SKKN Nghiên cứu thực trạng và đưa ra giải pháp nhằm hạn chế vấn nạn miệt thị ngoại hình (Body shaming) của học sinh Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc

SKKN Nghiên cứu thực trạng và đưa ra giải pháp nhằm hạn chế vấn nạn miệt thị ngoại hình (Body shaming) của học sinh Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc

Tuổi thanh niên cũng thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện tượng, nó được giới hạn ở hai mặt: sinh lí và tâm lý. Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp vì không phải lúc nào nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm sinh lý cũng trùng hợp với các thời kỳ trưởng thành về mặt xã hội. Có nghĩa là sự trưởng thành về mặt thể chất, nhân cách trí tuệ, năng lực lao động sẽ không trùng hợp với thời gian phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy mà các nhà tâm lý học Macxit cho rằng: khi nghiên cứu tuổi thanh nên thì cần phải kết hợp với quan điểm của tâm lý học xã hội và phải tính đến quy luật bên trong của sự phát triển lứa tuổi. Do sự phát triển của xã hội nên sự phát triển của trẻ em ngày càng có sự gia tốc, trẻ em lớn nhanh hơn và sự tăng trưởng đầy đủ diễn ra sớm hơn so với các thế hệ trước, nên tuổi dậy thì bắt đầu và kết thúc sớm hơn khoảng 2 năm. Vì vậy, tuổi thanh niên cũng bắt đầu sớm hơn. Nhưng việc phát triển tâm lý của tuổi thanh niên không chỉ phụ thuộc vào giới hạn lứa tuổi, mà trước hết là do điều kiện xã hội có ảnh hưởng đến sự phát triển lứa tuổi. Trong thời đại ngày nay, hoạt động lao động và xã hội ngày càng phức tạp, thời gian học tập của các bạnkéo dài làm cho sự trưởng thành thực sự về mặt xã hội càng đến chậm. Điều đó cho ta thấy rằng thanh niên là một hiện tượng tâm lý xã hội.

Học sinh trong các trung tâm GDNN - GDTX nói chung, của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng thường đa dạng về độ tuổi (ngoài học sinh vừa tốt nghiệp trung học cơ sở còn có những người lớn tuổi, đã đi làm), về hoàn cảnh gia đình và điều kiện học tập, về trình độ, về hiểu biết xã hội và vốn kinh nghiệm sống. Tuy nhiên, phần lớn học sinh trong các cơ sở GDTX có một số đặc điểm chung sau đây:

+ Học sinh trong các cơ sở GDTX có lòng tự trọng cao, dễ tự ái. Vì vậy trong quá trình dạy học, giáo viên cần phải tôn trọng, tránh xúc phạm, chê bai.

+ Học sinh thường có tính bảo thủ cao. Do đó cần phải tìm hiểu quan niệm, kinh nghiệm đã có của người học để phân tích cho người học tự thấy được cái sai, cái chưa đúng, chưa đầy đủ trong nhận thức và hiểu biết trước đây của mình (thường thông qua ý kiến của nhóm, của lớp).

+ Học sinh thường tự ti, mặc cảm do học kém. Giáo viên cần phải thường xuyên khen thưởng, động viên kịp thời để khuyến khích người học.

+ Học sinh thường mệt mỏi, tư tưởng dễ bị phân tán.

Vì những đặc điểm trên mà học sinh GDTX chỉ học tốt nhất khi:

- Cảm thấy được tôn trọng, được đối xử bình đẳng.

- Thấy ý kiến của mình được đề cao, chú ý lắng nghe.

- Được tham gia, được phát biểu, trao đổi chia sẻ kinh nghiệm.

- Tự mình phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề và tự rút ra kết luận, không bị áp đặt. Học sinh chỉ nhớ:

+ 20% những điều được nghe.

+ 40% những điều nghe và thấy.

+ 80% những điều tự phát hiện, khám phá ra.

 

docx 66 trang Người đăng Bằng Khánh Ngày đăng 09/01/2025 Lượt xem 14Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nghiên cứu thực trạng và đưa ra giải pháp nhằm hạn chế vấn nạn miệt thị ngoại hình (Body shaming) của học sinh Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 trẻ và cha mẹ là những tác động qua lại đầu tiên trong đời sống xã hội của đứa trẻ. Trong gia đình, các bạn nhận được những kinh nghiêm và kỹ năng sống đầu tiên. Trong số học sinh được nghiên cứu, có tới 78% số học sinh cho rằng các em học hỏi và tiếp nhận những kỹ năng sống; cách giao tiếp; cách ứng xử xã hội từ bố mẹ và các thành viên trong gia đình. 51% số học sinh được hỏi thì nói rằng bố mẹ, ông bà hay anh chị mình chính là biểu tượng, hình mẫu cho sự phấn đấu và hoàn thiện nhân cách của các em.
Tuy nhiên, dường như bố mẹ và những người lớn trong gia đình ít dành thời gian dạy các bạn những kỹ năng sống cần thiết, ngay cả những kỹ năng tự chăm sóc và phục vụ bản thân mình. Khi được hỏi các em có thường xuyên làm các công việc gia đình không: 51% học sinh trung tâm cho rằng các bạn ít khi làm; chỉ có 30% số học sinh nói rằng mình thường xuyên làm các công việc gia đình. Và với câu hỏi “tại sao các bạn không làm các công việc gia đình?” cho thấy các em đưa ra 4 lí do cụ thể như: bố mẹ chưa tin tưởng giao phó cho các bạn tự làm các công việc gia đình, không cần các bạn giúp đỡ, vẫn lo sợ các bạn không biết làm và làm không khéo. 
Với thực trạng hiện nay khi mà rất nhiều học sinh tại Trung tâm Yên Lạc một số gia đình có sự thiếu hụt những kỹ năng sống cơ bản và cần thiết, thiếu cái nhìn thấu đáo về thế giới xung. Điều này có ảnh hưởng rất nhiều đến sự khẳng định cái Tôi độc lập của các em, hướng dẫn, chỉ bảo là việc làm cần thiết của các bậc phụ huynh.
Thứ  hai, các hình thức giáo dục con cái trong gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng giá trị nhân cách và thái độ của học sinh.
Khi được hỏi, các em mong muốn được bố mẹ giáo dục theo hình thức nào thì có tới 76% số học sinh cho rằng các em luôn mong muốn được bố mẹ động viên, khen thưởng khi làm được việc tốt; nhắc nhở, phê bình đúng mực khi mắc khuyết điểm; cho con tự quyết định và làm một số công việc tự phục vụ nhu cầu của bản thân; tâm sự, chia sẻ với bố mẹ như một người bạn; hướng dẫn con tự phục vụ và chăm sóc bản thân. Và có tới 90% số học sinh được hỏi cho rằng các hình thức giáo dục trên rất quan trọng đối với các bạn và các bạn luôn mong muốn trong gia đình mình được giáo dục như vậy.
Gia đình là nơi giúp các em định hình và nhận ra rõ nhất mình đang làm gì và nên làm gì. Đứng trước vấn nạn miệt thị ngoại hình đang ngày càng có xu hướng tăng lên, nhất là trong học đường nhưng dường như bản thân bố mẹ cũng không biết được con em mình có đã và đang miệt thị ngoại hình người khác, hoặc chính con em mình đang trở thành nạn nhân của nạn miệt thị ngoại hình. Đó là một thực trạng nhức nhối trong xã hội hiện nay.
1.4.2. Ảnh hưởng từ xã hội
* Mạng xã hội: Thời gian vừa qua, làn sóng mạng xã hội xuất hiện và bùng nổ khiến cho thói quen sử dụng internet của người dân, đặc biệt là giới trẻ thay đổi. Tốc độ gia tăng thành viên của các mạng xã hội ngày càng dữ dội, thời gian họ dành cho những tiện ích trên những trang mạng này mỗi ngày nhiều hơn và họ hầu như không kiểm soát được. Không thể phủ nhận vai trò “người bạn ảo” chia sẻ những vui buồn trong cuộc sống của các trang mạng xã hội thịnh hành với giới trẻ Việt hiện nay như Facebook, Yume, Zing, Yobanbe Người trẻ đến với mạng xã hội xuất phát từ lối sống nhanh, khi không gian chia sẻ đời thực bị thu hẹp.
 Ảnh: Sự mê hoặc của Facebook
Mạng xã hội giống như một quyển nhật kí điện tử ghi lại những ý nghĩa, cảm xúc bản thân nhưng nó lại là “Một trong những nguyên nhân khiến các em học sinh ở các cấp (chủ yếu cấp 2 và 3) không chú tâm việc học là do nhiều gia đình, phụ huynh không quan tâm, chăm sóc các em để các em sa đà vào các trang mạng xã hội. Từ đó, các em xem mạng xã hội như một “người bạn” không thể thiếu mà chưa biết được “người bạn” này là tốt hay xấu” Hiệu trưởng một trường THPT trên địa bàn Hà Nội chia sẻ. Để “làm mới” cuốn nhật kí này, người sử dụng phải liên tục cập nhật thông tin, chăm chỉ đăng lên trang cá nhân những hình ảnh của mình... Nhưng việc đăng hình hay cảm xúc của mình lên mạng xã hội, vô hình chung tạo điều kiện cho những kẻ thích tấn công người khác bằng những lời lẽ miệt thị ngoại hình, vì thực tế mỗi người có quan điểm khác nhau về cái đẹp. Với tốc độ phát triển của khoa học công nghệ thì mạng xã hội lại trở thành một “nơi lí tưởng” cho những kẻ thích tấn công người khác, mà công cụ cụ thể là ngôn từ. Hơn 80% số lời miệt thị diễn ra trên Facebook, Instagram hay Twitter mà hậu quả của nó là không thể chối bỏ.
* Môi trường giáo dục: Chúng ta thấy rằng hoàn cảnh bên ngoài tác động vào cá nhân rất khác nhau, cùng với những sự tác động có mục đích, có tổ chức thì cũng có không ít những tác động tự phát, ngẫu nhiên của hoàn cảnh xã hội. Trong những tác động đó thì giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức nên nó là nhân tố chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Tại sao Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách, ảnh hưởng tới hành vi, thái độ của học sinh?
Sở dĩ như vậy là bởi các lý do sau:
+ Giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực hiện có hiệu quả các mục đích đã đề ra.
+ Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như bẩm sinh- di truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được. Chúng ta có thể lấy một ví dụ đơn giản: Một em bé sinh ra không bị khuyết tật gì, cùng với sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể thì một vài năm sau, chắc chắn em bé sẽ biết nói. Nhưng nếu không được học tập thì em sẽ không thể đọc sách, viết thư và càng không thể có những kỹ xảo nghề nghiệp.
+ Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật, nó có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người. Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký, nghệ sĩ chơi ghi ta Văn Vượngchính là một minh chứng thuyết phục cho luận điểm này. Nhờ tác động đặc biệt của giáo dục nên có thể phục hồi ở họ những chức năng đã mất hoặc có thể phát triển về trí tuệ như những người bình thường.
+ Giáo dục còn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Đó chính là hiệu quả của công tác giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc những người phạm pháp.
+ Khác với các nhân tố khác, giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển. Điều đó có giá trị định hướng cho việc xây dựng mô hình nhân cách của con người Việt Nam với tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội.
Thực tế giáo dục cũng đã chứng minh rằng: sự phát triển tâm lý của học sinh chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của giáo dục và dạy học. Điều đó càng chứng tỏ tầm quan trọng của giáo dục. Chính bởi giáo dục có vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách, hình thành thái độ của con người với con người.	
Tuy nhiên, hiện nay giáo dục đang quá chú trọng đào tạo kiến thức, chưa chú trọng nhiều đào tạo kĩ năng sống cho học sinh. Giáo dục chỉ quan tâm tới chất lượng giảng dạy kiến thức, ít có thời gian đầu tư cho học sinh trải nghiệm, để được lắng nghe những chuyên gia tư vấn về những vấn đề nhạy cảm của học đường mà trong đó miệt thị ngoại hình đã và đang là hiện tượng nhức nhối trong xã hội hiện nay. Và vô tình các bạn học sinh đang có nhữnglời nói, hành động miệt thị ngoại hình người khác nhưng cũng không ý thức được mình đang miệt thị ngoại hình họ và nó có ảnh hưởng ra sao tới cá nhân, gia đình và xã hội.
2. Học sinh Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc với hiện tượng miệt thị ngoại hình
Từ thực tế của học sinh trường mình, tác giả tiến hành khảo sát ngẫu nhiên 200 học sinh về ảnh hưởng và tác động của body-shaming trong cuộc sống của các bạn. Kết quả khảo sát cho thấy 85% học sinh gặp phải hành vi này. Trong đó, 22,4% học sinh bị rất thường xuyên, chủ yếu tập trung những khuyết điểm của cơ thể như vóc dáng, mặt, da, eo, mông, đùi, chân, tay, răng Một số học sinh nữ giấu tên cho biết họ thường xuyên bị chỉ trỏ tướng “đô” giống con trai”, bị bạn bè gọi là “tivi LCD”, “hai lưng” Khi bị đánh giá như vậy, các em phải chịu nhiều áp lực. Body-shaming cũng được coi như dạng bạo lực về tâm lý. Đa số học sinh chưa tự xử lý được vấn đề này, thậm chí còn có suy nghĩ, hành động tiêu cực như “muốn trốn cả thế giới”, “tuyệt vọng muốn trốn ở nhà luôn hoặc đi phẫu thuật”Phản ứng chủ yếu của nạn nhân body-shaming là thụ động, im lặng chịu đựng. Một số ít chọn hành vi đánh lại người chế nhạo mình.
Trên một diễn đàn mạng xã hội, bạn N.T.A từng chia sẻ: ”Mình đã là nạn nhân của body shaming khi bị các bạn trong lớp chê cười vì chân tay quá to như con trai vậy. Mình thấy rất xấu hổ vì điều này. Là con gái, ai cũng mong mình nhỏ bé xinh xắn nhưng đâu phải ai cũng được như vậy. Nên mình rất mong các bạn khác hãy thôi bình luận, chỉ trỏ sau lưng như vậy bởi những người như mình sẽ cảm thấy cực kỳ tủi thân và chán nản”.
“Mình ở lớp hay bị chú ý bởi gương mặt đầy mụn. Bạn bè và ngay cả thầy cô cứ thấy mặt mình là hỏi “Sao nay mặt mụn dữ vậy?”. Có bạn thậm chí còn nói mặt mình trông như “đáy nồi cơm điện”. Dần dần mình bắt đầu tin vào những lời nói đó, rằng mình thật xấu xí. Mỗi ngày đi học đối với mình như một cơn ác mộng...”. - lời kể của bạn N.T.A có lẽ là tâm sự chung của rất nhiều người từng rơi vào hoàn cảnh tương tự khác.
(đồ mập! xấu xí! Thật kinh tởm)
3. Kết quả thực nghiệm tại Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc về miệt thị ngoại hình
3.1. Kết quả thực nghiệm
3.1.1. Phát phiếu điều tra thu thập số liệu
Chúng tôi đã xây dựng phiếu câu hỏi điều tra và phát ngẫu nhiên cho 200 bạn học sinh của trung tâm. Sau đó thu lại toàn bộ số phiếu từ các bạn tham gia khảo sát để tổng hợp, phân tích và đánh giá kết quả. 
3.1.2. Kết quả thu được như sau
Bảng 1: Kết quả điều tra hiện tượng miệt thị ngoại hình ở trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc
Câu hỏi
Kết quả
Tỉ lệ (%)
Câu 1: Bạn hiểu thế nào là Miệt thị ngoại hình (body shaming)?
200
100
Là hình thức dùng ngôn ngữ để chê bai, mỉa mai ngoại hình của người khác
80
40
Là chế giễu bản thân khi cảm thấy bản thân đi ngược lại những chuẩn mực của xã hội
04
2
Là hành động chỉ trích ai đó về cân nặng
04
2
Tất cả các

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_nghien_cuu_thuc_trang_va_dua_ra_giai_phap_nham_han_che.docx
  • docBia SKKN_co so.doc
  • docxPHỤ LỤC 2.docx
  • docPHULUC1.doc