Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ ở hoạt động: Làm quen Tiếng Việt.
- Dựa theo kế hoạch chỉ đạo của PGD, cụm chuyên môn, bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch làm quen Tiếng Việt cho trẻ trường tôi: Kế hoạch năm, kế hoạch tháng, kế hoạch tuần, kế hoạch chủ đề, kế hoạch hoạt động của một ngày.
VD: Chủ đề: Trường Mầm Non, chủ đề nhánh: Những hoạt động thú vi
Hoạt động: Làm quen Tiếng việt. Với các từ “ Cô giáo, cấp dưỡng ”
- Tổ chức tiết dạy cho trẻ làm quen: Giáo viên chuẩn bị đồ dùng cho cô và trẻ, cho trẻ được luyên tập, quan sát và đàm thoại theo nội dung tranh, đồ dùng giáo viên chuẩn bị nhằm cho trẻ phát âm chuẩn từ Tiếng Việt mà cô yêu cầu, biết đặt câu với những từ tiếng Việt đó. Tôi luôn chú trọng đến phát âm của trẻ,
thường xuyên mời cá nhân trẻ lên phát âm để biết được những lỗi sai của trẻ và sửa sai kịp thời cho trẻ.
- Bên cạnh đó, tôi cũng luôn chú trọng đến việc chuẩn bị đồ dùng dạy học, chỉ đạo giáo viên luôn tìm tòi, sưu tầm những bức tranh gần với từ ngữ Tiếng việt cho trẻ làm quen tranh đẹp, màu sắc hấp dẫn để lôi cuốn trẻ hoạt động, ngoài ra phải thường xuyên xây dựng những bài giảng điện tử để thay đổi hình thức tạo cho trẻ cảm giác thích thú khi tham gia hoạt động.
phát triển ngôn ngữ là giúp trẻ tham gia trực tiếp vào các hoạt động vì ngôn ngữ là phương tiện để giao lưu tình cảm, về mối quan hệ và cách ứng xử trong xã hội, là sự tìm tòi, khám phá thế giới tự nhiên, cuộc sống xung quanh trẻ. Chính vì vậy mà cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ, đặc biệt là trẻ dân tộc thiểu số. Bởi vì các cháu dân tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ, vốn Tiếng Việt của trẻ hạn chế, trẻ ít mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, nhất là với người lạ, vốn hiểu biết về thế giới xung quanh nghèo nàn nên ảnh hưởng đến việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Đối với trẻ dân tộc thiểu số việc học Tiếng Việt giống như ngôn ngữ thứ hai của trẻ, trẻ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tiếp nhận ngôn ngữ Tiếng Việt. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải khéo léo và linh hoạt trong quá trình truyền thụ ngôn ngữ Tiếng Việt cho trẻ. 2. Thực trạng: Xuất phát từ thực tế, bản thân tôi nhận thấy đa số trẻ là con em đồng bào dân tộc thiểu số ít được tiếp xúc bên ngoài xã hội, giao tiếp với mọi người để trao dồi vốn tiếng Việt cho mình, trẻ cảm thấy rụt rè e ngại khi ra ngoài xã hội, không mạnh dạn, thiếu tự tin khi đứng trước đám đông 2.1. Thuận lợi, khó khăn. * Thuận lợi: - Lớp có 2 giáo viên đứng lớp, đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, giáo viên năng động, yêu nghề mến trẻ, luôn gần gũi với trẻ, có phẩm chất nghề nghiệp tốt. - Một số giáo viên là người dân địa phương nên có nhiều thuận lợi trong việc trao đổi, phối hợp với phụ huynh trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. - Lớp học đóng trên địa bàn, đa số trẻ sống gần trường, lớp đã tạo điều kiện thuận tiện trong việc đưa đón trẻ đến trường. - Hầu hết phụ huynh đều muốn con em của mình đến lớp được học và giao tiếp để hiểu tiếng phổ thông. * Khó khăn: - Trường có nhiều phân hiệu nằm rải rác, các phân hiệu cách xa 3 đến 5 cây số. - 100% học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số, các cháu giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ, về nhà các cháu giao tiếp với gia đình bằng tiếng mẹ đẻ, phụ huynh đa số ít hiểu tiếng Việt nên dẫn đến việc các cháu khó tiếp thu lời giảng của cô giáo, trẻ mau quên, phát âm không chuẩn... - Điều kiện kinh tế phụ huynh rất khó khăn, chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của trẻ, nhiều phụ huynh còn đưa theo con lên rẫy . - Giáo viên người dân tộc thiểu số trong giờ dạy và trong giao tiếp với trẻ vẫn còn lạm dụng tiếng mẹ đẻ, nhiều khi chưa triệt để sử dụng đồ dùng, tranh ảnh minh hoạ để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tiếng Việt - Cơ sở vật chất chưa đầy đủ, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các môn học còn thiếu dẫn đến việc giảng dạy của cô gặp nhiều khó khăn. 2.2. Thành công, hạn chế: * Thành công : - Trẻ thích được đến trường, linh hoạt, tích cực tham gia vào các hoạt động. - Trẻ mạnh dạn, tự tin giao tiếp với cô và bạn bè bằng ngôn ngữ tiếng Việt. - Vốn Tiếng Việt của trẻ phong phú hơn, phát âm chuẩn hơn. * Hạn chế : - Một số phân hiệu có 100% học sinh đồng bào dân tộc thiểu số - Một số giáo viên mới ra trường chưa có nhiều kinh nghiệm trong. - Trẻ vẫn thường sử dụng tiếng mẹ đẻ khi giao tiếp với bố mẹ và người thân. - Trẻ vẫn chưa sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt mọi lúc, mọi nơi. - Trẻ đến lớp chưa chuyên cần, còn theo gia đình lên nương rẫy - Đồ dùng, tranh ảnh minh hoạ để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tiếng Việt chưa phong phú, đa dạng. 2.3. Mặt mạnh, mặt yếu: * Mặt mạnh: - Ban giám hiệu nhà trường dành nhiều thời gian đầu tư cho công tác chuyên môn, các phong trào, nhiệt tình trong công tác chỉ đạo và xây dựng thực hiện nhiệm vụ năm học - Chất lượng chăm sóc – giáo dục của lớp ngày càng được chuyên môn đánh giá cao. - Đội ngủ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, có trình độ chuẩn, trên chuẩn, luôn học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, được tham gia các lớp tập huấn về chuyên môn, về việc tăng cường tiếng việt cho trẻ, tham khảo tài liệu để tìm hướng giáo dục trẻ được tốt nhất, - Nhận thức của một số phụ huynh đã có phần được nâng lên rõ rệt: Quan tâm đến con em, giao tiếp với con bằng Tiếng Việt. * Mặt yếu: - Đội ngủ giáo viên mới ra trường, trình độ chuyên môn không đồng đều, kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế. - Việc vận động phụ huynh đưa con em đi học còn hạn chế, đồ dùng đồ chơi chưa đa dạng, chưa phong phú, chưa đồng bộ, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nghèo nàn - Việc tuyên truyền phụ huynh cung cấp kiến thức vốn tiếng Việt cho trẻ khi ở nhà chưa sâu rộng. 2.4. Các nguyên nhân, yếu tố tác động đến hoạt động * Nguyên nhân * Nguyên nhân dẫn đến thành công của đề tài: Chuên môn đã chỉ đạo tiến hành khảo sát năng lực chuyên môn của giáo viên đầu năm học, theo dõi các hoạt động để tìm ra nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ cho phù hợp. - Luôn bán sát và thực hiện nhiệm vụ năm học mà nghành đã triển khai dựa trên thực tế của trường lớp, địa phương. - Giáo viên nhiệt tình, chịu khó trao đổi, học hỏi kinh nghiệm đặc biệt các đồng nghiệp lâu năm để không ngừng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ. * Hạn chế, yếu kém: - Trẻ ít được tiếp xúc với người kinh nên còn nhút nhát, hạn chế về Tiếng Việt, chưa tự tin, mạnh dạn trong các hoạt động giao tiếp. - Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em mình, cho trẻ đến lớp tùy tiện và tùy thuộc vào mùa vụ công việc của cha mẹ trẻ * Yếu tố tác động: 2.5. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra. Để thực hiện được vấn đề này một cách có hiệu quả nâng cao chất lượng giao tiếp bằng tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số thì cần phải phát triển ngôn ngữ, bởi vì tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của trẻ, sự phát triển ngôn ngữ là giúp trẻ tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác, vì ngôn ngữ là phương tiện để giao lưu tình cảm, về mối quan hệ và cách ứng xử trong xã hội, là sự tìm tòi, khám phá thế giới tự nhiên, cuộc sống xung quanh trẻ. Nhưng đối với trẻ người đồng bào dân tộc quả là một vấn đề khó khăn, thêm vào đó sự bất đồng về ngôn ngữ giữa cô và trẻ đã gây nhiều khó khăn trong việc giao tiếp.Vì vậy, để nâng cao mục tiêu phát triển ngôn ngữ bằng tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi dân tộc thiểu số thì người giáo viên trước hết phải tạo ra cho trẻ hứng thú ham thích đi học và tạo cho trẻ hứng thú học tiếng Việt làm tiền đề để thích ứng với việc tập đọc, tập tô cần tạo được mọi cơ hội khuyến khích trẻ bộc lộ khả năng sáng tạo của cá nhân mình. Cần có những bài thơ, câu chuyện, bài thơ tranh chữ to, tranh minh hoạ, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển bước đầu bằng ngôn ngữ đọc, ngôn ngữ viết ở trẻ. Song việc chuẩn bị cho quá trình giao tiếp bằng tiếng Việt thông qua tất cả các môn học, thông qua mọi hoạt động của trẻ, việc giao tiếp diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi cần phải tạo được môi trường cho trẻ hoạt động, tổ chức tiết học. Như vậy việc trẻ được trải nghiệm trong các hoạt động vui chơi tự nhiên đầy hứng thú như một chủ thể tích cực. Kết quả khảo sát đầu năm học 2015 – 2016 cho thấy trẻ đạt kết quả như sau : Huy động trẻ và duy trì sĩ số Khả năng nghe, hiểu và nói tiếng Việt của trẻ tại lớp Tổng số học sinh Tổng số trẻ đi học chuyên cần Tốt Khá Trung bình Kém Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ % 65 65 100% 30 46% 20 31% 13 20% 2 3,0% 3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện : 3.1. Mục tiêu của biện pháp, giải pháp: Việc cho trẻ Dân tộc thiểu số làm quen với Tiếng việt là một việc làm hết sức cần thiết, tưởng chừng như rất dễ nhưng thực tế lại rất khó, khi nghĩ đến điều này, bản thân tôi luôn suy nghỉ nhiều về điều này và đặt ra nhiều câu hỏi: “ Làm gì? Dạy cái gì? Dạy như thế nào? Trẻ làm quen với tiếng việt với tư cách là bộ môn khoa học hay với tư cách là một công cụ, một phương tiện giao tiếp? Cách trả lời những câu hỏi trên sẽ liên quan tới việc lựa chọn nội dung, phương pháp cho trẻ dân tộc tiếp cận, làm quen dần với Tiếng việt. Từ đó tôi quyết định nghiên cứu những nội dung phù hợp để áp dụng vào dạy trẻ như sau: 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: * Biện pháp 1: Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ ở hoạt động: Làm quen Tiếng Việt. - Dựa theo kế hoạch chỉ đạo của PGD, cụm chuyên môn, bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch làm quen Tiếng Việt cho trẻ trường tôi: Kế hoạch năm, kế hoạch tháng, kế hoạch tuần, kế hoạch chủ đề, kế hoạch hoạt động của một ngày. VD: Chủ đề: Trường Mầm Non, chủ đề nhánh: Những hoạt động thú vi Hoạt động: Làm quen Tiếng việt. Với các từ “ Cô giáo, cấp dưỡng” - Tổ chức tiết dạy cho trẻ làm quen: Giáo viên chuẩn bị đồ dùng cho cô và trẻ, cho trẻ được luyên tập, quan sát và đàm thoại theo nội dung tranh, đồ dùng giáo viên chuẩn bị nhằm cho trẻ phát âm chuẩn từ Tiếng Việt mà cô yêu cầu, biết đặt câu với những từ tiếng Việt đó. Tôi luôn chú trọng đến phát âm của trẻ, thường xuyên mời cá nhân trẻ lên phát âm để biết được những lỗi sai của trẻ và sửa sai kịp thời cho trẻ. - Bên cạnh đó, tôi cũng luôn chú trọng đến việc chuẩn bị đồ dùng dạy học, chỉ đạo giáo viên luôn tìm tòi, sưu tầm những bức tranh gần với từ ngữ Tiếng việt cho trẻ làm quen tranh đẹp, màu sắc hấp dẫn để lôi cuốn trẻ hoạt động, ngoài ra phải thường xuyên xây dựng những bài giảng điện tử để thay đổi hình thức tạo cho trẻ cảm giác thích thú khi tham gia hoạt động. * Biện pháp 2. Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi : Để làm tăng hiệu quả trong việc cung cấp vốn từ tiếng Việt cho trẻ tôi nghĩ việc cung cấp vốn từ cho trẻ mọi lúc, mọi nơi là điều hết sức cần thiết. Trong thực tế như chúng ta thấy, bất đồng ngôn ngữ là rất khó khăn trong giao tiếp, khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm, mau quên nhưng khi đã nhớ được thì lại nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ tiếp xúc với vốn tiếng việt cho nên việc cung cấp ngôn ngữ Tiếng việc ở mọi lúc, mọi nơi vô cùng hiệu quả. - Giờ đón trẻ giáo viên phải luôn vui vẻ, thương yêu trẻ, sửa sang quần áo, chãi tóc cho trẻ và không quên kèm theo một số câu hỏi giao lưu như: Sáng nay ai đưa con đến trường ? Ai mua áo cho con mà đẹp vậy? Con ăn sáng chưa? sáng nay mẹ cho con ăn gì? Nhà con có mấy anh chị em? - Qua trò chuyện với trẻ như vậy giáo viên nắm được khả năng phát âm của mỗi trẻ để có biện pháp và giành nhiều thời giờ hơn giúp trẻ phát âm đúng, phát âm chuẩn. - Giờ chơi tự do giáo viên dẫn trẻ đến các góc trò chuyện và phát âm các từ có trong tranh, từ ở mỗi góc, dạy trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ, phát âm chữ cái đã học qua nhiều lần như vậy trẻ phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn trong giao tiếp với cô, để từ đó tôi có những biện pháp phù hợp cũng như dành nhiều thời gian cho những trẻ đó hơn. - Trong giờ hoạt động ngoài trời giáo viên cho trẻ ôn kiến thức đã học qua trò chuyện, đọc thơ, kể chuyện, chơi các trò chơi dân gian, cho trẻ đọc đồng dao, ca dao trong hoạt động này giúp trẻ phát âm thành thạo hơn, lưu loát hơn. - Giờ vui chơi (Hoạt động góc) giáo viên cho trẻ đóng các vai khác nhau, trẻ được giao lưu trao đổi mua bán và thể hiện hết vai chơi của mình, bên cạnh đó tôi luôn theo sát trẻ để kịp thời sửa sai uốn nén mỗi khi trẻ hỏi hoặc trả lời không trọng tâm hay trẻ dùng tiếng mẹ đẻ. Chính nhờ vậy mà đa số trẻ biết dùng từ để diễn đạt thành câu có nghĩa trong giao tiếp với bạn và với cô. - Giờ trả trẻ cũng như giờ chơi tự do giáo viên tạo mọi tình huống cho trẻ tiếp xúc với Tiếng Việt, như tổ chức một số trò chơi và cô cùng tham gia với trẻ. Cho trẻ hát hoặc đọc các bài thơ có trong chương trìnhkhông những vậy giaó viên phải luôn tìm mọi cách để thay đổi hình thức giúp trẻ không thấy nhàm chán khi tham gia các hoạt động. Cứ như vậy trẻ đã có sự chuyển biến tốt, trẻ đã mạnh dạn hơn trong giao tiếp, không rụt rè mỗi khi cô gọi, không nhút nhát khi chơi với bạn * Biện pháp 3. Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua các môn học khác: * Môn làm quen văn học: Để giúp trẻ học ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng việt trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tôi nghĩ trước hết cần dạy trẻ những kỹ năng chú ý nghe và phát âm thông qua môn văn học là vô cùng cần thiết: Dạy trẻ kỹ năng đọc thơ, kể chuyện. Tuy nhiên tùy theo tình hình của lớp mà tôi lựa chọn các bài thơ cho phù hợp, điều đầu tiên tôi chú ý là lựa chọn bài thơ, câu chuyện không quá dài, có nội dung hấp dẫn trẻ để cung cấp, chú ý đến giọng đọc tôi đọc thơ hay kể chuyện với giọng thật truyền cảm, phối hợp các động tác minh học phù hợp, để lôi cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, sau đó mới mời trẻ lên đọc thơ, kể chuyện. Tôi chú ý đến những trẻ đọc chưa chuẩn để rèn và sửa sai cho trẻ. VD: Chủ đề " Thế giới động vật " Câu chuyện " Nai con" * Hoạt động âm nhạc: Tôi dạy cho các cháu hát những bài hát theo chủ đề cũng như những bài hát trong chương trình mầm non Tổ chức cho các cháu được hát mọi lúc mọi nơi, bước đầu các cháu chỉ thuộc lời của bài hát, trong giờ hoạt động giáo dục âm nhạc trẻ được hoạt động một cách tích cực và thể hiện được các vận động, thông qua đó các cháu đã dần dần cảm nhận được giai điệu của bài hát và hiểu được nội dung của bài hát điều này cho thấy các cháu có khả năng nghe và hiểu tiếng việt, giáo viên khuyến khích đồng thời tích hợp môn âm nhạc vào mọi hoạt động nhằm giúp các cháu phát triển vốn tiếng việt tốt hơn nữa * Dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái Tiếng việt: Nội dung của hoạt động này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái, bên cạnh đó còn giúp trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung các từ, từ đó giúp trẻ sử dụng từ đã biết để diễn đạt ý mình muốn nói - Trong lớp tôi cũng có một số cháu nói được tiếng phổ thông nhưng không nhớ mặt chữ cái hay từ ngữ của tiếng Việt, các cháu thể hiện theo bản năng bắt chướcchính vì vậy mà việc dạy trẻ làm quen với chữ cái sẽ giúp trẻ nhận biết được chính sát cấu tạo của các chữ cái cũng như cách phát âm, để từ đó trẻ có thẻ nghe, cảm nhận, phát âm và tìm được chữ cái tương ứng trong từ Ví dụ : Chủ đề “ Gia đình” Đề tài : Làm quen chữ cái e, ê. - Cô tạo tình huống cho trẻ đến thăm nhà 1 bạn, bạn đó ở nhà rất ngoan và lớp mình có muốn ngoan giống bạn đó không, vậy bây giờ chúng mình hãy ngồi thật ngoan để xem mẹ bạn ấy tặng cho chúng mình món quà gì nhé ( và tất nhiên trẻ nào cũng muốn mình ngoan giống như bạn) - Cô có tranh “ Mẹ bế bé” dưới tranh cô có từ “Mẹ bế bé” cô cho trẻ đọc từ dưới tranh ( Cả lớp đọc, tổ, cá nhân đọc). - Cô đặt những câu hỏi cho trẻ trả lời : Trong từ “ Mẹ bế bé có bao nhiêu tiếng? - Để chỉ từ “ Mẹ bế bé” cô cũng có thẻ chữ cái rời ghép lại, bạn nào giỏi lên rút chữ đã học ( trẻ lên rút chữ cái đã học và phát âm) - Cô dẫn dắt tạo tình huống và giới thiệu hôm nay cô sẽ cùng với lớp mình làm quen với “những chữ cái đáng yêu”nhằm lôi cuốn trẻ hứng thú hơn vào hoạt động. Cô phân tích cấu tạo của chữ cái e, ê, cô giới thiệu cách viết và cho trẻ phát âm chữ cái e, ê. Cô cho trẻ quan sát và so sánh đặt điểm của hai chữ cái, cô gợi ý cho trẻ nêu được điểm giống và khác nhau để từ đó giúp trẻ nhớ lâu hơnvà để khắc sâu hơn về đặc điểm, cấu tạo, và nhận biết chính xác các chữ cái, ta phải luôn tìm tòi, học hỏi và sưu tầm các trò chơi phù hợp với nội dung để tổ chức cho trẻ nhằm giúp trẻ nắm được các chữ cái không những thế mà còn giúp cho trẻ phát âm các chữ cái một cách chính xác hơn. - Ví dụ : Như trò chơi “ chiếc nón kỳ diệu” hay trò chơi “ Ô cửa bí mật” trẻ quay vào trúng chữ cái nào cho trẻ phát âm chữ cái đó - Cô cho trẻ chơi các trò chơi chữ cái: Ví dụ: Trò chơi tìm chữ cái I, T, C trong bài thơ " Làm nghề như bố" Tôi viết bài thơ lên giấy rô ki, tôi chia lớp làm 3 đội lên dùng bút tìm và gạch chân chữ I, T, C có trong từ có trong mỗi câu thơ, đội nào tìm gạch chân được nhiều chữ I, T, C thì chiến thắng và được tuyên dương. Ví dụ: Cho trẻ nhận biết và phát âm chữ cái qua nhiều trò chơi khác như " Nối chữ cái với từ có chứa chữ cái đó". " Tìm chữ cái theo yêu cầu của cô" gắn trên đồ dùng, đồ chơi,... - Bên cạnh đó giáo viên luôn tranh thủ thời gian tự làm thêm một số đồ dùng đồ chơi tự tạo để cho trẻ được thực hành trãi nghiệm. - Qua một thời gian thực hiện trẻ tiến bộ rõ rệt, các cháu hứng thứ trong học tập, nhiều cháu thuộc chữ cái và phát âm đúng chữ cái do giáo viên cung cấp. * Hoạt động khám phá khoa học: - Môn KPKH là một trong những môn học giúp trẻ phát triển nhân thức và ngôn ngữ tích cực nhất, vì vậy tôi nghĩ cần phát huy hết tác dụng của môn học này để dạy trẻ. Ví dụ : Trong chủ điểm “ Thế giới động vật” Đề tài : Những con vật đáng yêu quanh bé. - Khi cho trẻ quan sát tranh con vật nào đó và đố cả lớp đây là con gì? Thì trẻ trả lời con vật đó. Ví dụ: ‘Con heo” trẻ trả lời là “Ũn”, trước tình huống đó giáo viên nói với các cháu: Cô và các con cùng thi xem ai nói giỏi nhé, cô sẽ nói tiếng của các con và các con nói tiếng của cô các con có đồng ý không? và tiêt học đó đã trở thành một “cuộc thi tài” trẻ nào cũng muốn mình là người chiến thắng, và tình huống trên đã được thay đổi các cháu đã cố gắng nói bằng tiếng việt mỗi khi cô đưa tranh ra. - Một hạn chế mà trẻ người đồng bào DTTS thường mắc phải đó là nói thiếu dấu Ví dụ : “Con vịt” thì trẻ đọc là “con vit” - Giáo viên hướng dẫn các cháu cách phát âm đồng thời sửa sai kịp thời cho các cháu, khuyến khích, tuyên dương những trẻ phát âm đúng, sữa sai và hướng dẫn cho các cháu phát âm chưa đúng, giúp các cháu khắc phục cũng như hạn chế được lỗi mất dấu khi phát âm. - Với hình thức “ Thi đua “ hay “ Đố vui có thưởng”giữa cô và trẻ thì trẻ đã có thể nghe và hiểu được câu hỏi của cô. - Ví dụ : Chương trình “ Đố vui có thưởng” cô bốc thăm và đọc câu hỏi: Con chó là động vật sống ở đâu? Trẻ nào biết thì lắc xắc xô và được quyền trả lời : Chó là động vật sống trong nhà * Hoạt động làm quen với toán: - giáo viên luôn chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học phù hợp với chủ đề với đề tài này là rất cần thiết vì nó tạo cho trẻ sự hứng thú hơn khi được nhìn ngắm những đồ dùng đẹp, mới lạ đối với các cháu Ví dụ: Chủ đề “ Nghề nghiệp” - Đề tài : Đếm đến 7-nhận biêt nhóm đồ dùng có 7 đối tượng- chữ số 7 Với đề tài này giáo viên chuẩn bị rất nhiều đồ dùng các nghề như quốc, bay, tôi cho các cháu gọi tên và nói công dụng của từng đồ dùng, trẻ rất thích thú và rất vui khi mình nói đúng tên và công dụng của những đồ dùng đó. Mặc dù bên cạnh đó vẫn còn một số cháu dùng tiếng mẹ đẻ để gọi tên đồ dùng đó và với tình huống đó giáo viên đã khuyến khích các cháu bằng cách: Ai gọi đúng tên đồ dùng thì được tham gia trò chơi cùng với cô. Và trẻ nào cũng muốn mình được tham gia cuộc chơi, trẻ đã cố gắng gọi tên đồ dùng bằng tiếng việt, và khi các cháu phát âm được các cháu rất vui. * Biện pháp 4. Kết hợp với phụ huynh giúp làm tăng vốn tiếng việt cho trẻ: Có thể nói thời gian của trẻ ở trường với cô giáo rất nhiều, nhưng nếu chúng ta biết phối hợp với gia đình của các cháu trong việc cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ thì tôi nghĩ chắc chắn sẽ đạt kết quả tốt hơn. Giáo viên có thể gặp phụ huynh, trao đổi và phân tích cho phụ huynh của các cháu hiểu được những thuận lợi khi con của họ học nói, nghe và hiểu được tiếng Việt. - Ví dụ: Trao đổi với phụ huynh nếu trẻ nghe và hiểu được Tiếng Việt thì khi vào lớp một cháu sẽ tiếp thu bài một cách tốt hơn mà tiếp thu bài tốt thì cháu sẽ học giỏi hơn - Từ những lời nói ấy đã thúc đẩy phụ huynh quan tâm đến con em hơn, thường xuyên giao tiếp với trẻ bằng Tiếng việt thay vì giao tiếp với trẻ bằng tiếng mẹ đẻ khi trẻ ở nhà, trò chuyện với trẻ nhiều hơn, hỏi trẻ tên cô, yêu cầu trẻ đọc các bài thơ, hát các bài hát mà trẻ được giáo viên dạy trên lớp. Cho nên trẻ lớp tôi hiện nay nói thạo, nói lưu loát ngôn ngữ Tiếng việt, biết dùng từ, câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, không còn trẻ nói câu không rõ nghĩa. 3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp: - Lớp học đúng quy cách, chuẩn bị đồ dùng dạy học đầy đủ, đẹp mới lạ cuốn hút trẻ, các đồ dùng, đồ chơi tự tạo - Giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, năng động, yêu nghề mến trẻ, có phẩm chất nghề nghiệp tốt. Bên cạnh đó người giáo viên thường xuyên sưu tầm nhiều đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động nhằm tạo hứng thú và lôi cuốn trẻ hơn, không dừng lại ở đố bản thân người giáo viên cần phải tìm tòi không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, học hỏi những kinh nghiệm của thế hệ đi trước nhằm trang bị cho mình những nghệ thuật lên lớp
Tài liệu đính kèm: