Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Để giúp các em hạn chế và khắc phục các lỗi cơ bản hay mắc phải đồng thời khơi dậy lòng hứng thú say mê luyện viết thì trước tiên phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giáo viên và học sinh.
Cụ thể:
Đối với giáo viên: Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nâng cao trình độ, sử dụng đồ dùng hợp lí. Quan tâm đến mọi đối trượng học sinh, chú ý hơn đến những em viết xấu, viết sai nếu cần thiết giáo viên phải viết mẫu để các em luyện viết theo. Tâm huyết với nghề, nhiệt tình kiên trì giúp các em luyện viết, sửa sai.
Đối với học sinh: Cần rèn kĩ năng nghe để nhớ, nhớ để viết, cần thuộc lòng các quy tắc chính tả cơ bản. Tạo thói quen học tập, thói quen luyện viết ở nhà, làm các bài tập chính tả và các bài luyện viết giáo viên giao. Có ý thức khắc phục các lỗi sai mà giáo viên đã chỉ ra. Có ý thức học hỏi các bạn chữ viết đẹp trong lớp.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Muốn đề ra biện pháp thực hiện, trước hết phải tìm ra các nguyên nhân dẫn đến việc học sinh viết sai lỗi chính tả. Theo tôi, học sinh viết sai lỗi chính tả nhiều là do 5 nguyên nhân chính sau đây:
Học sinh chưa có ý thức viết đúng chính tả. Cụ thể là những tiếng, từ có sẵn trong tài liệu hướng dẫn hoặc giáo viên đã ghi trên bảng và những từ thường xuyên sử dụng nhưng vẫn viết sai. Có những giáo viên đã sửa nhiều lần nhưng nhiều em vẫn viết sai. Một số học sinh đọc còn sai. Vì thế các em không nhớ chữ ghi âm, tiếng và từ, dẫn đến việc thông hiểu nội dung còn hạn chế. Các em không nhớ các qui tắc chính tả đã học nên viết tùy tiện, nghĩ sao viết vậy, có em còn sáng tạo thêm các vần mới lạ như: unh, ing, âch, Ngoài ra có em không nắm nghĩa của từ, vốn từ ngữ tích lũy được còn rất hạn chế nên hay viết lẫn lộn các âm đầu, âm cuối, vần và thanh.
còn viết hoa tùy tiện, chưa nắm được luật chính tả. Chưa phân biệt được cách trình bày bài thơ, đoạn văn. Ngồi viết chưa đúng tư thế, ý thức giữ vở chưa cao... 2.4.Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở lớp 4, bản thân tôi được gần gũi, tiếp xúc, trao đổi với học sinh, với phụ huynh học sinh, với các đồng nghiệp trong trường và đi đến kết luận. Tình trạng viết sai chính tả của học sinh lớp 4 là do những nguyên nhân chủ yếu sau : - Do ảnh hưởng của cách phát âm tiếng địa phương: vì đối tượng học sinh của tôi đều con em có bố mẹ thuộc quê hương Bình Định và Quảng Nam, ít nhiều các em vẫn còn ảnh hưởng tiếng của bố mẹ. -Do các em chưa có động cơ, thái độ đúng đắn trong việc học và rèn luyện viết chính tả, khi viết các em còn lơ là, không tập trung vào bài viết, lâu ngày thành thói quen cẩu thả "viết quen tay". Vì có nhiều em khi hỏi về quy tắc viết hoa thì các em trả lời tương đối đầy đủ nhưng vẫn mắc rất nhiều lỗi về viết hoa. - Do các em không nắm được nguyên tắc kết hợp các chữ cái, quy tắc viết hoa trong Tiếng Việt, không nắm được vị trí phân bổ giữa các kí hiệu . - Do các em chưa hiểu nghĩa của từ, chưa nhớ đầy đủ các quy tắc chính tả vì quá trình học chính tả có liên quan mật thiết với quá trình trí nhớ. Những lỗi chính tả do không nhớ đầy đủ các quy tắc chính tả như lẫn lộn các phụ âm đầu, các nguyên âm,... - Nhiều em còn có hoàn cảnh gia đình khó khăn, các em ít có điều kiện học tập, rèn luyện và đọc thêm sách báo nên vốn từ ngữ của các em ít được mở rộng . 2.5.Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra. Học sinh tiểu học viết sai chính tả chủ yếu do các em bị mất căn bản từ lớp dưới, chưa nắm vững âm, vần, chưa phân biệt được cách phát âm của giáo viên, chưa hiểu rõ nghĩa của từ, chưa có ý thức tự học, tự rèn ở nhà, chưa chú trọng đến chữ viết. Vì vậy lỗi học sinh thường mắc phải chủ yếu là: - Lỗi do vô ý, chưa cẩn thận (như thiếu dấu phụ, dấu thanh). - Lỗi về các vần khó (uya, uyu, uênh, oang, oeo, ươu, uyên, uyêt, uêch, ...) - Lỗi do phát âm sai (at/ac, et/ec, an/ang, iu/iêu, iêc/iêt, ươc/ươt, ...) - Lỗi do không hiểu nghĩa của từ ( để dành/ tranh giành, dở dang/ giang sơn,...). - Lỗi do không nắm được quy tắc chính tả ( g chỉ ghép được với a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, và gh chỉ ghép được với e, ê, i). Qua thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh lớp tôi thường mắc các lỗi sau: Về thanh điệu: Học sinh chưa phân biệt được thanh hỏi, thanh ngã. Ví dụ: nghỉ hè viết thành nghĩ hè; sửa lỗi viết thành sữa lỗi; lịch sử viết thành lịch sữ; .. Về âm đầu: học sinh thường viết lẫn các chữ ghi âm đầu sau: Ví dụ: giữ gìn viết thành dữ gìn; xẻ gỗ viết thành sẻ gỗ; trân trọng viết thành chân trọng;... Về âm cuối: học sinh thường viết lẫn các chữ ghi âm cuối trong các vần sau: Ví dụ: ac/at: gật đầu viết thành gậc đầu;... in/ inh: inh ỏi viết thành in ỏi;... iêc/iêt:thiết tha viết thành thiếc tha;... ươc/ươt: trượt ngã viết thành trược ngã;... n/ng: bản làng viết thành bản làn;... Về viết hoa: Đây là lỗi phổ biến và trầm trọng nhất trong các bài viết của các em, lỗi này của các em thường gặp ở hai dạng sau: -Lỗi viết hoa đầu câu, danh từ riêng và tên địa danh. - Lỗi viết hoa tùy tiện thường là do thói quen. Ngoài ra một số bài viết thường mắc các lỗi khác như trình bày, chữ viết còn thiết nét... Qua phân tích về các lỗi của các em, đối với học sinh lớp 4 so với yêu cầu kĩ năng cần đạt khi viết chính tả( không quá 5 lỗi trong một bài viết thì kĩ năng viết của các em chưa đạt yêu cầu. Thực trạng trên là rất đáng lo ngại đòi hỏi mỗi chúng ta cần phải nghiên cứu và tìm ra biện pháp để giúp đỡ các em khắc phục lỗi chính tả. 3. Giải pháp, biện pháp: 3.1.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Để giúp các em hạn chế và khắc phục các lỗi cơ bản hay mắc phải đồng thời khơi dậy lòng hứng thú say mê luyện viết thì trước tiên phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giáo viên và học sinh. Cụ thể: Đối với giáo viên: Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nâng cao trình độ, sử dụng đồ dùng hợp lí. Quan tâm đến mọi đối trượng học sinh, chú ý hơn đến những em viết xấu, viết sai nếu cần thiết giáo viên phải viết mẫu để các em luyện viết theo. Tâm huyết với nghề, nhiệt tình kiên trì giúp các em luyện viết, sửa sai. Đối với học sinh: Cần rèn kĩ năng nghe để nhớ, nhớ để viết, cần thuộc lòng các quy tắc chính tả cơ bản. Tạo thói quen học tập, thói quen luyện viết ở nhà, làm các bài tập chính tả và các bài luyện viết giáo viên giao. Có ý thức khắc phục các lỗi sai mà giáo viên đã chỉ ra. Có ý thức học hỏi các bạn chữ viết đẹp trong lớp. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Muốn đề ra biện pháp thực hiện, trước hết phải tìm ra các nguyên nhân dẫn đến việc học sinh viết sai lỗi chính tả. Theo tôi, học sinh viết sai lỗi chính tả nhiều là do 5 nguyên nhân chính sau đây: Học sinh chưa có ý thức viết đúng chính tả. Cụ thể là những tiếng, từ có sẵn trong tài liệu hướng dẫn hoặc giáo viên đã ghi trên bảng và những từ thường xuyên sử dụng nhưng vẫn viết sai. Có những giáo viên đã sửa nhiều lần nhưng nhiều em vẫn viết sai. Một số học sinh đọc còn sai. Vì thế các em không nhớ chữ ghi âm, tiếng và từ, dẫn đến việc thông hiểu nội dung còn hạn chế. Các em không nhớ các qui tắc chính tả đã học nên viết tùy tiện, nghĩ sao viết vậy, có em còn sáng tạo thêm các vần mới lạ như: unh, ing, âch,Ngoài ra có em không nắm nghĩa của từ, vốn từ ngữ tích lũy được còn rất hạn chế nên hay viết lẫn lộn các âm đầu, âm cuối, vần và thanh. Hiện nay, với sự phát triển nhanh về kinh tế, văn hóa và xã hội; việc nghe, nói, đọc xem của học sinh thì rất nhiều nhưng viết thì ngày càng giảm. Học sinh chịu sự tác động của kênh hình trong học tập nhiều hơn kênh chữ và việc lạm dụng các vở bài tập, các câu hỏi trắc nghiệm trong kiểm tra, trong thi cử làm cho học sinh rất ít có cơ hội được viết, được rèn chính tả. Căn cứ vào các nguyên nhân trên, tôi đề ra các biện pháp thực hiện sau đây: a. Biện pháp 1: Phát huy tính có ý thức trong dạy chính tả Trong tuần đầu nhận lớp, ngoài việc củng cố nề nếp lớp học, sinh hoạt nội qui của trường, của lớp; tôi cho các em chép chính tả bài “ Quyết định độc đáo” Quyết định độc đáo Cách đây không lâu, lãnh đạo hội đồng thành phố Nót - tinh ghêm ở nước Anh đã quyết định phạt tiền các công chức nói hoặc viết tiếng Anh không đúng chuẩn. Theo quyết định này, mỗi lần mắc lỗi, công chức bị phạt 1 bảng. Ông Chủ tịch hội đồng thành phố tuyên bố sẽ không kí bất cứ văn bản nào có lỗi ngữ pháp và chính tả. Đây là một biện pháp mạnh nhằm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Anh. Theo báo Công an nhân dân Sau khi học sinh viết xong, tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung đoạn văn bằng các câu hỏi sau đây: +Vì sao những công chức nước Anh lại bị phạt tiền? + Mỗi lần mắc lỗi, công chức bị phạt bao nhiêu ? + Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Anh, Ông Chủ tịch hội đồng thành phố đã dùng biện pháp gì? + Vì sao viết sai lỗi chính tả lại bị phạt như vậy? + Muốn viết đúng chính tả thì các em phải làm sao? Từ việc tìm hiểu bài văn này, tôi làm cho các em hiểu rằng ở đất nước nào cũng vậy, việc viết sai lỗi chính tả sẽ làm cho người đọc, người nghe không hiểu đúng những gì mình đã viết, thậm chí còn làm cho người đọc cảm giác khó chịu và xem thường người viết. Có viết đúng chính tả thì mới học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác. Nếu như các em viết sai lỗi chính tả nhiều thì sẽ bị điểm kém môn Tiếng Việt. Việc rèn luyện kĩ năng viết chính tả không phải là một việc làm dễ dàng nhưng chỉ cần các em chú ý khi đọc, khi viết, có ý thức viết đúng chính tả và làm theo hướng dẫn của cô thì nhất định các em sẽ thành công. Sau đó, tôi cho các em xem một số cuốn tập chính tả tiêu biểu (chữ viết đẹp, trình bày sạch sẽ, hiếm sai lỗi chính tả) của học sinh năm trước để tác động vào ý thức của học sinh. b. Biện pháp 2: Rèn kĩ năng đọc đi đôi với luyện viết chính tả Như chúng ta đã biết, đọc thông thì mới viết thạo. Học sinh đọc còn chậm và sai nhiều thì không thể viết đúng chính tả. Vì đọc chưa thông nên khi viết chính tả các em thường mắc các lỗi do không nắm vững chính tự và cấu trúc âm tiết Tiếng Việt. Vì vậy, đối với những học sinh này, trước hết tôi phải chú trọng khâu luyện đọc cho các em. Hàng ngày trên lớp, tôi chú ý rèn đọc cho các em bằng cách: - Gọi các em đọc bài nhiều lần những chữ hay đọc sai, kiên trì sửa lỗi cho từng em. - Tổ chức cho các em đọc bài nhóm đôi . - Phân công học sinh đọc tốt, phát âm đúng đọc cùng các em này. - Giao bài cho các em luyện đọc và viết bài ở nhà; ngày sau kiểm tra và nhận xét. - Khuyến khích các em học thuộc lòng một đoạn văn hay một vài khổ thơ, rồi nhớ - viết đoạn văn hay khổ thơ đã thuộc. c. Biện pháp 3: Dạy chính tả theo khu vực Cách phát âm theo phương ngữ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc viết đúng chính tả của học sinh Tiểu học. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc học sinh viết sai lỗi chính tả nhiều. Nhưng chúng ta không thể bắt buộc, không thể luyện cho các em đọc đúng chính âm được. Chúng ta chỉ có thể khắc phục lỗi chính tả cho học sinh ở mỗi vùng miền khác nhau bằng cách Dạy chính tả theo khu vực. Nghĩa là, chúng ta phải xác định được “trọng điểm chính tả” cần dạy cho học sinh, nội dung về giảng dạy chính tả phải phù hợp với tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh ở địa phương đó. Hiện nay, Tài liệu hướng dẫn Tiếng Việt đã có những bài tập chính tả cho giáo viên lựa chọn hoặc giáo viên có thể tự soạn nội dung bài tập sao cho phù hợp với học sinh thuộc vùng miền mình đang dạy. Đó là điều kiện thuận lợi cho giáo viên, nhưng cũng là những khó khăn đòi hỏi sự sáng tạo, sự đầu tư nhiều cho bài dạy ở mỗi giáo viên. Để dạy chính tả theo khu vực, tôi tiến hành như sau: Điều tra, phát hiện và tổng hợp những lỗi chính tả cơ bản của học sinh. Lỗi mà đa số học sinh lớp tôi mắc phải chủ yếu là lỗi do ảnh hưởng của cách phát âm theo phương ngữ. Cụ thể: - Lẫn lộn các phụ âm đầu (v/d/gi; r/g; x/s; tr/ch). - Lẫn lộn các vần ( âc/ât; in/ inh; iêc/iêt; ươc/ươt). - Lẫn lộn các âm cuối ( n/ng; n/nh). - Lẫn lộn thanh hỏi, thanh ngã. Căn cứ vào kết quả điều tra, tôi tiến hành lập bảng tổng hợp sau đây và phát đến từng học sinh. BẢNG TỔNG HỢP MỘT SỐ LỖI CHÍNH TẢ THƯỜNG MẮC PHẢI Các lỗi chính tả Ví dụ Viết đúng Viết sai 1.Lẫn lộn âm đầu - v/d/gi - r/g; - x/s; - tr/ch - vẻ vang, gia đình - gọn gàng, cá rô - hoa sen, màu xanh - cây tre, trân trọng - dẻ dang, da đình - rọn ràng, cá gô - hoa xen, màu sanh - cây che, chân chọng 2. Lẫn lộn các vần: - iu/ iêu - in/ inh - in/ iên - ui/ uôi - êu/ iêu - dịu dàng, kì diệu - niềm tin, trắng tinh - quả chín, đàn kiến - mặt mũi, cuối cùng - đều đặn, kêu gọi, - diệu dàng, kì dịu - niềm tinh, trắng tin - quả chính, đàn kín - mặt muỗi, cúi cùng - điều đặn, kiêu gọi 3. Lẫn lộn các âm cuối: - n/ng - t/c - buôn làng, mong muốn - đôi mắt, ăn mặc -buông làng, mong muống - đôi mắc, ăn mặt 4. Lẫn lộn thanh hỏi, thanh ngã - vĩ đại/ vỉ thuốc, mãnh liệt/ mảnh vải, nỗi buồn/ nổi trôi, cái mũi/ mủi lòng, - vỉ đại, vĩ thuốc, mảnh liệt, mãnh vải, nổi buồn, nỗi trôi, cái mủi, mũi lòng, 5. Lỗi riêng biệt Ở hàng ngang thứ năm, em nào mắc lỗi, tôi mới ghi vào. Mặt sau của bảng tổng hợp này, tôi lập bảng theo dõi việc sửa lỗi của học sinh trong nửa học kì I (một năm 4 lần). BẢNG THEO DÕI VIỆC SỬA LỖI TT Tên bài chính tả Tổng số lỗi Các lỗi cụ thể Sửa lỗi 1 Việt Nam thân yêu .. . .. .. 2 Lương Ngọc Quyến . . .. 3 Thư gửi các học sinh . . . 4 Anh bộ đội Cụ Hồ gốc Bỉ . . . . .. ... . 5 Một chuyên gia máy xúc . . . . . .. 6 Ê- mi- li, con .. . .. 7 Dòng kinh quê hương . .. . .. 8 Kì diệu rừng xanh . .. . .. . 9 Tiếng đàn Ba-la-lai-ca trên sông Đà . .. .. . .. .. Sau khi trả bài chính tả, tôi hướng dẫn các em cách ghi các lỗi và sửa lại cho đúng (ghi từ chứa tiếng sai để hiểu nghĩa rồi viết lại đúng chính tả), sửa trong vở luyện viết, sau đó ghi vào bảng tổng hợp. Mấy tuần đầu, những em viết sai nhiều, tôi nhắc nhở và khuyến khích các em về nhà chép lại bài cho đẹp và đúng chính tả. Hết nửa kì, tôi thu bảng tổng hợp và vở chính tả của học sinh để kiểm tra - đánh giá, chọn ra 5 học sinh tiến bộ nhất để khen thưởng. Nhờ có bảng tổng hợp này, các em có ý thức hơn trong việc rèn luyện chữ viết, thi đua viết đúng chính tả. d. Biện pháp 4: Kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa của từ Việc nắm nghĩa từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp học sinh viết đúng chính tả. Đó là đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt, nó sẽ giúp học sinh giải quyết được những lỗi chính tả do ảnh hưởng cách phát âm theo phương ngữ. Vì vậy có thể nói rằng chính tả Tiếng Việt còn gọi là chính tả ngữ nghĩa. Học sinh lớp tôi viết sai chính tả, một phần lớn là do các em không nắm được nghĩa của từ. Vì thế, khi dạy chính tả hoặc dạy các tiết học khác của môn Tiếng Việt, tôi luôn chú ý giúp các em: - Hiểu nghĩa của từ, phân biệt từ này với từ khác để các em ghi nhớ cách viết của mỗi từ. Ví dụ: Nếu tôi đọc một từ có hình thức ngữ âm là “ dành” thì học sinh sẽ lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu tôi đặt nó vào một ngữ cảnh hay gắn cho nó một nghĩa xác định như: Em để dành tiền mua sách truyện Thiếu nhi./ Trong trận đấu bóng đá ngày mai, các em phải giành lấy chiến thắng./ Các em đọc rõ ràng, rành mạch để cả lớp cùng nghe. Như vậy học sinh sẽ dễ dàng viết đúng chính tả. Khi đọc chính tả cho học sinh viết, tôi đọc từng cụm từ (diễn đạt một ý nhỏ); tôi luôn nhắc nhở các em chú ý lắng nghe, hiểu nghĩa từ để viết đúng chính tả Khi học sinh sửa lỗi trong bài chính tả, tôi yêu cầu các em ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại cho đúng; không nên chỉ ghi một tiếng sai rồi sửa lại, sửa như vậy các em sẽ không ghi nhớ các từ đã viết sai. Trong các tiết đọc hiểu, tôi tập cho các em tìm cách ngắt giọng ở những câu dài, ngắt nghỉ đúng các dấu câu, giải nghĩa các từ khó. Khi học sinh làm bài tập chính tả, tôi chọn các bài theo phương ngữ Nam Bộ, tập trung vào các “trọng điểm chính tả” để khắc phục các lỗi chính tả do cách phát âm của địa phương. Ngoài việc hướng dẫn các học sinh làm các bài tập trong tài liệu hướng dẫn học, tôi còn thay đổi hình thức và nội dung bài tập bằng cách vận dụng nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp tiêu cực. Nghĩa là tôi hướng dẫn học sinh làm các bài tập chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xác định cái đúng. Theo cách này, tôi đã điều chỉnh và thay đổi nội dung và hình thức một số bài tập trong tài liệu hướng dẫn học nhưng vẫn bám sát yêu cầu cần đạt của bài học. Ví dụ: Bài tập chính tả tuần 16 ( Tài liệu trang 115 ) yêu cầu tìm các từ ngữ chứa các tiếng vàng- dàng; vào-dào, vỗ- dỗ. Thay vì cho các em tìm từ chứa các tiếng đã cho, tôi cho sẵn các từ và yêu cầu các em tìm các từ viết sai chính tả, rồi sửa lại cho đúng. Chẳng hạn : Tìm các từ viết sai chính tả trong bảng dưới đây: vàng - dàng vào - dào vỗ - dỗ - màu vàng - dàng bạc - dội dàng - dễ dàng - dềnh dàng - ra dào - vào học - dồi dào - dạt dào - dào lớp - dỗ tay - vỗ về - sóng dỗ - dỗ dành - dạy dỗ Đối với những bài tập dạng này, tôi thường tổ chức cho các em thi đua “Tìm đúng, tìm nhanh” trong nhóm. Trong cùng một thời gian, nhóm nào tìm được nhiều và đúng là thắng cuộc. e. Biện pháp 5: Ôn tập giúp học sinh nắm vững các qui tắc chính tả, cung cấp cho học sinh một số mẹo luật chính tả đơn giản, dễ nhớ. Ở những lớp dưới, các em đã được cung cấp một số qui tắc chính tả. Lên lớp 4, các em vẫn thường xuyên được ôn lại. Nhưng không phải em nào cũng nhớ và vận dụng để viết đúng chính tả. Việc ghi nhớ và vận đúng các qui tắc chính tả không phải là điều dễ dàng. Nếu cứ nói, cứ giảng mãi thì rồi các em cũng vẫn cứ quên. Để giúp các em nắm vững các qui tắc chính tả đã học một cách khái quát có hệ thống, tôi đã chọn lọc, tổng hợp các qui tắc và một số “mẹo” chính tả ở mức độ đơn giản để các em dễ nhớ, dễ thuộc, thậm chí khi nào quên các em có thể giở ra xem để viết đúng chính tả. Qui tắc và mẹo luật chính tả này chỉ nằm trong 2 mặt của một tờ giấy A4 nên học sinh rất dễ học, dễ nhớ và nhanh thuộc. * Một số quy tắc chính tả TT Các quy tắc chính tả Cách viết Ví dụ 1 Quy tắc viết phụ âm đầu -Quy tắc viết k/ c/ q -Quy tắc viết g / gh và ng / ngh – Viết q trước các vần có âm đệm ghi bằng chữ cái u. – Viết k trước các nguyên âm e, ê, i (iê, ia) – Viết c trước các nguyên âm khác còn lại. -Viết gh, ngh trước các nguyên âm e, ê, i, iê (ia). – Viết g, ng trước các nguyên âm khác còn lại. - quyển sách, quyên góp - kể chuyện, kiên cường, xưa kia,... - con công,... - ghi nhớ, ghe xuồng, nghiên cứu, suy nghĩ - gà Gô, cái gùi, ... 2 Quy tắc viết âm i, y - Viết i sau âm đầu - Viết y sau âm đệm - Khi nguyên âm này đứng một mình thì viết là i đối với từ thuần Việt. - viết là y đối với từ gốc Hán. - niềm tin, tiên tiến - truyện, chuyển, tuyết - âm ỉ, ầm ì, ì ạch, lợn ỉ, ỉ ôi, í ới,; -y tá, y hệt, y phục, y tế, lương y, y dược, 3 Quy tắc đánh dấu thanh – Dấu thanh thường đặt ở trên hoặc dưới âm chính. - Tiếng có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái thứ hai của nguyên âm đôi. - Tiếng không có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái đầu của nguyên âm đôi. -loá mắt, khoẻ khoắn, ... - mượn, trườn, cuồn cuộn, chuối, muỗi - múa, mía, lửa, của, đĩa, chĩa, 4 Quy tắc viết tên riêng Việt Nam - Tên người và tên địa danh Việt nam - Tên các cơ quan, tổ chức, danh hiệu, -Viết hoa tất cả các chữ cái đầu của mỗi tiếng tạo thành tên riêng đó. - Viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên riêng đó. - Võ Thị Sáu, Trần Quốc Toản, Nông Văn Dền, - Trường Tiểu học Tân Lập, Nhà Xuất bản Giáo dục,.. 5 Quy tắc viết tên riêng nước ngoài: - Trường hợp phiên âm qua âm Hán Việt. -Trường hợp không phiên âm qua âm Hán Việt. - Viết hoa theo quy tắc viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam. - Viết hoa chữ cái đầu mỗi bộ phận tạo thành tên riêng và có gạch nối giữa các tiếng. - Mao Trạch Đông, Thái Lan, Hàn Quốc, -Lu-i Pa- xtơ, Pi- e Đơ -gây- tê, * Một số mẹo chính tả dễ nhớ + Mẹo tương ứng thanh điệu trong từ láy - Trong các từ láy đôi, các dấu thanh bao giờ cũng cùng một nhóm huyền- ngã- nặng hoặc không- sắc- hỏi. Học sinh dễ dàng nhớ mẹo này qua câu lục bát sau: Chị Huyền mang nặng, ngã đau Anh không sắc thuốc hỏi đâu mà lành”. + Mẹo “ Mình nên nhớ viết dấu ngã” Với câu thơ trên tôi phân ra cụ thể như sau: - với m (mình) : mẫn cảm, mãnh liệt, mạnh mẽ, mĩ thuật, mĩ mãn, mĩ lệ, con muỗi, - Với n (nên) : nỗ lực, phụ nữ, noãn bào, nỗi niềm, - Với nh (nhớ) : nhẫn nại, nhiễm bệnh, truyền nhiễm, tham nhũng, thổ nhưỡng,.. - Với v (viết) : vĩ đại, vĩ nhân, vĩ tuyến, viễn thị, viễn cảnh, vỗ tay, cổ vũ, vũ trụ, - Với d (dấu) : dưỡng sinh, nuôi dưỡng, dũng cảm, dã thú, dã man, diễm phúc, - Với ng (ngã) : té ngã, ngỡ ngàng, ngưỡng mộ, ngôn ngữ, ngữ nghĩa, đội ngũ, + Mẹo nhóm nghĩa tr- ch - Những từ chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: cha, chú, chị, cháu, chắt, chồng, - Những từ chỉ đồ vật trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: chai, chum, chạn, chén, chổi, chão, chõng, chiếu,..( ngoại trừ cái tráp, đồ vật này giờ ít dùng). + Mẹo nhóm nghĩa s- x - Tên thức ăn và đồ dùng nấu ăn viết là x: xôi, xa lát, xúc xích, xì dầu, - Các động từ, tính từ thường viết là x: xem, xách, xẻ, xay, xát, xào, xoa, xúc, xanh, - Hầu hết các danh từ còn lại đều viết là s: + Chỉ người : sứ giả, đại sứ, sư vãi, giáo sư, gia sư, + Chỉ cây cối: sen, sung, sấu, sắn, si, sim, sậy, sầu riêng, su su ... + Chỉ đồ vật: sọt, sợi dây, sợi vải, + Chỉ con vật: sâu, sán, sên, sếu, sóc, sò, sứa,sư tử, san hô, sơn dương + Chỉ sự vật, hiện tượng: sao, sương, sông, suối, sấm, sét, Có một số trường hợp ngoại lệ là danh từ nhưng lại viết là x: xe, xuồng, xoan, xoài, túi xách, xương, xô, xẻng, xưởng, xã, trạm xá, mùa xuân. Học si
Tài liệu đính kèm: