cơ bị xâm hại tình dục gấp 10 lần so với những đứa trẻ sống cùng cha mẹ ruột. 
Trẻ em sống cùng với cha/mẹ có một bạn tình khác sống chung trong nhà có 
nguy cơ bị xâm hại tình dục cao nhất. Nguy cơ này ở chúng cao gấp 20 lần so 
với những đứa trẻ sống cùng cha mẹ ruột. (Sedlack và các cộng sự, 2010). 
Riêng ở Việt Nam:Theo số liệu thống kê từ Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã 
hội, trong 5 năm từ 2011 đến 2015, cả nƣớc có 5.300 vụ xâm hại tình dục trẻ 
em. Tính trung bình, cứ 8 giờ trôi qua lại có một trẻ em Việt Nam bị xâm hại. 
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng con số này chỉ là những vụ việc đƣợc báo 
cáo, còn rất nhiều vụ nạn nhân bị chính kẻ xâm hại dọa dẫm hoặc vì lý do nào 
đó đã không đƣợc thống kê. 
Trên thế giới, theo thống kê của Hiệp hội Quốc gia Phòng chống Bạo hành trẻ 
em (NSPCC), độ tuổi trung bình của trẻ em bị xâm hại tình dục là 9 tuổi. Cứ 4 
bé gái thì có 1 bé bị xâm hại tình dục, 6 bé trai thì có 1 bé bị xâm hại tình dục. 
Vấn nạn này có xu hƣớng gia tăng đối với trẻ em nam. Tại Việt Nam, trƣớc đây 
trẻ bị xâm hại thƣờng là 13-18 tuổi thì nay xuất hiện nhiều vụ việc ở lứa tuổi 5-
13.Đáng chú ý, 93% thủ phạm có mối quan hệ quen biết với nạn nhân, trong đó 
47% kẻ xâm hại là họ hàng, ngƣời trong gia đình nạn nhân. 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 11/25 
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm lại là giáo viên Tổng phụ trách đội TNTP Hồ 
Chí Minh, là giáo viên chủ nhiệm lớp, do vậy bản thân tôi có nhiều thời gian và 
cơ hội gần gũi với các em thông qua các hoạt động Đội. Chính vì vậy tôi nhận 
thấy kỹ năng sống, kỹ năng phòng ngừa xâm hại cho học sinh là vô cùng quan 
trọng. Bởi trên thực tế chỉ có một số học sinh có hành vi, thói quen, kỹ năng tốt. 
Còn phần lớn các em còn ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi còn hạn 
chế. 
Thực tế hàng ngày, hàng giờ trên đất nƣớc ta còn xảy ra biết bao nhiêu hiện 
tƣợng trẻ em bị xâm hại và không ai trong chúng ta có thể khẳng định rằng tất cả 
học sinh của chúng ta đều đƣợc an toàn. Rất có thể có một tỷ lệ nhỏ các em học 
sinh bị xâm hại nhƣng các em đều không dám nói với bố mẹ, thầy cô, ngƣời 
thân, bạn bè... các em đều tự mình giải quyết hoặc chịu đựng từ đó ảnh hƣởng 
trực tiếp tới sức khoẻ, tinh thần và kết quả học tập của các em. Bởi thủ phạm 
xâm hại các em có thể là ngƣời thân của gia đình, ngƣời quen,hàng xóm thân 
thiết, bạn bè của cha mẹ hoặc tin cậy. Và thủ phạm có thể tìm mọi cách để tạo 
dựng mối quan hệ thân thiết, gần gũi với trẻ và gia đình các em để tiến hành 
hành vi xâm hại trẻ. Có thể nói xâm hại trẻ em là một hành vi vi phạm pháp luật 
Việt Nam. Tất cả trẻ em đều có thể có quyền đƣợc bảo vệ khỏi mọi hình thức 
xâm hại, đặc biệt là xâm hại tình dục. 
 Trong việc phát hiện, ngăn chặn và giải quyết hành vi bạo lực giới thì giáo 
dục nhà trƣờng đóng vai trò chủ đạo, giáo dục gia đình đóng vai trò then chốt và 
sự cộng hƣởng của xã hội giữ vai trò quan trọng. Phải tăng cƣờng sự phối hợp 
giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội. Trong đó, mỗi nhân tố cần làm tốt vai trò và 
trách nhiệm của mình, đặc biệt là giáo dục gia đình vì mỗi gia đình là một đơn vị 
độc lập trong khi các nhà trƣờng là một tập thể có hệ thống, có chế tài quản lý và 
giám sát của cơ quan chức năng, gia đình cũng chính là tế bào của xã hội. 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 12/25 
2. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH PHẠM TỘI ĐỐI 
VỚI TRẺ EM. 
Có nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau dẫn đến tình trạng xâm hại trẻ 
em, mà đặc biệt là xâm hại tình dục, theo tôi có những nguyên nhân chính nhƣ 
sau: 
 Thứ nhất: Nguyên nhân từ phía gia đình: 
- Gia đình có hoàn cảnh khó khăn, sự đói nghèo lạc hậu, không có điều kiện 
để chăm sóc quản lý, giáo dục trẻ em, thƣờng để các em ở nhà một mình hoặc 
gửi hàng xóm, có thể là những đối tƣợng tiềm ẩn sự nguy hiểm, cũng có khi trẻ 
do thiếu thốn tình cảm, sống trong hoàn cảnh gia đình không hoàn thiện, lại 
không đƣợc học hành chu đáo, dẫn đến tình trạng các em bị lợi dụng rủ rê, hoặc 
bị ép buộc vào các hành vi phạm tội ngoài ý muốn. 
- Do cha mẹ các em mải làm ăn nên thiếu sự quan tâm, buông lỏng quản lý, 
phó mặc con cái cho thầy cô và nhà trƣờng, chƣa giáo dục thƣờng xuyên về đạo 
đức lối sống cho trẻ, thiếu kiến thức và phƣơng pháp giáo dục về giới tính cho 
trẻ, đặc biệt là hƣớng dẫn trẻ cách phòng ngừa, đôi khi cha mẹ còn cho là chƣa 
đến lúc vì con còn nhỏ, ngại nói đến vấn đề giới tính và không biết phải nói thế 
nào với con.Có những cha mẹ khó có thể làm bạn với con để sẵn sàng lắng 
nghenhững tâm sự của convì khoảng cách lứa tuổi hoặc trình độ, đôi khi biết 
nhƣng không có phƣơng pháp phù hợp dẫn đến sự bất hợp tác của trẻ. 
- Trong nhiều trƣờng hợp khi xảy ra việc trẻ bị xâm hại, gia đình ngại tố cáo 
tội phạm, cho qua hoặc dấu kín vì sợ tai tiếng, mặc cảm, cho rằng con mình 
cũng có lỗi, điều đó đã vô tình tiếp tay cho kẻ xâm hại trẻ em thoát tội và tiếp 
tục phạm tội. 
 Thứ hai: Nguyên nhân xã hội 
- Do công tác quản lý các loại hình dịch vụ, băng đĩa hình, văn hoá phẩm đồi 
truỵ thiếu chặt chẽ, nhiều bộ phim, sách truyện có nội dung bạo lực, khiêu dâm 
vẫn đƣợc trình chiếu và bán trên thị trƣờng. 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 13/25 
- Sự phối hợp của các cơ quan ban nghành đoàn thể từ Trung ƣơng đến địa 
phƣơng còn thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ hoặc thiếu kiên quyết. 
- Do lối sống buông thả, suy đồi về đạo đức cá nhân thấp hèn, mất nhân tính, 
những việc làm tiêu cực của ngƣời lớn cũng đã ảnh hƣởng tới tình trạng phạm 
tội đối với trẻ em. 
- Tình trạng mù chữ, thất học, không có việc làm, thiếu hiểu biết về pháp luật 
nên coi thƣờng pháp luật. 
 Thứ ba: Nguyên nhân từ đặc điểm tâm sinh lý, thể chất, trình độ nhận thức 
của trẻ. 
- Do đặc điểm tâm sinh lý trẻ em, sự bồng bột, thiếu suy nghĩ và non nớt về trí 
tuệ, do sự biến chuyển về sinh lý, làm theo phim ảnh sách báo, học đòi là 
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ bị xâm hại. 
- Do đặc điểm về thể chất, các em cho mình là ngƣời lớn, luôn cho mình là 
đúng và muốn thể hiện mình, chƣa có khả năng chống cự, phản kháng lại các 
hành vi xâm hại của tội phạm. 
- Do trình độ nhận thức của các em còn hạn chế, còn thiếu kiến thức về xã hội, 
về kiến thức pháp luật, kiến thức về giới tính, ngƣời bị hại có nhƣợc điểm về 
tinh thần cũng là một trong những nguyên nhân và điều kiện cho kẻ phạm tội 
thực hiện hành vi của mình. 
 Thứ tư: Nguyên nhân từ công tác tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật 
giáo dục giới tính. 
- Do công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em 
chƣa thƣờng xuyên còn mang tính hình thức chạy theo phong 
trào, do pháp luật còn nhiều bất cập, việc điều tra xử lý tội phạm xâm hại trẻ em 
chƣa kịp thời, thiếu nghiêm minh, chƣa tạo đƣợc dƣ luận xã hội lên án mạnh mẽ 
đối với hành vi xâm hại trẻ em. 
- Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật chƣa đi sâu xuống từng địa bàn, từng 
cụm dân cƣ nên không đạt hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức pháp luật 
trong nhân dân. 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 14/25 
- Do công tác giáo dục đạo đức lối sống cho trẻ em chƣa đƣợc chú trọng, công 
tác giáo dục giới tính chƣa thƣờng xuyên, chƣa có phƣơng pháp giáo dục giới 
tính và hƣớng dẫn cách phòng ngừa tội phạm cho các em. 
- Sự kết hợp quản lý giáo dục giữa gia đình nhà trƣờng và xã hội chƣa chặt chẽ, 
thiếu đồng bộ. 
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
Việc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trƣờng và xã hội. Vậy thì 
công tác bảo vệ trẻ em cũng cần phải thực hiện nhƣ vậy, đó không phải trách 
nhiệm của riêng ai mà nó là sự chung tay, góp sức của toàn xã hội. Đấu tranh 
chống xâm hại trẻ em, cần tập trung vào biện pháp phòng ngừa. Công tác truyền 
thông cần đƣợc làm đồng bộ, có sự phối hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và các cơ 
quan hữu quan. Đối tƣợng đầu tiên phải tuyên truyền chính là trẻ em. Các em 
cần đƣợc trang bị đầy đủ kỹ năng đểbảo vệ mình khỏi các hình thứclạm dụng. 
Gia đình, nhà trƣờng phải có trách nhiệm cung cấp kiến thức cho các em. Để 
làm đƣợc điều này, chính cha mẹ, nhà trƣờng và các cơ quan chức năng cũng 
cần cập nhật kiến thức về các thủ đoạn, hành vi, hình thức xâm hại mới. Cụ thể 
nhƣ sau: 
1. Cần trang bị cho các em các giá trị kỹ năng sống để tự bảo vệ và tham 
gia phòng chống xâm hạ trẻ em. 
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình tội phạm xâm hại trẻ em và thực tiễn xét xử 
các loại tội này, từ những nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tình hình tội phạm 
xâm hại trẻ em. Trƣớc hết những ngƣời làm công tác giáo dục cần nhận thức rõ 
điều đó và cần trang bị cho học sinh những kỹ năng cần thiết để các em có thể 
tự bảo vệ mình. 
Ở tuổi thiếu niên, các em học sinh còn biết bao điều cần trau dồi để hoàn thiện 
mình, đặc biệt là các kỹ năng sống cần thiết để tự bảo vệ bản thân trƣớc những 
nguy hiểm ngoài xã hội. Quan trọng nhất trong số đó là kỹ năng giao tiếp, kỹ 
năng tự nhận thức bản thân và kỹ năng kiên định.Về kỹ năng giao tiếp, khi đứng 
trƣớc sự lôi kéo của bạn bè phải biết bảo vệ những giá trị và niềm tin của 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 15/25 
bản thân. Dù có bị đả kích nhƣ thế nào hay nghe những lời dụ dỗ thú vị ngon 
ngọt ra sao thì cũng phải là chính mình, sáng suốt nhận định đúng sai, biết 
thƣơng lƣợng và từ chối đúng cách, vừa không làm phật lòng ngƣời khác, vừa 
tốt cho mình. Học cách giải quyết xung đột không dùng bạo lực, rèn luyện khả 
năng giao tiếp có hiệu quả. Về kỹ năng tự nhận thức bản thân, các bạn cần hiểu 
rõ bản thân, có lòng tự trọng, tự tin, biết cách đƣơng đầu với cảm xúc. Nhận biết 
đƣợc cảm xúc và phân tích những nguyên nhân của nó sẽ giúp chúng ta quản lý 
đƣợc hành động và cảm xúc của mình. Học cách đƣơng đầu với căng thẳng, xác 
định đúng giá trị bản thân. Những điều chúng ta tin và xác định đúng về bản 
thân sẽ giúp ta luôn đi đúnghƣớng và phấn đấu đạt tới những điều tốt đẹp. Các 
em học sinh cần phải có suy nghĩ phê phán, sáng tạo trong mọi tình huống, vấn 
đề gặp phải và tìm cách nhất để giải quyết. Mặc dù bạn phải kiên định trong 
những suy nghĩ, hành động đúng của mình nhƣng cũng cần tiếp thu những ý 
kiến tốt để hoàn thiện bản thân. Ngoài ra học sinh cần phải tự trang bị cho mình 
những khả năng về bơi lội, võ thuật và sơ cứu để phòng những trƣờng hợp bất 
trắc xảy ra. 
Khi phải đối mặt với những cảm xúc tiêu cực hay những căng thẳng của 
bản thân, hãy hít thở sâu để bình tâm suy nghĩ và tìm ra nguyên nhân để giải 
quyết vấn đề. 
 Các kỹ năng sống cần trang bị cho học sinh trong nhà trường: 
1. Kỹ năng tự nhận thức 
2. Kỹ năng xác định giá trị 
3. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc 
4. Kỹ năng ứng phó với căng thẳng 
5. Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ 
6. Kỹ năng thể hiện sự tự tin 
7. Kỹ năng giao tiếp 
8. Kỹ năng lắng nghe tích cực 
9. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 16/25 
10. Kỹ năng thƣơng lƣợng 
11. Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn 
12. Kỹ năng hợp tác 
13. Kỹ năng tƣ duy phê phán 
14. Kỹ năng tƣ duy sáng tạo 
15. Kỹ năng ra quyết định 
16. Kỹ năng giải quyết vấn đề 
17. Kỹ năng kiên định 
18. Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm 
19. Kỹ năng đạt mục tiêu 
20. Kỹ năng quản lý thời gian 
21. Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin. 
Trong các buổi sinh hoạt lớp hay chào cờ đầu tuần, giáo viên tổng phụ trách 
hay giáo viên chủ nhiệm nên đƣa những nội dung lồng ghép giáo dục kỹ năng 
cho học sinh. Đặc biệt là các giờ sinh hoạt giáo viên nên dành lồng ghép, tích 
hợp giữa các môn học với các kỹ năng cần có thông qua bài học đó sao cho hiệu 
quả nhất và học sinh tiếp thu một cách tự nhiên nhất. 
2. Kết quả nghiên cứu: 
2.1 Phiếu khảo sát trƣớc khi tuyên truyền về xâm hại trẻ em: 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 17/25 
Nội 
dung 
Biết 
( Có ) 
Không 
biết 
Ngại nói 
(Im lặng) 
Không 
quan tâm 
Mơ hồ Nhầm lẫn Không có 
ý kiến gì 
SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 
Xâm 
hại là 
gì? 
27 15 43 23,9 26 14,5 21 11,7 41 22,8 19 10,6 3 1,5 
Khả 
năng 
tự bảo 
vệ. 
47 26 31 17,2 35 19,5 25 13,9 12 6,7 9 5 21 11,7 
Làm 
gì khi 
bị 
xâm 
hại? 
11 6,3 29 16 44 24,4 27 15 26 14,4 18 10 25 13,9 
Khi bị 
xâm 
hại 
em sẽ 
chia 
sẻ với 
ai? 
16 8,9 38 21 39 21,7 19 10,6 35 19,5 0 0 33 18,3 
Phòng 
tránh 
xâm 
hại có 
thực 
sự 
cần 
thiết? 
42 23,3 27 15 22 12,2 11 7,77 41 22,8 19 10,6 15 8,33 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 18/25 
2.2 Phiếu khảo sát sau khi tuyên truyền về xâm hại trẻ em: 
Nội dung Biết 
( Có ) 
Không biết Ngại nói 
(Im lặng) 
Không 
quan tâm 
Mơ hồ Nhầm 
lẫn 
Không 
có ý kiến 
gì 
SL % SL % SL % S
L 
% SL % SL % SL % 
Xâm hại 
là gì? 
107 59,4 16 8,9 24 13,3 9 5 11 6,1 10 5,6 3 1,7 
Khả năng 
tự bảo vệ. 
66 36,7 31 17,1 34 19 17 9,4 12 6,7 9 5 11 6,1 
Làm gì 
khi bị xâm 
hại? 
62 34,4 29 16 24 13,4 27 15 26 14,5 12 6,7 0 0 
Khi bị 
xâm hại 
em sẽ chia 
sẻ với ai? 
68 38 18 10 49 27,2 19 10,6 7 3,9 4 2 15 8,3 
Phòng 
tránh 
xâm hại 
có thực 
sự cần 
thiết? 
121 67,2 17 9,3 12 6,6 11 6 0 0 16 8,9 3 2 
Nhƣ vậy qua kết quả khảo sát ta thấy, việc cung cấp kiến thức và kỹ năng cho 
học sinh là vô cùng cần thiết để giúp các em tự bảo vệ mình. Bên cạnh đó 
thông qua phiếu khảo sát ta thấy qua việc tuyên truyền đã giúp các em có thêm 
những kỹ năng cơ bản, giúp các em biết cách để sử lý những tình huống có thể 
xẩy ra và điều vô cùng quan trọng là thầy cô, cha mẹ sẽ tìm đƣợc tiếng nói 
chung với trẻ, giúp trẻ tự tin, cởi mở và dễ dàng chia sẻ với mình. 
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em. 
 19/25 
 Giáo dục rèn luyện nhân cách của học sinh, kỹ năng tự bảo vệ thông

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_phong_c.pdf