Báo cáo giải pháp công tác quản lý - Một số biện pháp hướng dẫn giáo viên trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình Vnen

Báo cáo giải pháp công tác quản lý - Một số biện pháp hướng dẫn giáo viên trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình Vnen

Đổi mới sinh hoạt chuyên môn

Ngoài việc triển khai và chỉ đạo công tác trang trí lớp học, cách sử dụng các Công cụ hỗ trợ học tập, tôi luôn xác định rõ vai trò chỉ đạo các hoạt động chuyên môn.

Từ khi trường tham gia vào môi trường mô hình trường học mới (VNEN). Tôi thấy rằng trường sẽ được đổi mới, sẽ tạo ra những hình thức và phương pháp hoạt động đem lại một chất lượng dạy học mới. Cung cấp các điều kiện, những yếu tố kỹ thuật mới cho giáo viên phát triển hoạt động nghề nghiệp của mình. Trong môi trường mới, năng lực của GV sẽ được nhân lên nhiều lần, song trong môi trường đó cũng đòi hỏi GV phải cố gắng cao, phải có những kiến thức và kỹ năng mới. Tất cả những giáo viên được chọn dạy mô hình VNEN đều phải được tập huấn ít nhất là ở cấp trường. Phải thấm nhuần tinh thần VNEN, sẵn sàng cho một cuộc đổi mới trong dạy học.

 Ban giám hiệu không khoanh tay đứng nhìn mà vào cuộc cùng với giáo viên, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện. Các cuộc họp khối chúng tôi đều tham gia với giáo viên. Định hướng cho họ trong việc lập kế hoạch dạy học cũng như kế hoạch đánh giá học sinh.

 

doc 12 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 818Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo giải pháp công tác quản lý - Một số biện pháp hướng dẫn giáo viên trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình Vnen", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 BÁO CÁO GIẢI PHÁP CÔNG TÁC QUẢN LÝ
	I. SƠ LƯỢC BẢN THÂN
	- Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Tâm.              Năm sinh: 1977
	- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: ĐHSP
	- Chức năng, nhiệm vụ được phân công: PHT
	- Đơn vị công tác: Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
	II. NỘI DUNG
1. Tên giải pháp: Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN.
	2. Nêu thực trạng tình hình của tập thể trước khi chưa thực hiện giải pháp quản lý.
 Trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai (mặc dù đã là trường chuẩn quốc gia) nhưng vẫn còn rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất không thể “một sớm, một chiều” mà khắc phục được ngay. Trước hết, diện tích lớp học nhỏ, sĩ số học sinh lại đông nên việc trang trí các góc học tập chưa được như mong muốn.
	Một vài giáo viên chưa biết cách phối hợp hài hòa giữa các công cụ trong lớp, còn trang trí lòe loẹt, rối mắt.
 Một số giáo viên tuổi cao và một số giáo viên nữ đang trong độ tuổi sinh đẻ nên có tác động không nhỏ đến việc thực hiện triển khai mô hình mới trong nhà trường. 
Một số giáo viên chưa hiểu hết tác dụng của các Công cụ lớp học nên việc sử dụng chưa đạt hiệu quả cao. 
Việc chuyển đổi từ phương pháp truyền thống qua phương pháp dạy học tích cực còn mới mẻ nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ huynh sự bỡ ngỡ.
Học sinh vùng nông thôn một số kĩ năng còn nhiều hạn chế như: giao tiếp, hợp tác, lãnh đạo,
	Chuyển đổi từ phương pháp truyền thống qua phương pháp học tích cực một cách đột ngột nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ huynh tâm lý hoang mang, sợ học sinh không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh còn hạn chế về năng lực.
Một số PHHS chưa quan tâm tới việc học của con em, còn phó mặc cho giáo viên.
Một số giáo viên còn lúng túng khi tổ chức hướng dẫn học sinh sủ dụng công cụ và sử dụng công cụ chưa đúng mục đích, chưa phù hợp với thời điểm nên công cụ chưa được phát huy tác dụng. Một vài giáo viên còn thụ động trong việc trang trí và sử dụng các Công cụ lớp học. Chưa có sự sáng tạo, linh hoạt để phát huy hết tác dụng của các Góc học tập.
	3. Những yếu tố khách quan, chủ quan trong việc đưa ra giải pháp.
Thứ nhất, cơ sở vật chất phải đảm bảo chuẩn theo yêu cầu của mô hình Vnen.
Thứ hai, nhận thức và sự cầu tiến của giáo viên rất quan trọng. Họ là nhân vật chính để thay đổi phương pháp dạy học.
Thứ ba, sự tiếp thu và tiến bộ của học sinh, đây chính là ”sản phẩm” của quá trình dạy học. Chất lượng học sinh quyết định kết quả của việc đổi mới giáo dục.
Thứ tư, sự nhiệt tình tham gia của cộng đồng, họ phải đồng thuận với chúng ta trên con đường giáo dục hiện nay.
	Một yếu tố tác động mà bất cứ trường tiểu học nào cũng sẽ gặp phải khi triển khai thực nghiệm mô hình VNEN, đó là học sinh từ lớp 1 lên lớp 2 khả năng điều hành của nhóm trưởng chưa tốt, chưa quen với việc tương tác với các công cụ lớp học nên phải mất nhiều thời gian để giáo viên hướng dẫn học sinh ở những tháng đầu năm học mới, cần có thời gian để các em làm quen. Bởi vậy, dù các học sinh trong lớp đã tự bầu ra được hội đồng học tập, các nhóm học tập nhưng cũng phải mất một vài tháng đầu năm học, các em học sinh trong mới có thể luân phiên đảm nhận trách nhiệm làm nhóm trưởng để giúp các em có được sự tự tin, hoạt bát như mục tiêu của mô hình VNEN đề ra.
Thực tế giáo dục nói chung và dạy học nói riêng của nước ta hiện nay còn nhiều biểu hiện hạn chế, thậm chí còn lạc hậu trước những yêu cầu của nền kinh tế xã hội đang đổi mới và yêu cầu phát triển của đất nước. Vì vậy việc quản lý hoạt động dạy học là nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học để thực hiện chiến lược con người - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội là bức thiết, là quan trọng.
Trước đây, vì chưa có kinh nghiệm nên việc trang trí còn mang nặng tính hình thức, màu mè, rườm rà và dẫn đến phản tác dụng cho việc tích hợp giữa mục tiêu học tập, rèn luyện các kỹ năng của học sinh. Thông thường công việc này chỉ được khởi xướng rầm rộ vào đầu năm học. Nhưng sau đó không được cập nhật nên dần dần bộc lộ những hạn chế. Năm nay, chúng tôi định hướng cho giáo viên để việc trang trí lớp học có những nét chung mà vẫn đảm bảo đặc thù riêng của từng lớp. Mỗi giáo viên phải hiểu rõ ý nghĩa của việc trang trí. Phải thuyết phục được học sinh, phụ huynh cùng tham gia. Phải có kế hoạch sử dụng các Công cụ như thế nào cho đạt hiệu quả. Không được để các Công cụ chỉ là “cho đẹp, cho đúng với hình thức lớp VNEN” mà phải là một phần trong các tiết học nếu có nội dung phù hợp. Đó mới là cải đích mà VNEN momg muốn.
Phải khẳng định rằng, công cụ để tổ chức hoạt động dạy học trong nhà trường VNEN là rất quan trọng, thông qua các công cụ này, giáo viên có thể phát hiện và nuôi dưỡng các tiềm năng; giải đáp những băn khoăn, lo lắng; giúp các em phát triển sự đam mê, sự sáng tạo và hình thành nhân cách cùng các kỹ năng hợp tác trong học tập. Học sinh sử dụng các công cụ để tham gia hoạt động dựa trên vốn từ vựng và năng lực của mình. Giáo viên có thể hỗ trợ để giúp các công cụ này phát huy được tác dụng trong quá trình học tập của học sinh. Vì vậy, giáo viên cần tận dụng tối đa những công cụ mà lớp lựa chọn để phục vụ cho học tập và các hoạt động của lớp. Các công cụ đã được chứng minh là hữu ích cho công tác quản lý các hoạt động ở lớp học, trường học.
	4. Các Giải pháp quản lý.
Biện pháp 1: Công tác tuyên truyền
Biện pháp 2: Công tác chỉ đạo
Biện pháp 3: Đổi mới sinh hoạt chuyên môn
Biện pháp 4: Làm tốt công tác thi đua khen thưởng 
5. Minh chứng kèm theo giải pháp.
Biện pháp 1: Công tác tuyên truyền
Để thực hiện tốt chương trình VNEN, khâu đầu tiên là công tác tuyên truyền. Đặc biệt, người quản lí phải thực sự thấm nhuần bản chất của mô hình VNEN. Từ đó truyên truyền sâu rộng trong nhân dân, các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là trong Hội đồng sư phạm. Tôi luôn xác định: mỗi giáo viên là một “tuyên truyền viên” xuất sắc để giúp phụ huynh và học sinh hiểu rõ về VNEN. Có như vậy mới tìm được sự đồng thuận của cả xã hội. Vì thế, khi được Phòng giáo dục phân công chọn trường dạy thí điểm của dự án, tôi đã không khỏi băn khoăn lo lắng. Chúng tôi tham gia các cuộc họp dân của cả ba thôn, giải thích cụ thể về cách dạy, cách học và đặc biệt là sự hợp tác của cha mẹ học sinh. Mới đầu thật là khó khăn vất vả, nhưng dần dần họ cũng hiểu và ủng hộ nhà trường.
Về phía giáo viên và học sinh, sau khi được đi tập huấn tại Sở giáo dục, phòng giáo dục, tôi đã tổ chức chuyên đề cấp trường để tất cả giáo viên thấm nhuần việc dạy học theo mô hình Vnen. Đặc biệt, với công tác trang trí lớp, tôi luôn tìm hiểu, sưu tầm qua các tài liệu để định hướng cho giáo viên cách thực hiện tốt nhất.
Những năm trước, chúng ta đã thực hiện trang trí “Trường học thân thiện- học sinh tích cực” nhưng mới đạt ở mức độ hình thức. Với VNEN, việc trang phải xác định rõ: Trang trí cho ai ? Trang trí để làm gì ? Trang trí như thế nào? Bộ phận nào thực hiện ? Vì vậy, cần thông tin, tuyên truyền sâu rộng trong phụ huynh học sinh, chia sẻ với phụ huynh những điều họ còn băn khoăn trong việc giảng dạy theo mô hình trường học mới (VNEN) nhất là vào buổi họp phụ huynh đầu năm học để từ đó họ hiểu và ủng hộ nhà trường, đăc biệt là trong công tác trang trí lớp học. Đồng thời, việc tạo ra một môi trường học tập tốt, để các em coi lớp học như gia đình của mình là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo. Từ đó các em sẽ thấy mỗi ngày đến trường thực sự là một ngày vui. 
Biện pháp 2: Công tác chỉ đạo
Triển khai đầy đủ, kịp thời các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp; chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động của nhà trường.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã xây dựng kế hoạch và đề ra những giải pháp cụ thể trong công tác quản lý nhằm khắc phục những khó khăn khi thực hiện việc dạy học theo mô hình trường học mới. Cử giáo viên tham gia tập huấn các chuyên đề do Sở giáo dục tổ chức. Phân công giáo viên theo tình hình thực tế của trường và chú ý đến việc phân công giáo viên giảng dạy theo mô hình trường học mới (VNEN). Tham khảo ý kiến trong Hội đồng trường, tổ chuyên môn và thống nhất trong Ban giám hiệu phân công giáo viên theo đúng trình độ chuyên môn, sở trường sở đoản của giáo viên nhằm tạo điều kiện cho họ phát huy hết khả năng của mình trong công tác giảng dạy. Lên kế hoạch thực hiện cụ thể theo từng khối lớp. Phân công thực hiện các chuyên đề, thường xuyên thăm lớp dự giờ để giúp đỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc của giáo viên. Chỉ đạo cán bộ thư viện trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách tham khảo và những tài liệu chuyên môn cần thiết cho công tác giảng dạy. 
* Về công tác chủ nhiệm lớp:
 Tôi thấy rằng để xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” là phải bắt đầu từ việc “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi lớp học thân thiện, mỗi học sinh tích cực là một viên gạch nền móng vững chắc cho một ngôi trường thân thiện. Vì thế, vai trò của giáo viên chủ nhiệm rất quan trọng. Họ là người quyết định sự thành công và chất lượng của từng lớp. Nhiều lớp tốt sẽ có trường tốt. Họ là nhịp cầu nối giữa gia đình và nhà trường, là một “tuyên truyền viên” để cộng đồng ủng hộ chúng ta trong lĩnh vực giáo dục hiện nay.
 Yêu cầu giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Họp cha mẹ học sinh đầu năm để triển khai kế hoạch của nhà trường. Cùng cha mẹ học sinh thực hiện kế hoạch trang trí lớp học. Vận động họ phối hợp nhịp nhàng trong việc giáo dục các em.
Đưa hoạt động trang trí lớp vào tiêu chuẩn thi đua và xếp loại GVCN. Đưa việc sử dụng các Công cụ vào tiêu chí đánh giá giờ dạy của mỗi giáo viên.
* Về công tác trang trí lớp học:
 Môi trường học tập xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện là yếu tố rất quan trọng góp phần thu hút trẻ đến trường, đến lớp, góp thêm cho lớp học một luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động. 
Vì vậy, tôi đã hướng dẫn, tư vấn cho giáo viên cách trang trí để mỗi lớp mang một sắc màu riêng. Tổ chức chuyên đề cách sử dụng để tăng hiệu quả tiết dạy, phát huy tối đa hiệu quả của từng Công cụ. Từ đó, giúp giáo viên hiểu rõ về các Công cụ và tác dụng của nó. Không những thế, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết tương tác với các Công cụ, biết phối hợp với học sinh qua từng hoạt động. Quan trọng nhất, giáo viên phải hiểu được Công cụ lớp học là gì? Ai làm? Trang trí ở đâu? Sử dụng như thế nào? Vì vậy, ngay đầu năm học, tôi đã thực hiện chuyên đề về trang trí lớp và cách sử dụng các Công cụ lớp học. Chúng ta cần biết lựa chọn những Công cụ nào phù hợp với học sinh lớp mình, không nên lạm dụng vì sẽ gây tốn kém và lãng phí. Quan trọng nhất là bản thân mỗi giáo viên phải hiểu rõ tác dụng và mục đích của từng loại Công cụ. 
Nói chung, Hộp thư Bè bạn hay Hòm thư cá nhân đều là con đường dẫn dắt giáo dục học sinh hoàn thiện dần cái hay cái đẹp, giúp tình cảm bạn bè của học sinh ngày càng thắm  thiết qua những lời tâm sự mộc mạc, ngây thơ của tuổi học trò; từ đó khơi dậy, thôi thúc các em thêm yêu trường, yêu lớp, yêu bạn bè qua những lời tâm tư tình cảm, còn là chiếc cầu nối của các em với phụ huynh và thầy cô giáo trong những trường hợp cần thiết mà các em không thể nói trực tiếp.
Như vậy, nếu chúng ta biết cách khai thác dù là những chuyện nhỏ nhưng hiệu quả giáo dục đem lại rất lớn.
*Về Góc sinh nhật:
* Góc cộng đồng
Mục đích: Bản đồ cộng đồng giúp HS biết được khoảng cách các em đi học từ nhà đến trường. Xác định được những thuận lợi khó khăn gặp trên đường đi. Biết những chỗ nguy hiểm để tránh rủi ro. Biết địa chỉ nhà bạn để đến thăm.
Nhà gần, nhà xa, nhà to, nhà nhỏ, chợ Hòa Đông, chùa Thiện Hòa xuất hiện đầy đủ trong sơ đồ. Nếu không có sự hợp tác của cha mẹ các em thì không thể tái hiện Góc cộng đồng một cách đầy đủ, chi tiết như vậy. Đây là điều mới mẻ mà công tác chủ nhiệm trước kia chúng chưa làm được. Nếu muốn đến nhà em A, chỉ cần nhìn vào sơ đồ là ta sẽ biết nhà ở vị trí nào. Không những thế, Góc Cộng đồng còn giúp giáo dục các em ý thức về “cộng đồng”, khiến các thêm yêu mến quê hương mình hơn. Qua đó, nhịp cầu nối giữa gia đình và nhà trường càng xích lại gần nhau hơn. Một Phụ huynh lớp 3B chia sẻ: “Tôi tất vui khi được tham gia học cùng con. Có như vậy tôi mới biết con mình đang học cái gì, học như thế nào?”
Trong Góc học tập có Góc Tiếng Việt:
 Các sản phẩm do HS, GV làm ra: các tác phẩm, truyện, bài văn, hình vẽ các sản phẩm cắt dán hay sản phẩm thực hành. Ví dụ: thẻ từ, thẻ câu, thẻ dấu thanh, mẫu chữ viết hoa, ca dao tục ngữ
 	Nét chữ nết người
Có Góc Toán:
  GV và HS chuẩn bị đồ dùng trong góc môn Toán, các em có thể tự làm các phép cộng, phép trừ, bảng cộng, bảng trừ, bảng nhân chia... Ngoài ra còn có thêm những tài liệu giới thiệu cách học toán, cách tính, trưng bày một số phép tính do HS thực hiện đúng, trình bày đẹp ở góc toán. Để Góc được phong phú hơn, tôi lưu ý giáo viên nên trưng bày theo mạch kiến thức của chương trình. Các em học tới đâu, sưu tầm tài liệu tới đấy. Ví dụ các dạng toán, các công thức và kết quả là những bài kiểm tra, những kết luận của nhóm 
Tôi thích nhất là Góc Tự nhiên. Nếu trong lớp học chỉ có bảng đen, phấn trắng, thiếu bóng dáng cây xanh thì thật là đơn điệu. Bây giờ thì khác rồi, nào hoa, nào lá, nào cây, cứ thân thiện mơn mởn tỏa không khí trong lành khắp lớp học. Nhìn vào Góc Thiên nhiên học sinh thấy đỡ mệt mỏi căng thẳng và thêm yêu cuộc sống xung quanh. Đồng thời, qua đó giáo viên giáo dục học sinh biết yêu quý bảo vệ cây cối vì nó rất có ích cho chúng ta. Thật đúng như câu khẩu hiệu: “ Trường em xanh - sạch - đẹp”.
Góc tự nhiên lớp 3A
Biện pháp 3: Đổi mới sinh hoạt chuyên môn
Ngoài việc triển khai và chỉ đạo công tác trang trí lớp học, cách sử dụng các Công cụ hỗ trợ học tập, tôi luôn xác định rõ vai trò chỉ đạo các hoạt động chuyên môn.
Từ khi trường tham gia vào môi trường mô hình trường học mới (VNEN). Tôi thấy rằng trường sẽ được đổi mới, sẽ tạo ra những hình thức và phương pháp hoạt động đem lại một chất lượng dạy học mới. Cung cấp các điều kiện, những yếu tố kỹ thuật mới cho giáo viên phát triển hoạt động nghề nghiệp của mình. Trong môi trường mới, năng lực của GV sẽ được nhân lên nhiều lần, song trong môi trường đó cũng đòi hỏi GV phải cố gắng cao, phải có những kiến thức và kỹ năng mới. Tất cả những giáo viên được chọn dạy mô hình VNEN đều phải được tập huấn ít nhất là ở cấp trường. Phải thấm nhuần tinh thần VNEN, sẵn sàng cho một cuộc đổi mới trong dạy học. 
 Ban giám hiệu không khoanh tay đứng nhìn mà vào cuộc cùng với giáo viên, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện. Các cuộc họp khối chúng tôi đều tham gia với giáo viên. Định hướng cho họ trong việc lập kế hoạch dạy học cũng như kế hoạch đánh giá học sinh.
 Tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo hướng “Lấy học sinh làm trung tâm”, dự giờ theo kiểu “cắt lát”. Đánh giá theo chiều phát triển của giáo viên và học sinh. Sau mỗi đợt, họp tổng kết rút kinh nghiệm. Phân công chuyên đề các môn, thao giảng dự giờ để giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. 
Biện pháp 4: Làm tốt công tác thi đua khen thưởng 
Thi đua là một hình thức “cạnh tranh lành mạnh” trong môi trường giáo dục. Thúc đẩy sự phấn đấu và khai thác tiềm năng sẵn có của mỗi cá nhân. Sinh thời Bác Hồ thường kêu gọi cả nước “ngành thi đua – người người thi đua”, “thi đua là yêu nước”. Đúng vậy, ở đâu có thi đua, ở đó có sáng tạo, có sự thành công vượt bậc. Với nghề dạy học của chúng ta rất cần có sự thi đua giữa các lớp, giữa giáo viên và học sinh. Trong một năm học có rất nhiều phong trào được phát động như phong tào thi đua “Hai tốt”, Vở sạch chữ đẹp, Trường học than thiện – học sinh tích cực, GV chủ nhiệm giỏi Và trang trí lớp học là một trong các tiêu chí để xếp loại GV chủ nhiệm giỏi cấp trường; Sử dụng các công cụ lớp học là một trong những tiêu chí để đánh giá xếp loại giờ dạy của mỗi giáo viên. 
Ngoài việc thường xuyên kiểm tra cách làm việc của cô – trò từng lớp. Tôi tiến hành đánh giá thành hai đợt: Cuối kì I và cuối năm. Họp rút kinh nghiệm sau mỗi đợt kiểm tra. Vận dụng hình thức “nêu gương” để kích thích giáo viên và học sinh phát huy hết năng lực của mình. Như vậy, có phát động thì phải có tổng kết. trước khi tổng kết, tôi cho giáo viên tự bình chon trong khối những cá nhân tiêu biểu để nhà trường khen thưởng. Qua đó, nhân rộng điển hình những cá nhân, tập thể lớp làm tốt để nhiều người học tập.
* Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 
Qua 5 năm triển khai Dự án dạy theo mô hình VNEN, giáo viên và học sinh đã thích nghi với môi trường học tập mới. Bởi đây là phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh; chuyển việc truyền thụ của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để các em phát huy tính độc lập, chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc các kiến thức trong bài học; rèn luyện cho các em được nhiều kỹ năng sống, kỹ năng tập thể trong cách hoạt động học theo nhóm. Môi trường học thoải mái, thân thiện.
 	Đội ngũ giáo viên đã có sự chuyển đổi về nhận thức, hứng thú, yêu thích việc tổ chức cho học sinh sử dụng và khai thác công cụ, chủ động, sáng tạo khi tổ chức lớp học. Học sinh mạnh dạn, tự tin, hứng thú khi được tham gia, được ứng dụng thực tiễn, có nhiều kĩ năng sống, các năng lực cơ bản, có ý thức trách nhiệm trong học tập và quản lí lớp học tốt. 
Đa số phụ huynh ủng hộ nhiệt tình phong trào trang trí lớp học. Họ đóng góp tiền bạc, vật liệu và công sức rất nhiều nhưng điều quý nhất là họ đã biết chia sẻ việc học với con em mình. Đã biết quan tâm đến môi trường giáo dục và chất lượng của con. Từ đó tạo được sự đồng thuận sâu rộng trong nhân dân.
	6. Định hướng phát triển giải pháp cho các năm học tiếp theo.
Để việc trang trí lớp học có tác dụng, phần lớn phụ thuộc vào giáo viên chủ nhiệm. Họ là người lên kế hoạch, là người tuyên truyền, hợp tác với phụ huynh, học sinh trong lớp. Là người vận dụng từng loại Công cụ sao cho phù hợp với từng nội dung bài học, giúp học sinh hứng thú và tiếp thu bài hiệu quả hơn. Họ phải rèn cho HS kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng học tập hợp tác. kĩ năng điều hành, ghép nối, giao tiếp. Vì đây là kĩ năng cần thiết để hình thành kĩ năng tự học.	
 Như vậy để thực hiện tốt các biện pháp trên cần có sự thống nhất quan điểm từ lãnh đạo đến giáo viên. Có như vậy mới đạt được mục tiêu mà nhà trường đã đề ra. 
Bản thân người cán bộ quản lí không được nôn nóng, luôn kịp thời tư vấn để đội ngũ “vui vẻ”, “ thuận hòa” thực hiện và thực hiện có sáng tạo, có “cái tâm”. Triển khai kế hoạch và giao trách nhiệm cho từng cá nhân để họ thực sự góp sức vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình VNEN.
Chỉ đạo thành lập tổ tư vấn chuyên môn theo kế hoạch, kiểm tra, giám sát các giai đoạn thực hiện. Sau mỗi đợt giám sát đều có kết luận, hướng dẫn rút kinh nghiệm, đề xuất gợi ý các giải pháp thực hiện.
7. Đề xuất, kiến nghị
Đối với Ban giám hiệu:
Làm tốt công tác tham mưu, tuyên truyền, xã hội hóa về mô hình VNEN tại địa phương, cộng đồng và CMHS, đặc biệt là sự tham gia của CMHS và cộng đồng trong việc trang trí lớp học.
Đối với giáo viên:
Chú trọng công tác trang trí lớp học, tăng cường sử dụng các công cụ một cách linh hoạt, sáng tạo và có hiệu quả. 
Đầu tư các giờ dạy tập trung phát huy tối đa các công cụ có trong lớp học và hội đồng tự quản; đổi mới cách dự giờ, thao giảng, sinh hoạt tổ chuyên môn.
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
(Ký, đóng dấu)
NGƯỜI LÀM BÁO CÁO
Nguyễn Thị Thanh Tâm
XÁC NHẬN UBND HUYỆN
XÁC NHẬN PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Tài liệu đính kèm:

  • docNguyễn Thị Thanh Tâm.doc
  • doctờ trình.doc