SKKN Nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên tại Trường Mầm non Thanh Lương

SKKN Nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên tại Trường Mầm non Thanh Lương

5. Mô tả bản chất của sáng kiến:

5.1. Tính mới của sáng kiến

Bậc học mầm non là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có

nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ phát triển toàn diện. Nói đến giáo dục

mầm non, Bác Hồ kính yêu đã khẳng định: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một

nền giáo dục tốt”.

Việc nâng cao chất lượng dạy và học là một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho những

nhà quản lý cũng như mỗi người giáo viên“Làm thế nào trở thành một trường mầm

non phát triển tốt”. Chất lượng giảng dạy và giáo dục của nhà trường phải khẳng định2

là phụ thuộc vô cùng lớn vào đội ngũ giáo viên. Đội ngũ giáo viên tốt sẽ cho ra một

thế hệ học trò tốt. Trong thời đại hiện nay, nhu cầu học tập của trẻ ngày càng lớn, khả

năng tiếp thu của trẻ ngày càng cao. Để đáp ứng nhu cầu học tập của trẻ trước hết phải

có đội ngũ giáo viên vững mạnh về chuyên môn nghiệp vụ và điều đó không thể bỏ

qua việc nâng cao chất lượng cho giáo viên. Mục tiêu của công tác bồi dưỡng chuyên

môn nghiệp vụ là nhằm khắc phục những thiếu sót, những hạn chế trong quá trình

giảng dạy. Mỗi người giáo viên phải tự học, tự rèn luyện qua các lớp bồi dưỡng; qua

trao đổi kinh nghiệm; qua thao giảng, dự giờ; qua các đợt thi giáo viên dạy giỏi các

cấp. Bên cạnh đó giáo viên còn phải rèn luyện phẩm chất tư tưởng chính trị, phẩm chất

đạo đức; có tinh thần đoàn kết nội bộ, tinh thần trách nhiệm để khẳng định bản thân

với nhà trường với cha mẹ trẻ và đồng nghiệp

pdf 16 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 02/03/2022 Lượt xem 1967Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên tại Trường Mầm non Thanh Lương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệu nhà trường xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình 
độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới trong chương trình 
giáo dục Mầm non. Đó cũng chính là lí do tôi lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng 
chuyên môn cho đội ngũ giáo viên tại trường mầm non Thanh Lương”. 
5.2. Nội dung sáng kiến 
Thống kê kết quả xếp loại tiết dạy và kết quả hội thi GVDG các cấp trong 
những năm học gần đây như sau: 
3 
- Tổng hợp tiết dạy của giáo viên cả năm học: 2019 - 2020: 
+ Tổng số tiết dự giờ, thao giảng toàn trường: 96 tiết/16 giáo viên. Bình quân 
mỗi giáo viên dạy 6 tiết/năm. 
+ Tiết dạy xếp loại Tốt: 24 hoạt động, tỉ lệ: 25 % 
+ Tiết dạy xếp loại Khá: 63 hoạt động, tỉ lệ: 65,6 % 
+ Tiết dạy xếp loại Đạt yêu cầu: 9 hoạt động, tỉ lệ: 9,4 % 
- Tổng hợp số liệu giáo viên dạy giỏi các cấp qua những năm gần đây. 
Năm học 
Cấp 
trường 
Cấp 
Thị xã 
Cấp 
tỉnh 
Giải 
thưởng 
2017-2018 6 3 2 - Giải III toàn 
đoàn cấp TX; 
- Cá nhân giải 
khuyến khích cấp 
TX và cấp Tỉnh. 
2018-2019 7 (Không tổ chức) (Không tổ chức) 
2019-2020 8 (Không tổ chức) (Không tổ chức) 
Việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng chuyên môn cho giáo viên ngày càng đạt 
nhiều tiết dạy xếp loại tốt, đủ năng lực và đủ điều kiện tham gia thi giáo viên dạy giỏi 
các cấp. Tôi đã đưa ra các biện pháp như sau: 
Biện pháp 1: Định hướng, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn. 
Trước hết, tôi đánh giá khả năng, trình độ chuyên môn, các mặt mạnh, mặt hạn 
chế của từng giáo viên qua: kiểm tra, dự giờ; qua duyệt kế hoạch giáo dục; qua làm và 
sử dụng đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo; qua các buổi sinh hoạt chuyên môn v.v. Từ 
đó tôi xác định từng giáo viên cần bồi dưỡng những gì; xây dựng kế hoạch cần cụ thể 
những giáo viên nào cần được bồi dưỡng về kỹ năng; giáo viên nào cần được bồi 
dưỡng cách xác định mục tiêu giáo dục; giáo viên nào cần được bồi dưỡng về thủ thuật 
gây hứng thú hay năng lực quản lý trẻ v.v. 
VD 1: cô Lê Thu Hiền, cô Ninh Thị Hòa, cô Đoàn Thị Hòa là những giáo viên 
mới ra trường, hầu như xác định mục tiêu giáo dục chưa được đầy đủ; xác định còn 
nhầm lẫn giữa kiến thức và kỹ năng; nội dung trọng tâm chưa được đầy đủ so với mục 
tiêu cần đạt; chưa có nhiều kinh nghiệm trong quản lý lớp; hình thức tổ chức chưa linh 
hoạt; chưa xử lý được các tình huống xảy trong khi tổ chức, đa phần giáo viên khi 
4 
không xử lý được sẽ lướt qua xem như “không nghe, không thấy”. 
 Cần bồi dưỡng về kiến thức, phương pháp, tác phong, các kỹ năng khi tổ 
chức các hoạt động; thủ thuật gây hứng thú cho trẻ tích cực tham gia hoạt động; bồi 
dưỡng năng lực quản lý trẻ. 
Bên cạnh đó còn có những giáo viên có thâm niên lâu năm như cô Trương Thị 
Cúc, cô Nguyễn Thị Thu Huyền, cô Nguyễn Thị Thanh... năng lực chuyên môn không 
đồng đều; kinh nghiệm tổ chức các hoạt động giáo dục chưa mang tính chủ động cao, 
nắm chưa vững phương pháp lấy trẻ làm trung tâm. 
 Cần bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng giảng dạy lấy trẻ 
làm trung tâm. 
Biện pháp 2: Bồi dưỡng năng lực chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức hiệu quả 
các hoạt động thao giảng, dự giờ; sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề 
Thao giảng, dự giờ và sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là hoạt 
động thường xuyên của mỗi giáo viên, nhưng không phải tiết dạy nào cũng đạt kết quả 
cao. Để việc thao giảng, dự giờ đạt kết quả như mong muốn tôi đã chú trọng cho giáo 
viên thực hiện như sau: 
Dựa trên kế hoạch giáo dục của nhà trường, tôi phân công khối trưởng cho tất 
cả giáo viên trong khối đăng ký các tiết thao giảng. Không phân biệt hay bắt buộc giáo 
viên dạy giỏi lâu năm lên tiết mẫu mà ngay cả giáo viên trẻ có năng lực cũng được 
phân công lên tiết để tạo cơ hội cho giáo viên được cọ xát, được phát huy khả năng, 
năng lực và các tình huống xảy ra trong tiết dạy. 
Chú trọng đầu tư các tiết dạy thao giảng, tiết dạy mẫu có ứng dụng công nghệ 
thông tin; có đồ dùng tự tạo đẹp hấp dẫn trẻ; hình thức tổ chức sáng tạo; vận dụng tốt 
phương pháp lấy trẻ làm trung tâm trong mọi hoạt động; khai thác và phát huy hết tác 
dụng của đồ dùng, đồ chơi mang lại hiệu quả cao. 
Với tiết dạy mẫu sinh hoạt chuyên đề tôi sẽ lựa chọn giáo viên có năng lực sở 
trường, năng khiếu riêng để lên tiết mẫu đạt hiệu quả cao nhân rộng toàn trường học 
tập. 
 VD: cô Nguyễn Đăng Thị Thu có năng khiếu về âm nhạc sẽ lên tiết mẫu hoạt 
động “Giáo dục âm nhạc”; cô Vũ Thị Miền có sở trường về “Tìm hiểu môi trường 
xung quanh” sẽ lên tiết mẫu như: sự chuyển động của nước, chiếc lá cây, sự kỳ diệu 
của giấy, điều kỳ diệu của nam châm v.v; cô Tạ Thị Loan có nhiều sáng tạo trong hoạt 
5 
động “Làm quen văn học” sẽ lên tiết thơ hoặc truyện v.v. 
Một số hình ảnh minh họa 
 HĐ thí nghiệm: Bóng bay không cháy Thí nghiệm sự chuyển động của nước 
Tôi chỉ đạo các khối tổ chức thảo luận kế hoạch giảng dạy trước khi lên tiết 
Giáo viên sau khi đầu tư vào kế hoạch giáo dục, đưa cho các thành viên trong khối 
nghiên cứu trước, đến khi tổ chức thảo luận sẽ không mất thời gian suy nghĩ mà sẽ đưa 
ra các đóng góp ý kiến về: Mục tiêu cần đạt đã đầy đủ phù hợp với lứa tuổi hay chưa; 
nội dung đã trọng tâm chưa; các nội dung lồng ghép giáo dục khác đã đảm bảo mở 
rộng kiến thức, vốn sống cho trẻ chưa v.v; mỗi giáo viên sau khi góp ý nội dung nào 
chưa đạt, chưa phù hợp thì phải đưa ra ý tưởng cần phải làm gì, làm như thế nào với ý 
kiến mình vừa góp ý để đạt được mục tiêu đề ra. Có thể dự kiến, đề ra một số tình 
huống sư phạm xảy ra theo kinh nghiệm giảng dạy lâu năm của bản thân giúp đồng 
nghiệp khi lên tiết mà gặp phải sẽ bớt lúng túng và bình tĩnh xử lý phù hợp, hiệu quả. 
Với những giáo viên không có sở trường, năng khiếu ở các lĩnh vực khác họ rất 
ngại lên tiết về lĩnh vực đó. Giáo viên thường chọn những tiết sở trường, năng khiếu 
để không phải đầu tư nhiều. Với thực tế đó, tôi sẽ sắp xếp thời gian và trực tiếp bồi 
dưỡng, nâng cao chuyên môn cho giáo viên qua dự giờ hàng tuần. 
VD 1: Cô Tạ Thị Loan, Nguyễn Thị Mơ, cô Lê Thu Hiền năng khiếu về giáo 
dục âm nhạc rất hạn chế, tôi sẽ tư vấn cho giáo viên lựa chọn những bài hát phù hợp 
với chất giọng của giáo viên. Lĩnh vực này buộc giáo viên đều phải lên tiết với nhiều 
hình thức trọng tâm: Nghe hát, dạy hát, vận động múa, vận động minh họa v.v; vì 
không tự tin khi hát mẫu hay hát cho trẻ nghe, giáo viên khi hát sẽ không thể hiện 
6 
được sắc thái biểu cảm của giai điệu của bài hát. Sau tiết dạy mà kết quả đạt chưa cao, 
tôi sẽ là người trực tiếp ra dạy mẫu và yêu cầu giáo viên thực hiện lại nhiều lần. 
VD 2: 1 số giáo viên khi tổ chức hoạt động thể dục còn rất hạn chế về phần 
khởi động và bài tập phát triển chung. Đa số đi, chạy chưa đủ số vòng đã chuyển sang 
kiểu đi, kiểu chạy khác hoặc không khớp nhịp với giai điệu bài hát. Tôi thực hiện mẫu 
và phân tích điểm bắt đầu và điểm kết thúc cho 1 kiểu đi, kiểu chạy, rèn kỹ năng nghe 
nhạc để khớp nhịp động tác với giai điệu bài hát. 
Với những giáo viên mới ra trường còn nhiều hạn chế về năng lực soạn bài, kế 
hoạch giáo dục phải duyệt lại đến lần thứ 3 mới đưa vào thực hiện. Lý do: giáo viên 
xác định mục tiêu chưa chính xác, chưa đầy đủ các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng hoặc 
giữa kiến thức và kỹ năng còn nhầm lẫn, nội dung các bước hoạt động sơ sài. Tôi cho 
giáo viên tham khảo những giáo án có chất lượng, sau đó tôi chọn 1 số đề tài của 5 
lĩnh vực yêu cầu giáo viên xác định mục tiêu. Với từng hoạt động khác nhau tôi sẽ 
điều chỉnh, phân tích, hướng dẫn cho giáo viên nắm vững kiến thức là gồm những gì, 
sử dụng từ nào cho kiến thức; kỹ năng gồm rèn những gì, thường thì sử dụng những từ 
nào v.v. 
VD minh họa GV xác định mục tiêu đề tài bật xa 50cm như sau: 
+ Kiến thức: Trẻ biết bật xa 50cm, kết hợp được tay và chân khi bật, chạm đất 
đúng tư thế. Hoặc: Trẻ biết bật xa 50cm đúng theo bài tập, tập được bài tập phát triển 
chung. 
+ Kỹ năng: Rèn cho trẻ kỹ năng bật xa, phát triển cơ chân qua bài tập. 
- Mục tiêu xác định đầy đủ chính xác như sau: 
+ Kiến thức: Trẻ biết nhún lấy đà bật qua vạch xa 50cm, biết kết hợp tay và 
chân khi bật. 
+ Kỹ năng: Rèn cho trẻ kỹ năng bật xa nhanh, mạnh, giữ được thăng bằng khi 
tiếp đất, khéo léo không dẫm vào vạch. 
Ngoài bồi dưỡng chuyên môn thì mỗi giáo viên cần được góp ý, rèn luyện các 
kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục như: hướng ngồi của giáo viên so với trẻ; cách thể 
hiện tình cảm bằng ánh mắt, nụ cười, cử chỉ điệu bộ; cách đưa tay mời trẻ trả lời; cách 
thể hiện giọng nói để thu hút trẻ chú ý lên cô; cách sắp xếp đồ dùng, đồ chơi khoa học 
để trẻ dễ lấy, dễ sử dụng; cách rèn nề nếp lớp; cách sắp xếp đội hình trẻ trong từng 
hoạt động sao không lặp lại đội hình, thuận tiện không vướng vào nhau hoặc không 
7 
cách xa rời nhau sẽ làm cho tiết học rời rạc; 1 tiết dạy thành công của giáo viên phải 
hội tụ đủ các yếu tố cơ bản trên, giúp trẻ mạnh dạn tự tin, tích cực hơn khi tham gia 
vào các hoạt động. 
Việc đánh giá kết quả của 1 tiết dạy thao giảng, dự giờ là nội dung quan trọng 
nhất, cũng là sự thể hiện tinh thần đoàn kết, hỗ trợ giúp đỡ đồng nghiệp của tập thể 
giáo viên. Một số giáo viên trẻ rất áp lực khi lên tiết thao giảng và các tiết sinh hoạt 
chuyên môn theo nghiên cứu bài học. Vì không được dạy trước nên rất lúng túng và 
không xử lý được tình huống xảy ra. Để không tạo áp lực cho giáo viên sau mỗi tiết 
dạy tôi luôn quán triệt và coi trọng tinh thần trao đổi thẳng thắn, chân tình, cởi mở của 
đội ngũ giáo viên với mục đích giúp đồng nghiệp và bản thân rút ra nhiều kinh nghiệm 
để các tiết dạy tiếp theo sẽ được tổ chức tốt hơn, tự tin hơn, hiệu quả hơn. 
Biện pháp 3: Đẩy mạnh sinh hoạt tổ, khối chuyên môn. 
Đẩy mạnh sinh hoạt tổ chuyên môn là một biện pháp không thể thiếu trong 
công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên. Tổ 
chuyên môn là nơi giáo viên gắn bó giúp đỡ nhau hiệu quả nhất vì Ban giám hiệu 
không thể cùng một lúc sinh hoạt đều ở các tổ. 
Tôi chỉ đạo tổ trưởng các tổ, khối vào ngày thứ 4 hàng tuần cả tổ cùng thảo luận 
những vấn đề còn vướng mắc trong khi thực hiện chương trình để cùng nhau giải 
quyết 1 số nội dung như: 
+ Thống nhất mục tiêu một số đề tài khó, cấu trúc bài soạn, nội dung trọng tâm 
của đề tài đó cần cung cấp kiến thức gì? kỹ năng gì? kết quả trẻ lĩnh hội được gì? 
+ Thảo luận hoạt động LQVH với cấu trúc hoạt động kể chuyện theo kinh 
nghiệm; kể chuyện theo tranh chủ đề; kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi; kể chuyện theo 
chủ đề tự do v.v. 
+ Thảo luận cách quản lý trẻ ở lớp sao cho hiệu quả, làm thế nào thu hút trẻ chú 
ý vào cô xuyên suốt cả tiết học. 
+ Thảo luận xây dựng kế hoạch giáo dục đảm bảo: phương pháp, hình thức tổ 
chức giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong các hoạt động giáo dục. 
 + Sáng tác một số trò chơi mới ở hoạt động LQCC, LQVT, GDAN; tạo ra 1 
số hình thức đọc thơ nhằm thu hút trẻ, tránh nhàm chán. 
VD 1: Sáng tạo hình thức dạy trẻ đọc thơ 
Các khối đã thảo luận sáng tạo thêm hình thức: đọc nối tiếp theo tranh, cá nhân 
8 
đọc thơ theo hoạt cảnh, trên mô hình v.v. 
 Hình thức đọc nối tiếp: đề tài “đàn gà con” trẻ sẽ cầm quả trứng nhựa trên tay 
vừa đọc thơ vừa chuyền quả trứng sang cho bạn kế tiếp, khi dứt câu thơ thì bạn kế tiếp 
đã nhận quả trứng trên tay và đọc nối tiếp câu thơ tiếp theo. Hoặc đề tài “ăn quả” thì sẽ 
sử dụng quả nhựa để chuyền v.v. Qua đó cũng giáo dục trẻ phải khéo léo, cẩn thận khi 
chuyền trứng, chuyền quả; nếu rơi trứng thì trứng sẽ vỡ, rơi quả thì quả sẽ dập v.v. 
Hình thức đọc thơ theo tranh, đề tài “em yêu nhà em”. Mỗi trẻ sẽ cầm 1 bức 
tranh có nội dung của mỗi câu thơ sau đó trẻ sẽ thảo luận nhóm và tự sắp xếp theo thứ 
tự nội dung bài thơ. Đọc đến câu thơ nào thì trẻ cầm bức tranh có nội dung đó đưa hơi 
cao về trước. Đọc đến câu “có nàng gà mái hoa mơ” thì trẻ có tranh gà mái sẽ đưa về 
trước và đọc câu thơ tương ứng v.v. Có thể 2 câu thơ cuối giáo viên yêu cầu cả tổ cùng 
đọc. Thi xem đội nào xếp tranh đúng trình tự đọc diễn cảm, đều, là thắng cuộc. 
VD 2: Sáng tạo trò chơi âm nhạc 
Chủ đề hiện tượng tự nhiên: cách chơi tương tự như cách chơi “nghe tiếng hát 
nhảy vào vòng” 1 số trẻ sẽ cầm ô (dù) đứng các góc và nhún theo nhạc, 1 số trẻ sẽ đi 
chơi và khi cô yêu cầu khi hát đến chữ “mưa” của bài hát “trời nắng trời mưa” hoặc 
bài hát “trời mưa” sáng tác Đình Khiêm là trẻ phải chạy tìm cho mình 1 cái ô để đứng 
trú mưa, mỗi cháu 1 cái ô. Cháu nào chậm chân không có ô sẽ bị ướt mưa. 
Một số hình ảnh minh họa dạy trẻ đọc thơ 
Đọc thơ trên mô hình bài thơ: Đến thăm bà 
9 
Chuyền trứng đọc nối tiếp 
Đọc nối tiếp theo tranh 
Đọc thơ theo hoạt cảnh 
10 
Biện pháp 4: Tăng cường công tác làm đồ dùng đồ chơi tự tạo 
Công tác làm đồ dùng, đồ chơi của các khối luôn được duy trì tốt hàng tuần. Cả 
khối cùng nhau thống nhất, cùng làm đồ dùng dạy học, đồ chơi các góc theo từng chủ 
đề. Tôi luôn sát sao với các khối để góp ý kịp thời. Đồ dùng đồ chơi bảo các tính thẫm 
mĩ, an toàn, bền đẹp, hấp dẫn trẻ, kích thích tư duy học tập vui chơi của trẻ góp phần 
cho tiết dạy đạt kết quả cao. 
Phong trào thi làm và sử dụng đồ dùng đồ chơi tự tạo chào mừng ngày 20/11 và 
8/3 được nhà trường phát động và duy trì hàng năm. Nhà trường kết hợp Công đoàn 
trường mời cha mẹ trẻ cùng tham quan để cha mẹ trẻ thấy được tầm quan trọng của 
giáo dục mầm non, từ đó công tác ủng hộ vật liệu phế thải cho giáo viên làm đồ dùng 
ngày càng hiệu quả cao. 
1 số hình ảnh minh họa cha mẹ trẻ tham gia triển lãm đồ dùng đồ chơi tự tạo 
Biện pháp 5: Phát huy hiệu quả của Hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp. 
Bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên dự thi giáo viên giỏi các cấp là một trong 
những hoạt động chuyên môn thiết thực, ý nghĩa và có tầm quan trọng đặc biệt. Đó là 
một hoạt động trí tuệ không chỉ phản ánh năng lực của cá nhân giáo viên mà còn phản 
ánh chất lượng giáo dục, chất lượng phong trào thi đua của nhà trường. Qua hội thi 
giáo viên dạy giỏi cấp trường, tôi luôn động viên những giáo viên đã đạt được các kỹ 
năng nhất định nên tham gia thi giáo viên dạy giỏi cấp thị xã. Mỗi một lần va chạm, 
thử sức cũng là một lần học hỏi, tích lũy được nhiều kinh nghiệm cho mình. 
Với thực trạng đội ngũ giáo viên nhà trường có: 14 giáo viên. Trong đó có: 04 
giáo viên nghỉ thai sản; 01 giáo viên chuẩn bị về hưu; 02 giáo viên tập sự, 02 giáo viên 
11 
không đủ điều kiện dự thi. Còn lại 05 giáo viên đủ điều kiện tham gia hội thi GVDG 
cấp thị xã. 
Thứ nhất: Thi thuyết trình 
Để đạt hiệu quả cao trong phần thi thuyết trình tôi đã thực hiện các bước sau: 
Bước 1: Hoàn thành bài viết các giải pháp về chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo 
dục. 
Mỗi giáo viên tham gia Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp thị xã, cấp tỉnh sẽ trình 
bày nội dung biện pháp về công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ do cá nhân đúc 
rút, sáng tạo, áp dụng có hiệu quả tại lớp mình phụ trách. Sau khi giáo viên lựa chọn 
đề tài, hoàn thành bài viết. Tôi chỉ đạo giáo viên từng khối sẽ chia nhiều nhóm nhỏ 
cùng nhau thảo luận, góp ý thêm, chỉnh sửa lỗi chính tả, lỗi trình bày và tôi là người 
duyệt, chỉnh sửa sau cùng. 
Bước 2: Rèn kỹ năng thuyết trình. 
Kỹ năng thuyết trình được hiểu là khả năng bày tỏ, diễn đạt một nội dung với 
những luận điểm chặt chẽ nhằm thuyết phục người nghe. Cùng với đó là việc tạo ra 
tương tác đối với người nghe thông qua việc giải đáp các câu hỏi phản biện thuyết 
phục được Ban giám khảo. 
Đa số bài viết các giải pháp để nộp lên Ban tổ chức, Ban giám khảo dài từ 6 
trang trở lên. Với thời gian truyết trình quy định không quá 15 phút. Vì vậy, tôi yêu 
cầu giáo viên tóm tắt lại các nội dung chính thành 1 bài viết riêng để thuyết trình. Sau 
khi giáo viên hoàn thành bài viết và học thuộc bài, trước khi đi thi 2 ngày tôi tổ chức 
cho giáo viên luyện tập thực hành thuyết trình như sau: 
Lần lượt cho từng giáo viên thuyết trình để nắm bắt tình hình chung. Đây là lần 
đầu tiên thi truyết trình nên giáo viên không có kinh nghiệm và mất bình tĩnh không 
thể hiện được cảm xúc trên khuôn mặt, trình bày ấp úng không trôi chảy, thường 
xuyên đệm các từ aaaà, ưưừkhi quên bài, có những động tác thừa khi thuyết trình 
như cầm vo vạt áo, gải đầu, v.v. hoặc 2 tay nắm chặt Mic và đa số thấy giáo viên quên 
chào hỏi, quên giới thiệu bản thân, sử dụng từ “em” v.v. 
Rèn tác phong: cách thể hiện sự tự tin, sử dụng từ “tôi” thay từ “em”; chỉ cầm 
mic bằng 1 tay, 1 tay con lại thả lỏng để khi cần thiết diễn tả điệu bộ, cảm xúc bằng 
tay, cách đưa tay phù hợp từ trong ra ngoài, không đưa quá xa, hoặc khi nói đến câu 
“với bản thân tôi” thì tay đưa vào chạm nhẹ phía trên ngực v.v. 
12 
Sau khi giáo viên đã quen được tác phong và thuyết trình trọn vẹn cả bài, tôi 
canh thời gian, tôi yêu cầu chỉ thuyết trình đúng 13 phút, còn 2 phút trừ hao khi lúc thi 
thật sẽ cho phép lấy lại bình tĩnh để nhớ tiếp bài. Khi giáo viên thuyết trình quá 13 
phút tôi yêu cầu giáo viên tiếp tục tóm tắt thêm 1 lẫn nữa nhưng không làm mất đi 
trọng tâm của từng giải pháp. Trong khi giáo viên trình bày tôi ngồi dưới sẽ phụ họa 
cho giáo viên những động tác điệu bộ khi cần thiết để cho giáo viên nhớ hoặc ra hiệu 
giãn nở nét mặt, nụ cười v.v. Giáo viên sẽ trình bày đi, trình bày lại nhiều lần cho đến 
khi đã đạt đến mức yêu cầu của tôi. Tiếp theo, tôi tổ chức cho giáo viên thực hiện như 
đang thi thuyết trình thật, giáo viên toàn trường ngồi phía dưới để cho giáo viên thi 
được làm quen, bình tĩnh trước đám đông. 
Hiệu quả thời gian của phần thi thuyết trình của giáo viên trường tôi hầu như 
đúng với thời gian quy định. Kết quả đạt 4/4 giáo viên. Tỉ lệ 100%. 
Thứ hai: Thi Thực hành 
Sau khi bốc thăm đề tài, giáo viên xây dựng kế hoạch giáo dục. Vì bốc thăm đề 
tài trước 2 ngày và không được dạy trước trên trẻ, vào ngày chủ nhật và sau giờ trả trẻ, 
tôi và 1 vài giáo viên khác sẽ làm trẻ, giáo viên thi sẽ dạy hoàn chỉnh tiết dạy của mình 
để được được góp ý về tác phong lên lớp, sử dụng đồ dùng, cách đặt câu hỏi sao cho 
ngắn gọn, chính xác, logic, lời dẫn dắt phù hợp, hình thức tổ chức; đặc biệt là khâu 
quản lý lớp, trẻ phải nề nếp chú ý lên cô, tương tác với cô thì tiết dạy mới đạt hiệu quả, 
Trong quá trình dạy thử trên người lớn giáo viên sẽ tiếp tục hoàn thiện kế hoạch giáo 
dục. 
Bên cạnh đó tôi huy động toàn bộ giáo viên hỗ trợ làm đồ dùng có chất lượng 
cho giáo viên đi thi. 
Kết quả phần thi thực hành đạt 4/4 GV. Tỉ lệ 100%. 
Biện pháp 6: Thực hiện tốt hoạt động khen thưởng, hỗ trợ cho giáo viên đạt 
thành tích cao. 
Công tác khen thưởng làm động lực thúc đẩy, kích thích cá nhân, tập thể hăng 
say lao động, phát huy năng lực trong thực hiện nhiệm vụ. Qua đó, góp phần xây dựng 
đơn vị vững mạnh toàn diện. 
Tôi tham mưu với nhà trường cùng Công đoàn trường tạo nguồn kinh phí từ các 
nguồn quỹ phúc lợi để khen thưởng cho đội ngũ. Nội dung khen thưởng được thông 
qua Hội đồng trường như: 
13 
+ Giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi các cấp. 
+ Giáo viên điển hình đi đầu trong các phong trào thi đua như: các tiết mục văn 
nghệ có đầu tư, chất lượng trong năm học; đạt giải cao trong Hội thi làm và sử làm đồ 
dùng dạy học, đồ chơi tự tạo vào ngày 20/11 và 8/3; thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc 
giáo dục trẻ, duy trì tốt tỉ lệ chuyên cần v.v. 
+ Gương điển hình về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ 
Chí Minh” 
- Học kỳ I, năm học: 2020 - 2021 nhà trường đã thực hiện tốt công tác khen 
thưởng cho đội ngũ giáo viên đạt các thành tích cao trong các phong trào thi đua như: 
+ Giáo viên tập luyện Aerobic cấp thị xã đạt giải III: 1.000.000/ 2 GV. 
+ Giáo viên đạt GVDG cấp Thị xã với mức thưởng 800.000đ/1GV; 4 Gv x 
800.000đ = 3.200.000đ 
5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến: Nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội 
ngũ giáo viên tại trường mầm non Thanh Lương đã và đang áp dụng có hiệu quả cao 
tại đơn vị. 
6. Những thông tin mật: Không có 
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 
Kế hoạch, thời gian thực hiện. 
Tài liệu chuyên môn, chuyên đề liên quan đến chương trình GDMN. 
Vật l

Tài liệu đính kèm:

  • pdfskkn_nang_cao_chat_luong_chuyen_mon_cho_doi_ngu_giao_vien_ta.pdf