Đánh giá kết quả học tập của học sinh không chỉ có giáo viên là người “ Cầm cân nảy mực” mà nên cho học sinh tham gia vào việc đánh giá kết quả học tập của bạn cũng như của bản thân mình. Tôi thường tổ chức cho học sinh đổi chéo vở kiểm tra lẫn nhau, đối chiếu bài cô, tự chấm bài cho mình. Cô là người hướng dẫn và có nhận xét, kết luận chung.
Ví dụ: + Khi học sinh hoàn thành tốt bài tập, tôi nhận xét như sau: “Hiểu và làm đúng bài tập, trình bày rõ ràng, em thật đáng khen !”
+ Khi học sinh hoàn thành bài tập nhưng trình bày chưa đẹp tôi có thể nhận xét: “Em làm đúng bài tập, nhưng em nên trình bày sạch sẽ và cẩn thận hơn”
+ Khi học sinh chưa hoàn thành bài tập, hoặc làm sai nhiều, có thể nhận xét: “Em chưa hoàn thành bài, em cần cố gắng nhiều hơn nữa”
Trong quá trình dạy, tôi luôn kiểm tra, theo dõi, giám sát tiến trình hoạt động, kết quả của các hoạt động của từng học sinh để có sự động viên khuyến khích hay giúp đỡ kịp thời.
c nhà trường cũng như cha mẹ học sinh quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để học tập tốt như việc mua sắm sách vở, giấy bút, đồ dùng, đầy đủ. Mặt khác, các em rất ngoan ngoãn, biết nghe lời thầy cô và giúp đỡ bạn bè rất vô tư trong sáng. - Đội ngũ giáo viên được chuẩn hóa, có trình độ chuyên môn, có năng lực. Đa số giáo viên đều nhiệt tình, hăng say với công việc, có tinh thần trách nhiệm cao, luôn tìm tòi sáng tạo những cái hay, cái mới áp dụng vào dạy học để không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. - Sự phát triển mạnh mẽ của Công nghê thông tin tạo ra nhiều ứng dụng tiện lợi để giáo viên áp dụng vào thực tế dạy học đem lại hiệu quả cao. * Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi trên, khi thực hiện đề tài này tôi gặp phải một số khó khăn như sau: - Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, các em học sinh lớp 1 còn ít tuổi nên ý thức tự giác học tập của các em chưa cao. Các em chưa có sự kiên trì, chịu khó, sự tập trung cao độ trong thời gian dài. Một số em hiếu động rất mải chơi thiếu sự chú ý, làm việc riêng khi học bài. - Chất lượng giáo dục trong một lớp không đồng đều, có những học sinh tiếp thu bài nhanh, có nhiều học sinh khả năng tư duy và khả năng tiếp thu chậm, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian cho những học sinh này. - Ngoài ra một số học sinh có hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn, con em đồng bào dân tộc thiểu số luôn thiếu sự quan tâm của gia đình tới việc học, mua sắm đồ dùng, sách vở chưa đầy đủ. Điều này cũng gây ra khó khăn cho giáo viên và học sinh khi dạy và học. b. Thành công, hạn chế * Thành công Trong quá trình dạy học, đối với từng bài học cụ thể, tôi sẽ áp dụng các biện pháp vào từng thời điểm phù hợp. Sau một thời gian áp dụng tôi thấy chất lượng môn Toán lớp tôi cuối năm học 2013- 2014 được nâng lên một cách rõ rệt. Đa số học sinh đều tiến bộ hơn nhiều so với bản thân các em đầu năm học. Các em thích học môn Toán hơn, hứng thú, sôi nổi khi tham gia các trò chơi học tập, chú ý quan sát các đồ dùng để trả lời câu hỏi. Đó chính là thành công của đề tài. * Hạn chế Việc áp dụng các biện pháp đòi hỏi người giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình dạy học. Nghiên cứu kĩ nội dung từng bài để có hình thức dạy học phù hợp. Nếu áp dụng biện pháp không phù hợp sẽ gây ra áp lực cũng như sự nhàm chán cho học sinh. c. Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh Trong quá trình dạy học, tôi sử dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán đúng lúc, đúng đối tượng, có sự chuẩn bị chu đáo, tiến hành nhẹ nhàng, tự nhiên và nhuần nhuyễn phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh và cũng phù hợp với các đối tượng học sinh khác nhau. Việc lồng ghép một số trò chơi học tập tạo ra không khí học tập sôi nổi thoải mái giúp học sinh giảm bớt căng thẳng và áp lực khi học toán. Việc áp dụng công nghệ thông tin và sử dụng đồ dùng dạy học trực quan phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh sẽ tạo điều kiện để học sinh tự khám phá và tự chiếm lĩnh kiến thức một cách dễ dàng hơn. * Mặt yếu Muốn có một bài dạy thành công, người giáo viên đầu tư chuẩn bị chu đáo đồ dùng dạy học, chuẩn bị dụng cụ phục vụ trò chơi, chuẩn bị các giáo án điện tử công phu, tốn nhiều thời gian. Bên cạch đó, giáo viên còn phải nghiên cứu lựa chọn những hình thức dạy học phù hợp với từng dạng bài khác nhau. Để làm được những việc này đòi hỏi người giáo viên phải thật sự nhiệt tình và có tâm huyết với nghề. d. Nguyên nhân và các yếu tố tác động gây ra thực trạng Được sự đầu tư quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhà trường, giáo viên cũng như đa số cha mẹ học sinh nhưng vẫn còn tình trạng nhiều em chán nản, không thích học Toán, chất lượng môn Toán chưa cao. Đó là do một số nguyên nhân như sau: * Về phía học sinh - Khả năng tập trung và ghi nhớ còn nhiều hạn chế do các em còn nhỏ và ham chơi. - Khả năng tư duy chậm, kém hiệu quả: Chỉ làm được những bài tập tương tự theo hình thức “bắt chước” các bài mẫu đã có sẵn. - Ý thức tự giác học tập của nhiều học sinh chưa cao: Thờ ơ với các giờ học trên lớp, không học bài và làm bài khi ở nhà. - Sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng chưa nhanh nhẹn. Khả năng phân tích, tổng hợp kém và phát triển không đồng đều nên có khi phân tích được nhưng không biết tổng hợp. Khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa đều phát triển chậm. Các em luôn thấy khó khăn khi mất chỗ dựa cụ thể. - Kĩ năng làm bài và trình bày bài làm chưa rõ ràng, chưa khoa học: Đọc không kĩ đề bài, làm sai yêu cầu bài tập, thường xuyên gạch xóa trong bài - Khả năng diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ toán học (thuật ngữ, kí hiệu) lúng túng, nhiều chỗ lộn xộn, thiếu tự tin khi giao tiếp. * Về phía giáo viên Một số giáo viên chưa đầu tư chuẩn bị bài chu đáo nên chưa nắm chắc những những yêu cầu kiến thức của từng bài dạy .Viêc dạy học còn dàn trải, còn nâng cao kiến thức một cách tùy tiện. Một số giáo viên chưa thực sự chú ý đúng mức đến từng đối tượng học sinh nhất là học sinh tiếp thu bài chậm. Bên cạnh đó, chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện lười học của học sinh. Tốc độ giảng dạy kiến thức mới và luyện tập còn nhanh khiến cho học sinh không theo kịp. Lời giảng và phương pháp truyền đạt cũng ảnh hưởng đến sự chú ý của học sinh khi học bài. * Về phía gia đình học sinh - Bên cạnh đó, một nguyên nhân không nhỏ có ảnh hưởng tới chất lượng môn Toán chưa cao là do một số phụ huynh thiếu quan tâm sát sao đến việc học của các con. - Một số học sinh hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên thiếu sách vở, đồ dùng phục vụ cho việc học. Nhiều học sinh cả bố mẹ đi làm ăn xa để mặc các em ở nhà với ông bà hoặc anh chị nên thiếu sự quan tâm yêu thương, các em thiếu tự tin, chán nản và học hành sa sút * Nguyên nhân khác Do một số học sinh là người dân tộc thiểu số nên vốn tiếng Việt chưa thành thạo ảnh hưởng đến quá trình tiếp thu và giao tiếp với bạn và cô, tạo ra tâm lí thiếu tự tin. Chính điều này cũng làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh. Trên đây là những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng chất lượng học tập môn Toán của đa số học sinh lớp 1 chưa cao. Trước một thực trạng như vậy, người giáo viên không thể không suy nghĩ phải làm gì để thay đổi thực trạng này và nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán lớp 1. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra Đầu năm học 2013-2014, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 1D gồm 27 học sinh. Bước vào đầu năm học, tôi tiến hành khảo sát chất lượng để phân loại đối tượng học sinh. Kết quả khảo sát như sau: Tổng số HS Điểm dưới 5 Điểm 5, 6 Điểm 7, 8 Điểm 9, 10 SL % SL % SL % SL % 27 5 18.5 8 29.6 8 29.6 6 22.3 Tôi nhận thấy chất lượng môn Toán của lớp tương đối thấp. Do lớp có nhiều học sinh dân tộc thiểu số, một số em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Từ thực trạng đó, tôi quyết tâm phải nâng cao chất lượng của lớp bằng nhiều cách. Tỉ lệ học sinh làm bài điểm khá, giỏi chỉ chiếm 50 % tổng số học sinh, trong khi đó tỉ lệ học sinh làm bài chưa tốt còn rất cao (18,5 %). Đây là thực trạng đáng lo ngại, dựa vào kết quả này tôi nhận thấy cần có sự điều chỉnh hình thức và phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng môn Toán đi lên. Qua đây tôi nhấn mạnh thêm khó khăn: Còn nhiều gia đình học sinh chưa thực sự quan tâm tới việc học tập của con cái. Do điều kiện kinh tế còn khó khăn và trình độ học vấn chưa cao nên chưa chú ý đến việc học hành của con. Đặc biệt chưa nhận thức đúng vai trò của môn Toán. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thấy thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm bắt được lượng kiến thức thầy giảng rất nhanh quên và kĩ năng tính toán chưa nhanh. II.3. Giải pháp, biện pháp a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Tôi đưa ra các biện pháp nhằm các mục tiêu cụ thể như sau: - Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng trò chơi học tập nhằm kích thích sự hứng thú cho học sinh. - Đầu tư nội dung và hình thức cũng như phương pháp phù hợp trong các tiết ôn luyện nhằm củng cố và nâng cao kiến thức cơ bản cho học sinh. - Nâng cao chất lượng dạy học môn Toán thông qua các hoạt động bổ ích khác. Giúp học sinh yêu thích môn Toán hơn, luôn chủ động tiếp thu kiến thức. b. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp, giải pháp b.1. Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học Khác với cách dạy truyền thống “Thầy giảng – trò nghe”, phương pháp dạy học hiện tại là “Thầy hướng dẫn – Trò tự tìm tòi khám phá để chiếm lĩnh kiến thức”. Phương pháp mới này kích thích tính chủ động, khả năng tìm tòi, tư duy sáng tạo cho người học. Từ đó, giúp học sinh ghi nhớ kiến thức lâu hơn. Môn Toán là môn dễ gây nhàm chán và áp lực thì phương pháp này là thích hợp nhất. Song vai trò của người giáo viên phải là người hướng dẫn, định hướng, giúp đỡ kịp thời để các học sinh đi đúng mục tiêu, nội dung trọng tâm của bài học. Để thực hiện tốt những biện pháp này tôi đã thực hiện những việc sau đây: * Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn Toán Đối với học sinh lớp 1, việc sử dụng công nghệ thông tin để giảng dạy mang lại sự mới lạ, khích thích sự tò mò, hứng thú và phù hợp nhất với tư duy trực quan cụ thể của học sinh. Nội dung của môn Toán lớp 1 liên quan đến nhận biết, cộng trừ các số tự nhiên trong phạm vi 10, 20, 100,..; nhận biết các hình học đơn giản như hình tròn, hình vuông, hình tam giác,Đối với các nội dung trên, tôi chọn một số bài cơ bản để tiến hành dạy bằng giáo án điện tử. + Đối với các bài nhận biết các số từ 1 đến 10, tôi sẽ chọn một bài điển hình để dạy bằng giáo án điện tử giúp dễ hình dung và nắm bắt kiến thức. Ví dụ: Bài: Số 6, trang 26 Bước 1: Nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung bài học để đưa ra các hình thức dạy: Phần bài cũ, phần bài mới, phần luyện tập, phần củng cố Bước 2: Tiến hành soạn giáo án (lưu ý bài soạn không quá màu mè, nên hướng sự chú ý của học sinh vào nội dung chính trong bài, hiệu ứng đơn giản, không rườm rà, mất thời gian) Bước 3: Chuẩn bị máy chiếu, màn chiếu, loa các thiết bị phục vụ cho việc dạy. Bước 4: Tiến hành dạy theo ý tưởng bài soạn (Cần lồng ghép một trò chơi học tập ở phần củng cố hoặc phần bài cũ để tạo không khi sôi nổi cho tiết học) Bước 5: Kiểm tra việc nắm kiến thức của học sinh, tổng kết, rút kinh nghiệm cho bài sau. Thông qua bài dạy học sinh định hình được số 6 thông qua số lượng và hình ảnh trực quan ma các em được nhìn thấy rõ (có 6 bạn, 6 con bướm, 6 chùm nho, 6 bít chì,) + Đối với các bài liên quan đến phép cộng, trừ các số tự nhiên. Ví dụ: Bài Phép cộng trong phạm vi 9 Giáo viên cũng chuẩn bị theo 5 bước như trên, nhưng trong quá trình dạy giáo viên cần sử dụng các thao tác trên máy thành thạo, nhuần nhuyễn để khỏi gián đoạn quá trình tư duy của học sinh. * Áp dụng các trò chơi học tập vào các tiết học Trong quá trình dạy học môn Toán, việc sử dụng trò chơi toán học có nhiều tác dụng như : - Giúp học sinh thay đổi loại hình hoạt động trong giờ học, làm cho giờ học bớt căng thẳng, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu. Học sinh tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng, tạo hứng thú học tập. - Kích thích sự tìm tòi, tạo cơ hội để học sinh tự thể hiện mình. - Thông qua trò chơi, học sinh vận dụng kiến thức năng nổ, hoạt bát, kích thích trí tưởng tượng, trí nhớ. Từ đó phát triển tư duy mềm dẻo, học tập cách xử lý thông minh trong những tình huống phức tạp, tăng cường khả năng vận dụng trong cuộc sống. Khi dạy học môn Toán, tôi thường áp dụng trò chơi vào phần khởi động hoặc phần củng cố của tiết học. Dưới đây là một số trò chơi mà tôi thường áp dụng: + Trò chơi: Đoàn kết - Mục đích: Rèn kĩ năng tính nhẩm nhanh, thích hợp với những bài dạy phép cộng, trừ các số trong phạm vi 10. - Thời gian: 5 – 7 phút - Cách chơi: Tôi hô: “Đoàn kết- Đoàn kết”, học sinh hỏi “Kết mấy ? – Kết mấy ?” Tôi hô: “Kết 2 + 4” , 1 + 7, 9 - 5 , Học sinh phải nhẩm nhanh kết quả để kết thành nhóm theo yêu cầu. Kết thúc cuộc chơi, ai nhanh thì được tuyên dương, ai chậm thì bị phạt theo yêu cầu của lớp. Trò chơi này tôi dùng vào những tháng đầu của học kì I, sau một thời gian áp dụng tôi thấy tiết học hiệu quả hơn, một số em thiếu tự tin, ít chú ý trở nên nhanh nhẹn và chủ động hơn. + Trò chơi: Truyền điện - Mục đích: Củng cố bảng cộng, trừ trong phạm vi 10, 20 (trang 90 SGK Toán 1) - Thời gian: 5 – 7 phút - Cách chơi: Lớp chia thành 2 đội để thi đua. Tôi sẽ “châm ngòi” đầu tiên, cô đọc một phép tính chẳng hạn: 9 + 6 rồi chỉ vào một em thuộc một trong 2 đội, em đó phải bật ngay ra kết quả. Nếu kết quả đúng thì em đó có quyền “xì điện” một bạn thuộc đội đối phương. Em sẽ đọc bất kì phép tính nào, ví dụ 5 + 8 và chỉ vào một bạn (ở bên kia) bạn đó lập tức phải có ngay kết quả là 13, rồi lại “xì điện” trả lại đội ban đầu. Cứ như thế cô cùng 2 thư ký ghi kết quả của mỗi đội. Hết thời gian chơi đội nào có nhiều bạn đọc kết quả đúng thì đội đó chiến thắng. Nếu một học sinh nào đó trả lời chưa chính xác sẽ bị “giật”, lúc này bạn lúc đầu đặt câu hỏi sẽ “xì điện” bạn khác. Kết thúc trò chơi bạn không trả lời được sẽ bị phạt. Đây là một hình thức ôn tập rất hiệu quả, phù hợp với những bài luyện tập. + Trò chơi: Giành cờ chiến thắng - Mục đích : Củng cố khái niệm thêm và bớt một số đơn vị, luyện cách xử lý linh hoạt. Ví dụ bài: Luyện tập, trang 88 SGK Chuẩn bị chơi: Tôi chuẩn bị hai phiếu học tập có thể có nội dung như sau: 10 -7 +2 -3 +8 Chia lớp thành hai đội chơi, mội đội cầm một lá cờ, gồm 3 em chơi tiếp sức điền kết quả vào các hình tròn, đội nào cắm được lá cờ lên trước đội đó chiến thắng. +Trò chơi: Hái hoa - Mục đích: Củng cố cách nhận biết về hình học đơn giản, áp dụng đối với bài: Hình vuông, hình tròn, hình tam giác - Thời gian: Từ 3 – 5 phút - Chuẩn bị: Giáo viên vẽ các hình tròn, hình tam giác, hình vuông lên các bông hoa có gắn nam châm, sau đó gắn lên bảng lớp. - Cách chơi: Mỗi lần gọi 2 bạn lên bảng, yêu câu hái những bông hoa chứa hình cô giáo yêu cầu, bạn nào hái được nhiều bông hoa nhất sẽ được tuyên dương. * Sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học Mỗi bài học khác nhau thì yêu cầu về đồ dùng dạy học là khác nhau vì thế việc lựa chọn đồ dùng dạy học phù hợp với mục tiêu của từng tiết học là rất quan trọng. Đối với môn Toán thông thường đồ dùng dạy học cần chuẩn bị gồm: Que tính, thước kẻ, phấn màu, bảng con, thẻ chữ, phiếu bài tập, + Que tính: Đây là đồ dùng không thể thiếu đối với học sinh lớp 1, tôi thường dùng để hình thành kiến thức mới trong các bài phép cộng, phép trừ trong phạm vi 10, 20, 100. Khi dạy tôi thường dùng que tính để thao tác mẫu trước lớp giúp học sinh dễ quan sát sau đó thực hành lại. Việc làm này giúp các em ghi nhớ nhanh và lâu hơn. + Thước kẻ: Được sử dụng để dạy các bài: Điểm, đoạn thẳng; Độ dài đoạn thẳng; Thực hành đo độ dài + Phấn màu: Được dùng để ghi tên bài học và những điểm cần chú ý nhằm làm nổi bật phần kiến thức chính của bài, giúp học sinh tập trung hơn. Tuy nhiên cũng không nên lạm dụng phấn màu vì sẽ làm phân tán sự chú ý của học sinh vào nội dung chính của bài học. + Bảng con: Được dùng để học sinh thực hành viết số, thực hiện phép tính. Bảng con là một đồ dùng cần thiết để kiểm tra việc ghi nhớ bài học của học sinh thông qua việc kiểm tra bài cũ. Tôi thường tổ chức các trò chơi học tập với bảng con như: Thi làm toán nhanh, Rung chuông vàng... vào phần củng cố sau mỗi tiết học. + Phiếu bài tập: Tùy vào yêu cầu của mỗi bài, để phát huy trí lực và khắc sâu kiến thức cơ bản cho học sinh tôi đã chọn một số bài tập ghi vào phiếu học tập cho học sinh điền để tiết kiệm thời gian và tăng sự chủ động cho học sinh. Ví dụ: Bài Các số có hai chữ số (tiếp theo) trang 138 Ở bài tập 4, để tiết kiệm thời gian tôi ghi nội dung bài tập vào phiếu và phát cho từng nhóm bàn để học sinh cùng làm, sau đó chữa bài. Đúng ghi Đ, sai ghi S a) Ba mươi sáu viết là 306 b) 54 gồm 4 chục và 4 đơn vị Ba mươi sáu viết là 36 54 gồm 5 và 4 * Sử dụng phương pháp noi gương Một trong các phương pháp giúp trẻ học tốt đó chính là phương pháp nêu gương. Học sinh lớp 1 rất thích được khen, vì vậy khi các em đạt được thành tích gì dù là nhỏ thì giáo viên cũng phải biết để động viên, khuyến khích học sinh kịp thời. Trong quá trình dạy toán, nếu thấy học sinh nào có tiến bộ, tôi thường tuyên dương các em trước lớp trong giờ học đó để các em phấn khởi và có động lực học tập tốt hơn. Ví dụ: Một em học sinh hôm nay có sự tiến bộ, tôi sẽ khen ngợi em đó trước lớp “Bạn Nam hôm nay làm toán nhanh và chính xác hơn hôm qua, bạn Nam thật đáng khen” và đề nghị các em noi gương của bạn nhé. * Đổi mới về cách kiểm tra, đánh giá học sinh Đánh giá kết quả học tập của học sinh không chỉ có giáo viên là người “ Cầm cân nảy mực” mà nên cho học sinh tham gia vào việc đánh giá kết quả học tập của bạn cũng như của bản thân mình. Tôi thường tổ chức cho học sinh đổi chéo vở kiểm tra lẫn nhau, đối chiếu bài cô, tự chấm bài cho mình. Cô là người hướng dẫn và có nhận xét, kết luận chung. Ví dụ: + Khi học sinh hoàn thành tốt bài tập, tôi nhận xét như sau: “Hiểu và làm đúng bài tập, trình bày rõ ràng, em thật đáng khen !” + Khi học sinh hoàn thành bài tập nhưng trình bày chưa đẹp tôi có thể nhận xét: “Em làm đúng bài tập, nhưng em nên trình bày sạch sẽ và cẩn thận hơn” + Khi học sinh chưa hoàn thành bài tập, hoặc làm sai nhiều, có thể nhận xét: “Em chưa hoàn thành bài, em cần cố gắng nhiều hơn nữa” Trong quá trình dạy, tôi luôn kiểm tra, theo dõi, giám sát tiến trình hoạt động, kết quả của các hoạt động của từng học sinh để có sự động viên khuyến khích hay giúp đỡ kịp thời. b. 2. Đầu tư nội dung và phương pháp dạy học phù hợp cho tiết ôn luyện Phân hóa đối tượng học sinh, lựa chọn nội dung ôn luyện phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tiến hành chọn bài để ôn luyện. Nội dung ôn luyện không quá cao, không có kiến thức mới chưa học, tránh việc quá tải cho học sinh. Ví dụ: Ôn luyện: Giải toán có lời văn (tiếp theo) trang 148 Bước 1: Xác định mục tiêu bài học: Củng cố kĩ năng giải toán có lời văn Bước 2: Lựa chọn nội dung bài học: Ôn luyện bài tập 1, 2, 3 Vở bài tập Bước 3: Soạn bài, chuẩn bị đồ dùng: Trong bài soạn thể hiện được với một nội dung bài tập nhưng có những yêu cầu khác nhau cho từng đối tượng học sinh khác nhau. Chẳng hạn: Bài tập 1: Dưới ao có 5 con vịt đang bơi, có thêm 5 con vịt nữa xuống ao. Hỏi có tất cả bao nhiêu con vịt dưới ao? + Đối với học sinh yếu và trung bình: Tôi yêu cầu các em đọc kĩ đề bài sau đó làm bài vào vở. Trước đó, tôi hướng dẫn các em bằng các câu hỏi gợi ý để các em nắm được cách giải toán. + Đối với học sinh khá: Tôi yêu cầu các em viết tóm tắt, sau đó dựa vào tóm tắt để nêu lại bài toán, rồi giải bài toán vào vở. + Đối với học sinh giỏi: Tôi yêu cầu các em nêu tóm tắt, giải bài toán và tìm lời giải khác lời giải đã làm hoặc nêu cách làm khác (nếu có). Việc dạy học phân hóa góp phần bồi dưỡng học sinh năng khiếu và giúp đỡ kịp thời những học sinh tiếp thu chậm, nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán. b.3. Nâng cao chất lượng dạy học môn Toán thông qua các hoạt động khác * Tổ chức “Đôi bạn cùng tiến” Trong giờ học tôi còn tổ chức lớp học thành các “ Đôi bạn cùng tiến” cụ thể: + Những học sinh tiếp thu bài nhanh, kĩ năng tính toán tốt sẽ giúp đỡ bạn tiếp thu chậm, hay làm sai (nếu ở gần nhà nhau càng tốt). + Một học sinh chăm học, chuyên cần giúp đỡ và nhắc nhở bạn lười học. Để việc thực hiện có hiệu quả, tôi chủ động xếp học sinh ngồi cùng một bàn để học sinh tự học hỏi lẫn nhau, việc tổ chức cho học sinh cùng nhau học hỏi, cùng nhau thi đua, rèn luyện đó là việc tốt nên làm. Sau từng tuần, từng tháng, tôi tổng kết, tuyên dương từng em, từng “Đôi bạn cùng giúp nhau tiến bộ” vào tiết sinh hoạt cuối tuần. Nhận xét mang tính khuyến khích, động viên các em là chính. * Tổ chức tốt các phong trào thi đua Để tạo không khí hào hứng thi đua học tập, tôi thường xuyên tổ chức các cuộc thi nhỏ như “Rung chuông vàng”, “Trạng nguyên nhỏ tuổi”, “Tiến sĩ nhí”vào các tiết sinh hoạt tập thể đầu tuần. Những bài toán hay, những cách tính nhanh, được nêu ra để các bạn
Tài liệu đính kèm: