- Nâng cao chất lượng giờ dạy là khát vọng của các giáo viên, tổ chuyên môn và nhà trường. Điều này được thực hiện qua nhiều biện pháp khác nhau. Kỹ năng sư phạm của giáo viên có ảnh hưởng lớn đến chất lượng giờ dạy. Ở các buổi sinh hoạt tổ cần trao đổi, góp ý, giúp nhau sửa chữa những tồn tại, những nhược điểm như phong cách lên lớp, ngôn ngữ diễn đạt, trình bày bảng của giáo viên, . Hoạt động này nhằm hoàn thiện kỹ năng sư phạm của nhiều giáo viên, trong khi góp ý sau tiết dự giờ, thao giảng thường hướng tới từng cá nhân cụ thể.
+ Phong cách lên lớp mà chúng ta mong muốn là chững chạc, tự tin, làm chủ bài giảng. Chú ý đến giọng nói, cử chỉ đi đứng, động tác tay, ánh mắt, nụ cười, . Mọi cái nên vừa phải, trong lớp tránh đi lại quá nhiều, vung tay quá mạnh. Nói chung, giáo viên cần chú ý đến cả yếu tố phi ngôn ngữ. Tổ chuyên môn cần chọn giáo viên có tác phong lên lớp tốt làm mẫu để các tổ viên học hỏi và xây dựng cho mình một phong cách phù hợp.
+ Ngôn ngữ (nói và viết) là kênh quan trọng để học sinh lĩnh hội kiến thức. Những giáo viên dạy tốt, cuốn hút học sinh không chỉ họ có ưu thế về kiến thức và thủ thuật sư phạm mà họ còn sử dụng lời nói chính xác, với âm lượng vừa phải, rõ ràng, truyền cảm, có ngữ điệu. Do vậy, trong sinh hoạt tổ chuyên môn, cần làm cho giáo viên có ý thức rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, khi góp ý các giờ dạy cần chú trọng đến yếu tố này. Làm sao để trên lớp, giáo viên có giọng nói chuẩn, chỉ dùng từ phổ thông, ít trùng lặp, ít sai sót.
+ Phương pháp dạy học; cách thức tổ chức học sinh học tập có hiệu quả thực hiện tốt mục tiêu bài học là khâu quan trọng nhất trong thực hiện tiết dạy. Để làm tốt công việc này đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp, kỹ thuật dạy học phù hợp. Một trong những phương pháp tổ chức hướng dẫn học sinh học tập, lĩnh hội kiến thức là kỹ thuật đặt câu hỏi. Thực tế dự giờ của giáo viên tôi nhận thấy, nếu giờ dạy nào giáo viên chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức thì phần lớn tiết dạy đó thành công. Câu hỏi đặt ra phải chính xác, khoa học, vừa sức với học sinh, tránh đặt câu hỏi quá nhiều, quá vụn vặt nhưng cũng cần tránh đặt câu hỏi quá rộng, quá khó đối với học sinh.
+ Ứng dụng CNTT, trình chiếu trong dạy học là cần thiết nhưng không thể thay thế phấn và bảng. Trình bày bảng cùng với trình chiếu nhờ CNTT là kênh thông tin chữ viết-hình ảnh quan trọng tới học sinh. Trình bày bảng cẩn thận, đẹp, đúng chính tả, ngữ pháp, rõ ràng có ảnh hưởng chẳng những đến chữ viết, đến bài làm của học sinh, mà còn ảnh hưởng tốt hay xấu đến bệnh về mắt của học sinh. Trong sinh hoạt chuyên môn, các tổ, nhóm cần lưu ý để giáo viên rèn luyện kỹ năng trình bày bảng khoa học, chuẩn xác, chữ viết đẹp sẽ góp phần hình thành nhân cách cho học sinh.
4 26 135 156 31 2013-2014 12 364 45 139 167 23 Như vậy, hai mặt giáo dục của nhà trường hàng năm được tăng lên. - Cơ sở vật chất của nhà trường đảm bảo cho công tác dạy và học 1 ca. - Số lượng HSG các cấp cũng được tăng lên: Năm học TS giải Cấp tỉnh Cấp huyện 2012-2013 23 2 21 2013-2014 27 2 25 2014-2015 34 3 31 *) Khó khăn: - Kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động, giá cả leo thang gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của CGBV từ đó việc chuyên tâm đầu tư cho công tác chuyên môn cũng bị ảnh hưởng. - Một bộ phận giáo viên chưa thực sự trăn trở và đầu tư vào công tác chuyên môn đặc biệt là chất lượng các giờ dạy. - Các em HS dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ khá cao, nhiều em HS hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn, mặt bằng kiến thức của HS không đồng đều do đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của nhà trường. - Cơ sở vật chất còn thiếu: Một số phòng chức năng và phòng học bộ môn chưa đầy đủ , CNTT phục vụ cho công tác dạy học chưa đủ đáp ứng do đó việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên còn gặp nhiều khó khăn. b) Một số tồn tại trong công tác chỉ đạo và việc nâng cao chất lượng giờ dạy của giáo viên. - Trường THCS Dương Đức đã đạt nhiều thành quả đáng khích lệ trong những năm qua, tuy nhiên dưới góc độ của nhà quản lý chúng tôi vẫn còn những tồn tại như các biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy chưa được đầu tư đúng mức, việc đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, theo hướng nghiên cứu bài học vẫn còn hạn chế, chức năng chỉ đạo, giám sát kết hợp với chức năng tổ chức nhà trường để tạo nên sự đột phá trong việc triển khai các biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy cũng phần nào hạn chế. - Sự phối hợp các tổ chức trong nhà trường và các lực lượng xã hội đã có nhưng chưa đủ mạnh để thúc đẩy chất lượng nhà trường lên một tầm cao mới. - Nhìn chung số lượng giáo viên có giờ dạy giỏi các cấp còn hạn chế, chất lượng học lực của học sinh còn thấp so với mặt bằng chung. Từ thực trạng trên, để làm tốt công tác quản lý chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả giờ dạy của đội ngũ giáo viên, tôi đã đề ra và tổ chức thực hiện một số biện pháp sẽ nêu cụ thể dưới đây. III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN. Việc xây dựng kế hoạch chuyên môn và tổ chức thực hiện thắng lợi kế hoạch chính là hoàn thành tốt mục tiêu nhiệm vụ đặt ra trong năm học của công tác điều hành, tổ chức, quản lý hoạt động chuyên môn mà nhiệm vụ cụ thể là nâng cao chất lượng dạy học. Muốn cho hoạt động chuyên môn trong một nhà trường đem lại hiệu quả cao thì phải tạo ra được sự đồng bộ thống nhất từ định hướng chỉ đạo, việc xây dựng kế hoạch đến khâu tổ chức thực hiện và đánh giá rút kinh nghiệm. Để làm được điều đó tôi đã tham mưu và cùng với tập thể BGH thống nhất chỉ đạo quy trình xây dựng kế hoạch hoạt động chuyên môn trong nhà trường như sau: - Trước hết, vào đầu mỗi năm học, căn cứ vào Chỉ thị và các văn bản hướng dẫn việc thực hiện nhiệm vụ năm học của cấp trên, các nhiệm vụ trọng tâm của năm học, chủ đề năm học, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của ngành, đặc điểm và điều kiện thực tế của nhà trường trong năm học, BGH tiến hành xây dựng kế hoạch hoạt động chuyên môn chi tiết cụ thể cho từng tháng, học kỳ và cho cả năm học. Tổ chức lấy ý kiến đóng góp của người đứng đầu các tổ chức đoàn thể và các tổ trưởng, tổ phó chuyên môn để hoàn chỉnh kế hoạch và duyệt với Phòng GD&ĐT. - Trên cơ sở kế hoạch chuyên môn của nhà trường, các tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ trình hiệu trưởng duyệt trước khi tổ chức thực hiện. - Sau khi đã hoàn thiện kế hoạch hoạt động của các tổ chuyên môn, tôi chỉ đạo các tổ tổ chức họp triển khai kế hoạch đến từng giáo viên của tổ mình, cùng với đó hướng dẫn CBGV đăng ký thi đua, xây dựng kế hoạch cá nhân. Với việc xây dựng, phổ biến kế hoạch như trên, không chỉ người quản lý nắm vững kế hoạch mà bản thân mỗi giáo viên đều có trách nhiệm thực hiện kế hoạch của bản thân và kế hoạch chung của tổ, của chuyên môn nhà trường. Đây chính là cơ sở quan trọng để tôi có điều kiện thực hiện các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả dạy học mà cụ thể là chất lượng giờ dạy của giáo viên. Biện pháp 1: Chú trọng công tác bồi dưỡng giáo viên. Công tác bồi dưỡng giáo viên có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao năng lực của giáo viên về chính trị cũng như năng lực sư phạm từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Xuất phát từ tình hình thực tế của đội ngũ tôi đã tham mưu cho Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên theo giai đoạn và theo từng năm học, đồng thời chỉ đạo các tổ chuyên môn xây dựng được kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên. Việc bồi dưỡng giáo viên phải đảm bảo theo các văn bản hướng dẫn của Nhà nước và của ngành và cần tập trung vào các nội dung sau: - Bồi dưỡng về tư tưởng chính trị, chấp hành các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của ngành, của địa phương. - Tổ chức các phong trào SKKN, dự giờ, thăm lớp,... - Tổ chức các phong trào thi đua. - Tổ chức các buổi chuyên đề tại trường, sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn. - Tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp học nâng cao về lý luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ (lớp trung cấp lý luận chính trị, các lớp đại học chính quy, tại chức, liên thông,...về chuyên môn). - Tổ chức tốt cho giáo viên tham gia các lớp học chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng CNTT trong giảng dạy do cấp trên tổ chức. - Tạo động lực khích lệ giáo viên tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực sư phạm. Biện pháp 2: Bố trí, sắp xếp, phân công nhiệm vụ hợp lí cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường. Bố trí, phân công nhiệm vụ cho giáo viên trong nhà trường một cách hợp lý, đúng với nhiệm vụ và khả năng, sở trường của từng đồng chí là nhiệm vụ hàng đầu và vô cùng quan trọng. Bố trí, phân công tốt thì sẽ phát huy được khả năng và tạo được niềm hứng khởi trong công tác của CBGV, từ đó sẽ đạt được năng suất và chất lượng cao trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Cùng với Hiệu trưởng thực hiện việc phân công bố trí nhiệm vụ cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường, để làm tốt công việc này tôi thực hiện một số giải pháp sau: + Tăng cường dự giờ thăm lớp và căn cứ vào hiệu quả công việc để nắm bắt được năng lực chuyên môn của từng giáo viên. + Trước khi phân công, sắp xếp đội ngũ, tôi luôn tranh thủ ý kiến lãnh đạo của chi uỷ, chi bộ nhà trường và tổ chức họp liên tịch để tham khảo ý kiến của các đồng chí đứng đầu các tổ chức đoàn thể và các tổ trưởng chuyên môn. Đồng thời, cũng thăm dò ý kiến của những đồng chí định phân công nhiệm vụ, nắm bắt thái độ, tâm tư nguyện vọng, điều kiện cá nhân của từng đồng chí để đi đến quyết định phù hợp nhất. + Đưa ra những quan điểm, những định hướng trong việc phân công nhiệm vụ đảm bảo khách quan, hợp lý, vì lợi ích chung của nhà trường như: - Phải vì lợi ích, vì chất lượng của học sinh. - Dựa vào khả năng thực tế của từng CBGV . - Xem xét hoàn cảnh, điều kiện của mỗi đồng chí trong đội ngũ. Từ đó phân công nhiệm vụ cũng như bố trí thời khóa biểu phù hợp nhất tạo điều kiện cho giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Biện pháp 3: Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ, nhóm chuyên môn. Chất lượng hoạt động của tổ chuyên môn là điểm mấu chốt để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giờ dạy của giáo viên nói riêng việc sinh hoạt tổ chuyên môn phải đảm bảo thời lượng theo quy định tại Điều lệ trường học. Để nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chuyên môn trong nhà trường tôi chỉ đạo các tổ cần tập trung vào những vấn đề sau: a. Triển khai các chuyên đề: - Đây là nội dung sinh hoạt thường xuyên và rất cần thiết, các chuyên đề cần tập trung vào những đề tài như đổi mới phương pháp giảng dạy, rèn luyện các kỹ năng bộ môn, dạy các bài khó, ứng dụng CNTT trong dạy học, sử dụng thiết bị dạy học, làm mới đồ dùng dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá, bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu, ... - Việc triển khai các chuyên đề cần được thực hiện có kế hoạch, được tổ chức, được kiểm tra, đánh giá thì mới có chất lượng và hiệu quả tốt. Trong một năm học cần cơ cấu hợp lý các mảng đề tài, mỗi giáo viên đảm trách một chuyên đề, phân bổ thời gian phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường. Sau khi xác định được các chuyên đề, việc triển khai nên gồm các bước: + Phân công cá nhân chuẩn bị chuyên đề; + Tổ trưởng duyệt bản thảo; + Báo cáo chuyên đề ở tổ, nhóm, các tổ viên góp ý, phản biện; + Cá nhân phụ trách hoàn thiện chuyên đề; + Nhân bản cho toàn thể tổ viên áp dụng và lưu hồ sơ để áp dụng nhiều năm. b. Rèn luyện kỹ năng sư phạm của giáo viên: - Nâng cao chất lượng giờ dạy là khát vọng của các giáo viên, tổ chuyên môn và nhà trường. Điều này được thực hiện qua nhiều biện pháp khác nhau. Kỹ năng sư phạm của giáo viên có ảnh hưởng lớn đến chất lượng giờ dạy. Ở các buổi sinh hoạt tổ cần trao đổi, góp ý, giúp nhau sửa chữa những tồn tại, những nhược điểm như phong cách lên lớp, ngôn ngữ diễn đạt, trình bày bảng của giáo viên, .... Hoạt động này nhằm hoàn thiện kỹ năng sư phạm của nhiều giáo viên, trong khi góp ý sau tiết dự giờ, thao giảng thường hướng tới từng cá nhân cụ thể. + Phong cách lên lớp mà chúng ta mong muốn là chững chạc, tự tin, làm chủ bài giảng. Chú ý đến giọng nói, cử chỉ đi đứng, động tác tay, ánh mắt, nụ cười, ... Mọi cái nên vừa phải, trong lớp tránh đi lại quá nhiều, vung tay quá mạnh. Nói chung, giáo viên cần chú ý đến cả yếu tố phi ngôn ngữ. Tổ chuyên môn cần chọn giáo viên có tác phong lên lớp tốt làm mẫu để các tổ viên học hỏi và xây dựng cho mình một phong cách phù hợp. + Ngôn ngữ (nói và viết) là kênh quan trọng để học sinh lĩnh hội kiến thức. Những giáo viên dạy tốt, cuốn hút học sinh không chỉ họ có ưu thế về kiến thức và thủ thuật sư phạm mà họ còn sử dụng lời nói chính xác, với âm lượng vừa phải, rõ ràng, truyền cảm, có ngữ điệu. Do vậy, trong sinh hoạt tổ chuyên môn, cần làm cho giáo viên có ý thức rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, khi góp ý các giờ dạy cần chú trọng đến yếu tố này. Làm sao để trên lớp, giáo viên có giọng nói chuẩn, chỉ dùng từ phổ thông, ít trùng lặp, ít sai sót. + Phương pháp dạy học; cách thức tổ chức học sinh học tập có hiệu quả thực hiện tốt mục tiêu bài học là khâu quan trọng nhất trong thực hiện tiết dạy. Để làm tốt công việc này đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp, kỹ thuật dạy học phù hợp. Một trong những phương pháp tổ chức hướng dẫn học sinh học tập, lĩnh hội kiến thức là kỹ thuật đặt câu hỏi. Thực tế dự giờ của giáo viên tôi nhận thấy, nếu giờ dạy nào giáo viên chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức thì phần lớn tiết dạy đó thành công. Câu hỏi đặt ra phải chính xác, khoa học, vừa sức với học sinh, tránh đặt câu hỏi quá nhiều, quá vụn vặt nhưng cũng cần tránh đặt câu hỏi quá rộng, quá khó đối với học sinh. + Ứng dụng CNTT, trình chiếu trong dạy học là cần thiết nhưng không thể thay thế phấn và bảng. Trình bày bảng cùng với trình chiếu nhờ CNTT là kênh thông tin chữ viết-hình ảnh quan trọng tới học sinh. Trình bày bảng cẩn thận, đẹp, đúng chính tả, ngữ pháp, rõ ràng có ảnh hưởng chẳng những đến chữ viết, đến bài làm của học sinh, mà còn ảnh hưởng tốt hay xấu đến bệnh về mắt của học sinh. Trong sinh hoạt chuyên môn, các tổ, nhóm cần lưu ý để giáo viên rèn luyện kỹ năng trình bày bảng khoa học, chuẩn xác, chữ viết đẹp sẽ góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. + Khả năng tổ chức và quan sát hoạt động học tập của HS sao cho HS tích cực hoạt động trong giờ học. -Ngoài ra, kỹ năng phối hợp linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học: cá nhân, nhóm, lớp; chính khóa và ngoại khóa, tham quan thực tế ...; Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học; Tự làm đồ dùng dạy học; Thống nhất mức độ ứng dụng CNTT trong từng tiết dạy theo yêu cầu từng bài giảng cũng là các nội dung sinh hoạt tổ, nhóm nhằm rèn luyện kỹ năng sư phạm của giáo viên. c. Tổ chức các tiết dự giờ, thao giảng: - Dự giờ là hoạt động quan trọng đối với việc phát triển chuyên môn của mỗi giáo viên. Dự giờ sẽ giúp cho giáo viên được dự giờ chủ động, tích cực hơn trong bài giảng của mình. Dù thế nào đi nữa thì mỗi khi có người đến dự giờ, các giáo viên đều chuẩn bị bài kĩ hơn, đôi khi còn có sự trao đổi về bài dạy trước khi lên lớp, đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa đối với mỗi giáo viên. Khi có người đến dự giờ, lớp học cũng diễn ra sôi nổi hơn, ý thức học tập của học sinh tốt hơn, đây là điều kiện tốt nhất để giáo viên phát huy tính sáng tạo của học sinh. Việc dự giờ còn giúp cho giáo viên đi dự giờ học tập, rút kinh nghiệm từ tiết dạy của đồng nghiệp, thông qua việc xử lí tình huống của đồng nghiệp, giáo viên sẽ khắc phục được những thiếu xót trong quá trình giảng dạy... Bởi vậy, ngoài mục đích đánh giá năng lực của giáo viên thì điều quan trọng là các tổ, nhóm cần tổ chức tốt việc góp ý, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy, về kiến thức, về phong cách lên lớp, về tổ chức lớp học. - Các tổ chuyên môn cần tăng cường quản lý, định hướng tổ chức dự giờ, thao giảng coi đây là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giờ dạy ... Tổ chức thao giảng phải có mục tiêu, rút ra được những kinh nghiệm. Dự giờ rồi đánh giá, rút kinh nghiệm giờ dạy là việc làm thường xuyên của tổ chuyên môn, nếu được tổ chức tốt sẽ xóa bỏ được tình trạng còn có giáo viên chưa tự giác, tích cực dự giờ đồng nghiệp hoặc tâm lí cho rằng đi dự giờ là kiểm tra tiết dạy của giáo viên. Cần tránh dự giờ để đối phó nhằm đạt chỉ tiêu số lượng theo quy định. - Khi đánh giá, rút kinh nghiệm các tiết dạy cần thẳng thắn, chân tình với tinh thần giúp nhau cùng tiến bộ, phải đánh giá thực chất, nêu ra được những điểm mạnh, những hạn chế của người dạy về kiến thức, kỹ năng, thái độ, về nội dung, phương pháp, phong cách. Cần phê phán lối dạy đọc chép, dạy chay trong khi có và cần sử dụng đồ dùng dạy học. Các giờ được dự cần được xếp loại và lưu lại ý kiến cũng như kết quả xết loại; việc xếp loại giờ dạy cần bám vào các tiêu chuẩn, tiêu chí không dựa vào định tính hoặc cả nể sẽ không thúc đẩy được sự tiến bộ của đồng nghiệp. d) Tổ chức xây dựng giờ dạy mẫu ở các tổ, nhóm chuyên môn. Trong mỗi năm học tôi đã chỉ đạo các tổ chuyên môn lựa chọn giáo viên cốt cán, thông thường là tổ trưởng tổ chuyên môn hoặc những giáo viên dạy giỏi các cấp cùng xây dựng các giờ dạy có chất lượng, làm mẫu cho giáo viên dự giờ. Tiến hành rút kinh nghiệm, đánh giá những mặt tích cực về phương pháp dạy học, về nội dung và phong thái của giáo viên. Từ những giờ dạy mẫu này, sau khi đã thử nghiệm thì tiến hành nhân rộng ra toàn khối, toàn trường. Việc xây dựng giờ dạy mẫu được tiến hành công phu, từ việc chọn bài dạy, tổ chức thiết kế bài soạn, cân nhắc phương pháp giảng dạy nào phù hợp với từng giai đoạn nào, cách sử dụng đồ dùng trực quan... Có như vậy giờ dạy mẫu mới thành công và đem lại hiệu quả khi triển khai đại trà. Việc lựa chọn và tổ chức các giờ dạy mẫu cần phải chú trọng đến các tiết ôn tập, luyện tập, các bài dạy khó. Dạy tiết ôn tập có chất lượng là điều không dễ. Có những giáo viên cho là không khó, bởi vì họ cho rằng học sinh đã có sẵn các kiến thức đã học, giáo viên chỉ việc hệ thống lại dưới hình thức các bảng hay sơ đồ là xong. Thế nhưng, dạy tiết ôn tập làm sao để không lặp lại những gì đã giảng ở các bài học trước một cách máy móc, dễ gây nhàm chán cho học sinh và cho cả chính bản thân giáo viên; làm sao để học sinh học tiết ôn tập một cách thích thú và có nhiều kết quả. Mục tiêu của các bài ôn tập nói chung là vừa củng cố các kiến thức đã học của một chương hay một phần nào đó, vừa mở rộng, nâng cao, so sánh đối chiếu với các kiến thức có liên quan, vừa góp phần bồi dưỡng một số kỹ năng nhất định cho học sinh. Bởi vậy, tổ chức tiết dạy ôn tập có hiệu quả cũng là vấn đề các tổ chuyên môn cần thảo luận, bàn bạc để chọn cách ôn tập phù hợp cho từng chương, từng phần, phù hợp với mục tiêu của bài ôn tập cũng như phù hợp với các đối tượng học sinh của lớp. Cần tránh dạy tiết ôn tập như là một tiết dạy lại, nhàm chán, hiệu quả thấp, ít tác dụng. Trong sinh hoạt tổ chuyên môn cần thống nhất về nội dung, phương pháp, thời lượng ôn tập. Yêu cầu của tiết ôn tập là hệ thống được kiến thức trong phần ôn tập, có thể nâng cao, mở rộng tùy mục đích, đối tượng ôn tập, rèn luyện được kỹ năng cần thiết cho học sinh. Ở đây, giáo viên cần bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng mà Bộ GD-ĐT đã ban hành. e) Nâng cao chất lượng bài soạn của giáo viên. Bài soạn của giáo viên đóng một vai trò hết sức quan trọng và quyết định phần nhiều sự thành công của mỗi giờ lên lớp của giáo viên. Trong thực tế tôi đã chỉ đạo các tổ chuyên môn và giáo viên tập trung vào các vấn đề sau: *) Nghiên cứu và xác định mục tiêu bài học. Từ năm học 2011 – 2012 song song với bộ SGK, SGV của Bộ GD&ĐT, Bộ ra thêm “Chuẩn kiến thức, kỹ năng” cho từng môn học. Dựa vào việc nắm bắt tinh thần đổi mới cách soạn giáo án ở từng môn học mà giáo viên đã trực tiếp tham gia chuyên đề, trên cơ sở hướng dẫn của PGD&ĐT Lạng Giang, tôi đã định hướng cho các tổ chuyên môn thống nhất một số nội dung sau trong xác định mục tiêu bài soạn: Thứ nhất: + Mục tiêu bài học phải rõ ràng, tường minh, chỉ rõ HS cần đạt được mục tiêu gì ở kiến thức, kỹ năng, thái độ. + Mục tiêu bài học phải được lượng hóa: Đối tượng HS nào cần học được kiến thức nào? + Mục tiêu phải chú trọng kỹ năng sống cho HS. Thứ hai: Trong bài soạn cần nêu rõ cách tổ chức hoạt động cho HS đạt được mục tiêu đã đề ra. *) Kiểm tra việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên. Xác định rõ tầm quan trọng của công tác kiểm tra và duyệt giáo án của giáo viên trước khi lên lớp. Ngay từ đầu năm học tôi đã tham mưu cho Hiệu trưởng ra quyết định thành lập ban kiểm tra và duyệt giáo án của giáo viên trước khi lên lớp, thành phần ban kiểm tra là Ban giám hiệu, tổ trưởng, tổ phó chuyên môn và các giáo viên đã đạt giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh ở các bộ môn có nhiều kinh nghiệm trong công tác soạn giảng. Nội dung của công tác kiểm tra tập trung vào một số khâu quan trọng sau: - Kiểm tra việc thống nhất cách soạn của từng môn học ở từng khối lớp. Các dạng bài soạn giờ ôn tập, kiểm tra, thực hành. Yêu cầu về giáo án của giáo viên mới ra trường, của giáo viên giỏi, của giáo viên cần cố gắng. Chọn câu hỏi phát vấn, xác định kiến thức trọng tâm của bài cần khắc sâu, rèn kỹ năng gì và đồ dùng dạy học phải chuẩn bị. - Do mỗi một giáo viên có thể giảng dạy ở các lớp khác nhau của cùng một khối và cùng một bộ môn nên để tạo điều kiện thuận lợi cho dạy học phân hóa thì trong bài soạn của giáo viên phải có câu hỏi dành cho các đối tượng khác nhau, đối với câu hỏi dành cho đối tượng học sinh khá giỏi yêu cầu người soạn bài phải thể hiện rõ trong giáo án bằng việc gạch chân những câu hỏi đó để tiện cho công tác kiểm tra. - Để quản lý tốt việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên, Ban giám hiệu đã chọn các hình thức kiểm tra: + Kiểm tra đột xuất. + Kiểm tra trước giờ lên lớp. + Kiểm tra sau dự giờ. + Kiểm tra định kỳ cùng tổ trưởng chuyên môn. - Khi phát hiện những bài soạn của giáo viên không đảm bảo để thực hiện trên lớp thành viên phụ trách của Ban kiểm tra có thể yêu cầu giáo viên đó soạn lại và trình duyệt lại bài soạn trước khi thực hiện tiết dạy. Biện pháp 4: Tăng cường dự giờ thăm lớp, bồi dưỡng giúp đỡ giáo viên. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy một công việc rất quan trọng của người làm công tác quản lý là tăng cường công tác thanh kiểm tra chuyên môn. Trong đó dự giờ thường xuyên các đối tượng giáo viên đặc biệt là những giáo viên yếu tay nghề là công việc có ý nghĩa quyết định. Việc dự giờ được tiến hành theo kế hoạch hàng tháng, hàng tuần một cách thường xuyên sẽ giúp giáo viên đứng lớp trước hết có tâm thế vững vàng, bởi không ít giáo viên khi có người dự thì dễ bị lúng túng, quan trọng hơn là giúp giáo viên có ý thức chuẩn bị bài tốt hơn, tự tin và có cố gắng hơn trong việc áp dụng các phương pháp mới tích cực hơn hoạt động của học sinh. Dự giờ thăm lớp không chỉ giúp người quản lý nắm bắt được năng lực chuyên môn, kỹ năng
Tài liệu đính kèm: