I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Ngoài công việc giảng dạy thì giáo viên còn đảm nhận một nhiệm vụ, một
trọng trách hết sức cao cả đó là việc quản lý, tổ chức và hình thành nhân cách
cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp. Từ đó nhằm xây dựng lớp học
thành một tập thể đoàn kết, tích cực trong mọi hoạt động, mang tính chất giáo
dục toàn diện, phát huy khả năng tự quản, tự giác của HS dưới sự chỉ đạo thống
nhất về công tác chủ nhiệm của nhà trường. Công tác chủ nhiệm lớp thường vẫn
được coi là vừa “khó”, lại vừa “khổ”. Giáo viên chủ nhiệm lớp không đơn thuần
quản lý học sinh mà phải biết phối hợp với các giáo viên bộ môn, với tổ giám thị
trong nhà trường, với hội cha mẹ học sinh để quản lý theo dõi việc học tập, tinh
thần thực hiện nội quy của nhà trường.
dục toàn diện học sinh lớp mình phụ trách. - GVCN là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ trách theo đúng chủ trương, kế hoạch của nhà trường. - GVCN là cầu nối, là nhân vật trung gian thiết lập các mối quan hệ hai chiều: nhà trường - tập thể học sinh, nhà trường - phụ huynh. Như vậy GVCN vừa là đại diện cho nhà trường để giáo dục học sinh, để trao đổi với phụ huynh; vừa là đại diện cho tập thể học sinh, cha mẹ học sinh để liên lạc với nhà trường. - GVCN là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần gũi nhất đối với HS và tập thể lớp. - GVCN là người cố vấn cho công tác Đội và các hoạt động ngoài giờ khác ở lớp chủ nhiệm. 1.2. Chức năng của GVCN lớp: - GVCN xây dựng, tổ chức, lãnh đạo tập thể lớp thành một tập thể đoàn kết, tiến bộ. - GVCN vừa giáo dục tập thể vừa giáo dục cá nhân. - GVCN tổ chức các hoạt động giáo dục và các quan hệ của học sinh theo định hướng phát triển toàn diện nhân cách. 1.3. Nhiệm vụ của GVCN lớp: Giáo viên chủ nhiệm, ngoài các nhiệm vụ của một GV, còn có những nhiệm vụ sau đây: a) Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp; b) Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với các giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh của lớp mình chủ nhiệm; Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng tập thể lớp đoàn kết, tiến bộ. 6 c) Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học, đề nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm và học bạ học sinh; d) Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng. 1.4. Quyền hạn của GVCN lớp: Giáo viên chủ nhiệm ngoài các quyền hạn của một GV, còn có những quyền sau đây: a) Được dự các giờ học, hoạt động giáo dục khác của học sinh lớp mình; b) Được dự các cuộc họp của Hội đồng khen thưởng và Hội đồng kỷ luật khi giải quyết những vấn đề có liên quan đến học sinh của lớp mình; c) Được dự các lớp bồi dưỡng, hội nghị chuyên đề về công tác chủ nhiệm; d) Được quyền cho phép cá nhân học sinh nghỉ học không quá 3 ngày; e) Được giảm giờ lên lớp hàng tuần theo quy định khi làm chủ nhiệm lớp. 1.5. Các yêu cầu đối với GVCN lớp hiện nay: - GVCN phải có đạo đức nghề nghiệp. - GVCN cần quán triệt đường lối, chính sách, mục tiêu, nguyên lý giáo dục. - Thu thập và xử lý thông tin đa dạng về lớp chủ nhiệm. - GVCN phải biết lập kế hoạch năm học và các kế hoạch giáo dục ngắn hạn - Xây dựng tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. - Tổ chức các hoạt động giáo dục và các hình thức giao lưu đa dạng. - Phát hiện kịp thời và ngăn ngừa những xung đột trong lớp. - Đánh giá kết quả tu dưỡng, học tập và sự tiến bộ của học sinh về các mặt giáo dục. - Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. - Cập nhật hồ sơ công tác GVCN và hồ sơ học sinh. 1.6. Những phẩm chất chủ yếu của GVCN: - GVCN phải hết lòng yêu thương học sinh. Biết vui mừng, hạnh phúc với những tiến bộ hay thành công trong học tập của học sinh. Biết buồn hay lo lắng với những khuyết điểm mà học sinh mắc phải. GVCN phải có những tìm tòi sáng tạo mong muốn đến đến những gì tốt đẹp nhất cho học sinh. - GVCN phải có lòng yêu nghề, tận tâm với nghề và có tinh thần trách nhiệm cao, có ý chí vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. - Luôn khiêm tốn học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp và không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng tập thể lớp đoàn kết, tiến bộ. 7 - Có lối sống mẫu mực, gần gũi, thân thiện với học sinh và đồng nghiệp. Lời nói phải đi đôi với việc làm. 2. Cơ sở thực tiễn - Hiện nay công tác chủ nhiệm mặc dù được chú ý đến nhưng chưa có phương pháp, nhiều giáo viên chỉ chú tâm vào bồi dưỡng chuyên môn mà xem nhẹ công tác chủ nhiệm. - GVCN chưa thấy hết được vị trí và chức năng của mình. - Các giáo viên chủ nhiệm chưa có phương pháp tối ưu hoặc dùng một số phương pháp trong công tác chủ nhiệm không phù hợp, không hiệu quả. Nhất là đối với các GV trẻ mới ra trường. - Trong công tác chủ nhiệm chỉ chú tâm vào việc rèn luyện mà không chú ý đến việc xây dựng tập thể lớp đoàn kết. Do vậy, một số lớp dù học sinh đạt kết quả cao trong học tập nhưng lại chưa đạt được thành tích trong các hoạt động phong trào cũng như chưa tạo được không khí thân thiện trong lớp học. II. Thực trạng vấn đề 1. Thực trạng: Năm học 2018-2019, tôi được BGH phân công tiếp tục làm công tác chủ nhiệm lớp 9C gồm 43 học sinh, trong đó có 24 học sinh nam và 19 học sinh nữ. Kết quả của lớp khi chưa thực hiện đề tài (Học kì I lớp 8 năm học 2017-2018): Kết quả Tốt (Giỏi) Khá Trung bình Yếu SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ Hạnh kiểm 40 93% 3 7% 0 0 Học lực 17 40% 20 46% 6 14% 0 2. Thuận lợi và khó khăn: a) Thuận lợi: - Học sinh cả lớp cùng một độ tuổi, lớp lớn nhất của cấp THCS - Tất cả các em đều đang sinh sống tại địa phương. - Đa số các em học sinh đều ngoan, học lực đều từ trung bình khá trở lên. - Đa số học sinh được sự quan tâm chu đáo của phụ huynh học sinh cũng như phụ huynh phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục học sinh. - Cùng với các tập thể lớp khác, tập thể lớp 9C luôn được sự quan tâm, chỉ đạo của BGH nhà trường, của Đoàn - Đội Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng tập thể lớp đoàn kết, tiến bộ. 8 - Nhà trường tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất để học sinh được học hành, vui chơi, giải trí, tham gia các hoạt động đoàn thể. b) Khó khăn: - Tôi mới được phân công chủ nhiệm các em được một năm, từ năm học 2017- 2018. - Sự hiểu biết giữa học sinh và GVCN chưa có nhiều. - Trong lớp học sinh chia bè chia phái mà không có sự đoàn kết, lí do là vì em thì học rất giỏi, rất ham học chỉ tập trung cho việc học như em Nguyễn Thành Đạt, em Nguyễn Thị Minh Nguyệt; em thì học trung bình và còn yếu ở một số môn như em Đinh Trung Anh, em Vũ Đức Quyết. - Đa số phụ huynh các em còn trẻ đều đi làm từ sáng đến tối mới về hoặc bố mẹ đều đi làm ăn xa phải ở nhà với ông bà nội nên các em ít nhiều cũng thiếu đi sự quan tâm sát sao của các bậc phụ huynh. - Nhiều em đã có dấu hiệu lún sâu vào chuyện tình cảm hoặc có em nghiện chơi game III. Các biện pháp tiến hành 1. Ổn định tổ chức lớp học. 1.1. Lựa chọn ban cán sự lớp: a) Cơ sở lựa chọn: Một ngôi nhà muốn chắc chắn thì trước tiên phải có khung nhà vững chắc. Một lớp học cũng như một ngôi nhà, muốn vững chắc trong mọi hoạt động và thực sự là ngôi nhà của mọi thành viên thì cần có một đội ngũ ban cán sự lớp có năng lực, nhiệt tình, năng động được các bạn tin yêu để điều hành duy trì mọi hoạt động của lớp. Để thực hiện ý định trên tôi dựa vào các căn cứ sau: - Dựa vào kết quả học tập của năm học trước. - Dựa vào sự tín nhiệm của tập thể lớp thông qua bầu dân chủ qua đại hội Chi đội đầu năm học. - Gần gũi trao đổi với những em mà tôi tin tưởng để tìm hiểu thông tin về những học sinh trong dự kiến làm cán bộ lớp. b) Thành lập sơ đồ cơ cấu tổ chức lớp học: Căn cứ vào các cơ sở trên tôi quyết định thành lập cơ cấu tổ chức lớp học như sau: Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng tập thể lớp đoàn kết, tiến bộ. 9 c) Giao nhiệm vụ cụ thể: - Lớp trưởng: quản lý, điều hành toàn bộ các hoạt động của lớp dưới sự chỉ đạo của GVCN, chủ trì các cuộc họp lớp, sinh hoạt lớp đầu tuần, báo cáo mọi hoạt động trực tiếp cho GVCN, thống kê hạnh kiểm hàng tháng từ sổ theo dõi của tổ trưởng cho GVCN vào cuối tháng. - Lớp phó học tập: lên danh sách học sinh tốt nhất cho từng bộ môn, phân công phụ trách giúp đỡ bạn học yếu hơn, báo cáo việc làm bài tập về nhà của học sinh trong lớp, duy trì truy bài 15 phút; quản lý, giữ gìn sổ đầu bài buổi sáng Tổ trưởng tổ 1: Vũ Thị Minh Thúy Tổ trưởng tổ 2: Nguyễn Thị Lan Anh Tổ trưởng tổ 3: Chu Thị Tuyết Nhung Lớp trưởng: Hoàng Nhật Minh LP học tập: Nguyễn Thị Minh Nguyệt LP văn thể mĩ: Trần Thị Thanh Lam Tổ trưởng tổ 4: Nguyễn Thanh Huyền Cô giáo chủ nhiệm Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng tập thể lớp đoàn kết, tiến bộ. 10 và buổi chiều, ghi các mục: học sinh vắng, bỏ tiết, không học bài, không làm bài tập...; thống kê học sinh bị ghi vào sổ đầu bài cuối học kì cho GVCN. - Lớp phó văn thể mĩ: Phụ trách văn nghệ, thể dục thể thao, chủ trì các cuộc thi và các phong trào thi đua của lớp. - Bốn tổ trưởng: Theo dõi mọi hoạt động của tổ mình, xét thi đua hàng tuần học sinh trong tổ theo tiêu chí đánh giá và tổng kết lại cho lớp trưởng vào ngày thứ sáu. c) GVCN lập sổ theo dõi và giao lại cho từng bộ phận *Ví dụ: Phụ lục 1.2. Lập sơ đồ lớp học: - Căn cứ vào học lực của học sinh, chia đều số học sinh trung bình vào mỗi tổ và xen kẽ với học sinh có học lực khá, giỏi. - Căn cứ vào tình trạng sức khỏe: chiều cao của học sinh, có tật khúc xạ... - Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp, cán sự lớp phải có mặt rải rác ở khắp các tổ và ở vị trí dễ kiểm soát các thành viên trong lớp cũng như tiện cho hoàn thành công việc được giao. - Các học sinh hiếu động, hay mất trật tự được xếp ở đầu bàn, đầu dãy. * Ví dụ: phụ lục 2. Lập kế hoạch chủ nhiệm: 2.1. Kế hoạch năm: - Căn cứ kế hoạch, nhiệm vụ của nhà trường. - Căn cứ đặc điểm tình hình lớp (thuận lợi, khó khăn). - Căn cứ vào chủ đề các đợt thi đua của trường, của Đoàn- Đội. - Căn cứ vào các nhiệm vụ công tác chủ nhiệm từng tháng và trong năm học. 2.2. Kế hoạch hoạt động tuần, tháng: - Nêu những công việc hoạt động trong tuần. - Có đối tượng tham gia. - Biện pháp thực hiện. - Kết quả đạt được. - Nhận xét, rút kinh nghiệm. 3. Phối hợp thống nhất biện pháp giáo dục học sinh với BGH, với giáo viên bộ môn, với Đoàn - Đội, với gia đình học sinh. 3.1 Phối hợp với Ban giám hiệu: - GVCN lấy chủ trương hoạt động của nhà trường do BGH cung cấp để lên kế hoạch hoạt động của lớp mình, chịu trách nhiệm truyền đạt cho phụ huynh và học sinh về chủ trương của trường, của sở. Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng tập thể lớp đoàn kết, tiến bộ. 11 - Báo cáo thường xuyên với Ban giám hiệu về tình hình của lớp theo định kì hoặc đột xuất khi có vấn đề cần giải quyết. 3.2. Phối hợp với giáo viên bộ môn: - Thống nhất hình thức và biện pháp giáo dục học sinh đặc biệt là học sinh nghỉ học không phép, tự ý bỏ tiết, không ghi bài, ... - Phản ánh, trao đổi kịp thời những mong muốn của học sinh đến GVBM và ngược lại GVCN cung cấp danh sách học sinh yếu môn học nào đó với GVBM. 3.3. Phối hợp với Đoàn - Đội: - Phối hợp với Ban chỉ huy Chi đội theo dõi và xử lí các học sinh vi phạm nội quy nhà trường. - Phối hợp với cán bộ liên đội đôn đốc nền nếp của lớp và triển khai các cuộc thi của Đoàn - Đội. 3.4. Phối hợp với gia đình học sinh. - Thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh chưa tiến bộ, còn vi phạm nội quy của trường, lớp. - Trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của học sinh cũng như phổ biến các chủ trương, kế hoạch hoạt động của nhà trường thông qua các cuộc họp phụ huynh. - Trao đổi với phụ huynh thường xuyên về tình hình của học sinh thông qua quyển sổ liên lạc riêng của lớp. Học sinh trong một tuần đặt được thành tích gì về điểm số hay vi phạm nội quy gì đều được thể hiện trong sổ liên lạc. Phụ huynh xem, kí sổ và trao đổi với GVCN về tình hình của con mỗi tuần. * Ví dụ: Phụ lục 4. Gắn kết học sinh với học sinh, giữa cô với trò bằng tình yêu thương. Tình yêu thương thực sự là phép màu gắn kết tình thầy trò, cởi mở thân thiện, tình thương người và giúp đỡ lẫn nhau. Trước hết, tôi thường xuyên trao đổi, trò chuyện với học sinh như những người bạn, lắng nghe ý kiến của các em đồng thời tìm hiểu hoàn cảnh, tính nết của từng em.Ví dụ như với em Phan Thành Đạt, bố mẹ đều đi làm ăn xa, chỉ ở nhà với ông bà nội nên kết quả học tập có phần bị ảnh hưởng. Thấy vậy tôi thường xuyên hỏi han em, động viên em cố gắng và quan tâm đến việc học tập của em trên lớp. Tôi còn xếp cho em ngồi cạnh một bạn học giỏi để giúp đỡ em trong công việc học tập là em Nguyễn Thị Minh Nguyệt. Vì vậy, theo thời gian em đã có những biến chuyển về học tập thể hiện bằng điểm số, bằng ý thức học tập trên lớp. Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng tập thể lớp đoàn kết, tiến bộ. 12 Với học sinh sự công bằng là vô cùng cần thiết. GVCN thể hiện tình yêu thương học sinh của mình có thể chỉ đơn giản là thực hiện sự công bằng với học sinh. Với mọi việc trong lớp, tôi đều xử lí trên quan điểm công bằng, học sinh ngoan thì được khen, học sinh vi phạm nội quy thì có hình thức phạt. Nhưng trước khi xử phạt các em, tôi đều phân tích cho các em hiểu cái đúng, cái sai của mình. Ví dụ như em Đinh Trung Anh một học sinh trung bình yếu của lớp. Em thường xuyên không học bài và làm bài tập về nhà. Tôi tìm hiểu nguyên nhân bằng cách trò chuyện với em. Để từ đó em tự nhận ra cái sai của mình và để em tiến bộ hơn tôi giao cho bạn ngồi cùng bàn với em là em Nguyễn Thành Đạt- một học sinh giỏi của lớp- giúp đỡ em trong việc làm bài tập về nhà vào cuối buổi học. Bằng những việc làm này tôi nhận thấy tình cảm bạn bè của học sinh trong lớp có sự biến chuyển. Các em biết giúp đỡ và yêu thương lẫn nhau. 5. Xử lí khéo léo các tình huống sư phạm và dạy học sinh kĩ năng sống. Điều này rất quan trọng nếu muốn các em tâm phục, khẩu phục và làm theo những gì GVCN nói. Ta phải xử lí thật công bằng, khéo léo, thông minh mà không được phạm vào lòng tự trọng của các em.Ví dụ khi có một học sinh tinh nghịch đã đổ nước vào cặp bạn làm ướt cặp của bạn. Tôi có hỏi các em là bạn nào mà nghịch dại như vậy, nghịch như vậy có thể làm ướt sách vở của bạn, nếu đã lỡ tay làm thì đứng lên xin lỗi bạn. Khi không có ai đứng lên nhận, tôi lại nói: dám làm thì phải dám chịu, con người phải có bản lĩnh và đừng ngại nói lời xin lỗi. Đừng để trò đùa vô tâm của mình làm cho tình bạn bị sứt mẻ. Sau đó có bạn đã đứng dậy nhận lỗi và xin lỗi các bạn trước cả lớp. Tôi cũng đã gặp riêng và nói chuyện để các em hiểu ra lỗi sai của mình và lần sau không tái phạm. Có những học sinh trong lớp đã xuất hiện tình cảm khác giới. Tôi cũng gặp riêng hai em để nói chuyện tâm sự như những người bạn. Tôi phân tích để các em hiểu việc gì là quan trọng nhất lúc này và việc các em cần làm lúc này là gì cũng như việc các em làm bây giờ chỉ sai ở chỗ chưa đúng lúc, chưa đúng thời điểm còn việc các em có tình cảm với nhau không có gì là sai. Dần dần các em hiểu ra qua vài buổi nói chuyện như vậy nên cũng đã hạn chế dần tình cảm của các em phát triển mà chỉ dừng lại ở mức tình bạn bè thân thiết biết gúp đỡ nhau và cùng phấn đấu trong học tập. Nói chung khi xử lí bất kì việc gì tôi cũng thường đặt địa vị mình là các em để hiểu các em hơn. Với học sinh lười học, lười chuẩn bị bài hay không tập trung trong giờ học thì trong giờ ra chơi hoặc là cuối buổi học em đó phải ở lại học bù, để cho em thấy được giá trị giờ nào việc ấy.Với những em nào trực nhật không sạch, sẽ Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng tập thể lớp đoàn kết, tiến bộ. 13 phạt trực nhật bù cho đến bao giờ sạch mới thôi để cho em thấy làm việc gì cũng phải làm đến nơi đến chốn, nếu không sẽ mất nhiều thời gian hơn cho việc khắc phục hậu quả.Với em nào không biết giữ vệ sinh chung, sẽ phạt dọn vệ sinh nơi vi phạm để em thấy được sự vất vả của người dọn vệ sinh và rèn tính tự giác giữ vệ sinh chung. Ngoài ra thỉnh thoảng, tôi cho các em đọc các mẩu chuyện về các cách ứng xử trong cuộc sống hoặc là những câu chuyện chính mình trải qua để các em học tập theo. Có thể đơn giản chỉ là “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Đôi khi ta có thể làm bạn đau lòng vì một lời nói vô tình. Tôi dạy các em trước khi nói phải suy nghĩ thật kĩ. Hoặc có thể chỉ đơn giản là khi ăn uống tại bất kì nơi đâu các em phải biết giữ vệ sinh chung. Các em phải biết để rác gọn vào túi rồi sau đó vứt vào thùng rác (Điều mà năm đầu tiên chủ nhiệm các em tôi nhận thấy các em chưa có kĩ năng) Tôi cũng dạy cho học trò của mình cách đối nhân xử thế. Ví dụ như khi ăn liên hoan tại lớp có các bác phụ huynh và cô giáo các em phải biết mời người lớn ăn trước rồi các em mới bắt đầu ăn. Đi chơi tham quan phải biết nhường ghế ngồi cho các thầy cô. Khi biết mình có lỗi phải biết nói lời xin lỗi và cũng phải biết tha thứ khi người khác có lỗi với mình nhưng họ đã kịp nhận ra. Đặc biệt tôi dạy các em phải có tình yêu thương lẫn nhau như anh chị em một nhà, bởi lẽ các em ở trên trường với nhau rất nhiều thời gian có khi còn nhiều hơn ở nhà. Rồi các em phải biết kính trọng các thầy cô giáo bởi đó là những người cha người mẹ thứ hai của các em, nếu các em thiếu tôn trọng thầy cô thì cũng như các em đang thiếu tôn trọng cha mẹ của mình. Cứ như thế lời tôi dạy các em vào mỗi tiết sinh hoạt hay những giờ hoạt động ngoài giờ cứ thấm dần vào các em. Các em đã tự nhận ra các em cần làm những gì và những gì các em làm là đúng là sai. 6. Bản thân GVCN là tấm gương sáng về nhân cách cho các em. Bản thân tôi luôn tâm niệm, mình muốn học sinh nghe theo lời mình nói thì mình phải làm gương cho các em trước đã. Không chỉ ở lời nói mà ở cả hành động, ở cả cách đối nhân xử thế của mình, GVCN đều phải là tấm gương sáng cho các em. Để các em tin tưởng mình hơn thì tôi cũng phải tin tưởng các em. Để các em yêu thương và tôn trọng mình thì trước hết GVCN cũng phải yêu thương và tôn trọng các em. Để các em nghiêm túc trong học tập và làm việc thì bản thân GVCN cũng cần nghiêm túc trong học tập, làm việc. Để các em biết yêu thương lẫn nhau tôi cũng phải thể hiện tình yêu thương, quý trọng đồng nghiệp của mình trước các em... Nói chung, các em sẽ luôn nhìn vào tấm gương người GVCN để làm theo. Tôi cũng nghĩ việc thay đổi ở các em không thể một Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng tập thể lớp đoàn kết, tiến bộ. 14 sớm một chiều nhưng mưa dần thấm lâu. Mình cứ làm đi rồi sẽ thu được thành quả. Có thể là chưa phải ngay bây giờ, ngay lúc này mà sẽ ở tương lai của các em sau này. IV. Kết quả đạt được Với sự giúp đỡ của các bậc phụ huynh, của BGH, của các bạn đồng nghiệp, của Đoàn đội ... tôi đã đạt được một số kết quả như sau: 1. Học kì II năm lớp 8 (Năm học 2017-2018) Sau một học kì áp dụng đề tài, kết quả đạt được của lớp có sự khởi sắc. Cụ thể: a) Kết quả hai mặt giáo dục: Kết quả Tốt (Giỏi) Khá Trung bình Yếu SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ Hạnh kiểm 41 95,4% 2 4,6% 0 0 Học lực 24 56% 19 44% 0 0 b) Một số thành tích nổi bật khác: - Lớp có 5 em vào đội tuyển HSG cấp huyện. Đó là em Nguyễn Thành Đạt, em Nguyễn Thị Minh Nguyệt - môn Toán; em Chu Thị Tuyết Nhung, em Nguyễn Phương Anh - môn Văn, em Dương Tiến Dũng - môn Địa. - Các em tham gia thi Hội khỏe Phù Đổng cấp huyện cũng đạt thành tích cao: em Nguyễn Tiến Đạt, em Nguyễn Thị Mai Liên - môn cầu lông; em Nguyễn Thị Lan Anh - môn điền kinh; em Nguyễn Duy Linh - môn cờ tướng. - Các phong trào thi đua ở trường: + Đạt giải nhất kéo co dịp kỉ niệm 26/3 + Đạt giải khuyến khích văn nghệ dịp kỉ niệm 26/3 + Lớp đạt thành tích cao trong đợt hội thu kế hoạch nhỏ... 2. Học kì I năm lớp 9 (Năm học 2018-2019) Sau gần một năm áp dụng đề tài, kết quả đạt được của lớp đã ngoài sự mong đợi của tôi. Cụ thể: a) Kết quả hai mặt giáo dục: Kết quả Tốt (Giỏi)
Tài liệu đính kèm: