SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Ngữ văn 9

SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Ngữ văn 9

Học sinh tiến hành báo cáo hoạt động trải nghiệm.

Sau quá trình chuẩn bị, thu thập và xử lý thông tin, hoặc tập luyện cho những nội dung mang tính kết hợp các thành viên trong nhóm, học sinh sẽ tham gia trực tiếp vào hoạt động. Toàn bộ ý tưởng, ý kiến của các em sẽ được chính các em chủ động trình bày, báo cáo.

Khi tham gia hoạt động TN - ST đòi hỏi học sinh phải huy động kiến thức, kĩ năng, các phẩm chất năng lực tổng hợp để giải quyết nhiệm vụ thực tiễn. Có nhiệm vụ của cá nhân, có nhiệm vụ đòi hỏi phải có sự hợp sức của cả nhóm. Các em phải bàn bạc, trao đổi, thống nhất, ra quyết định. Do vậy điều quan trọng với mỗi giáo viên là phải hướng dẫn các em các kĩ năng như: kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng lắng nghe và phản hồi tích cực, kĩ năng ghi chép, thu thâp xử lí thông tin, kĩ năng ra quyết định. Đồng thời xây dựng niềm tin đối với học sinh. Giáo viên chỉ có thể tin tưởng các em thì mới có thể giao việc cho các em. Và ngược lại, học sinh chỉ có tin yêu giáo viên, tin yêu bạn của mình mới có thể tự tin chia sẻ với chính giáo viên và bạn bè trong lớp nhưng suy nghĩ của mình.

 

doc 22 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 4261Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 gần hơn đến với những chân lí khoa học. 
Như vậy có thể thấy rằng: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được xem là một phần quan trong của việc đổi mới phương pháp dạy học. Kết quả hoạt động trải nghiệm của học sinh có thể được sử dụng để đánh giá kết quả quá trình học tập của học sinh.
Thực trạng.
1. Chương trình hoạt động TN- ST trong môn học Ngữ văn 9.
Trường THCS Lê Văn Tám nằm trên địa bàn xã Bình Hòa, huyện Krông Ana, tỉnh ĐăkLăk. Năm học 2018-2019, trường có tổng số 427 học sinh, định biên thành 12 lớp trong đó khối 9 có 3 lớp với tổng số 94 học sinh.
Những năm qua, dạy học hoạt động TN-ST đã được giáo viên áp dụng vào trong quá trình dạy học như một phần của nội dung chương trình giảng dạy nhất là đối với môn học Ngữ văn. Trong chương trình lớp 9 có 2 chủ đề hoạt động là:
Chủ đề 1: Phụ nữ xưa và nay.
Chủ đề 2: Người lính.
Giáo viên có thể lựa chọn một trong hai hình thức tổ chức các hoạt động là: Lồng ghép trong tiết học hoặc tổ chức dưới dạng một buổi sinh hoạt ngoại khóa. 
Thực trạng dạy học hoạt động TN-ST trong môn Ngữ văn 9 tại 
trường THCS Lê Văn Tám.
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rằng việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo có những thuận lợi và khó khăn như sau:
Thuận lợi: 
Các chủ đề hoạt động đã được quy định trong phân phối chương trình là cơ sở để giáo viên dạy học hoạt động TN- ST bám sát chương trình giảng dạy.
Hoạt động giảng dạy trong nhà trường luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo, sự chỉ đạo trực tiếp từ bộ phận chuyên môn, sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức trong nhà trường. Giáo viên đã rất tích cực trong việc hướng dẫn học sinh tham gia hoạt động trải nghiệm.
Khó khăn: 
Về cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều thiếu thốn: Chưa có Hội trường và sân khấu nên mỗi khi tổ chức hoạt động tập thể phải tận dụng không gian, sân khấu ngoài trời.
Việc dạy học hoạt động trải nghiệm sáng tạo còn chủ yếu dựa vào khâu tổ chức của giáo viên ở trên lớp, chủ yếu các em trải nghiệm là thông qua việc tìm hiểu thông tin và báo cáo nội dung hiểu biết, thực tế hoạt động TN-ST còn nặng về lý thuyết.
Đối với học sinh, các em là học sinh nông thôn nên việc được tham gia hoặc chứng kiến các hoạt động của địa phương liên quan đến chủ đề người lính hay người phụ nữ là tương đối hạn chế. Ở địa phương không có cở sở hay địa điểm nào để đáp ứng nhu cầu về trải nghiệm tham quan điều này cũng gây nên nên hạn chế cho các em khi tìm hiểu học tập, trải nghiệm về hai chủ đề nói trên.
Việc hướng dẫn học sinh ở một số giáo viên còn mang tính chủ quan, một chiều – tức là giáo viên giao nhiệm vụ và học sinh thực hiện rồi báo cáo, làm như vậy chưa thực sự phát huy được tiềm năng sáng tạo của học sinh. Chưa tạo cho các em nhận thức về hoạt động TN-ST là một nhu cầu của cuộc sống, giáo viên chưa bám sát được học sinh, không nắm bắt hết được những khó khăn vướng mắc của học sinh để giúp các em tháo gỡ. Một số học sinh cũng chưa nhận thức đầy đủ được những yêu cầu cụ thể của hoạt động như: Hoạt động này để làm gì? Cần phải đạt được gì? Vì vậy mà một số em không thực sự hào hứng tham gia, nhiều khi không hoàn thành được nhiệm vụ của cá nhân.
Để làm rõ hơn về những tồn tại và hạn chế của vấn đề này, ngay từ đầu năm, tôi đã thực hiện một khảo sát đối với 94 em học sinh lớp 9 trong năm học 2018-2019 với nội dung và kết quả như sau: 
Câu hỏi 1. Em có thích học môn Ngữ văn không? Vì sao?
Câu hỏi 2. Em thấy hoạt động TN-ST trong dạy học Ngữ văn có cần thiết không?
Câu hỏi 3. Em có hứng thú khi tham gia các hoạt động trải nghiệm trong môn Ngữ văn không?
Kết quả khảo sát cho thấy vẫn có khoảng 20% học sinh không thích học bộ môn Ngữ văn vì cho rằng đây là môn học có khối lượng kiến thức nhiều, bài học văn bản dài nên khó nhớ. Điều này cho thấy rằng học sinh vẫn cảm nhận việc học và tiếp thức kiến thức trên lớp có phần khó khăn. Tuy nhiên 95% học sinh lại rất đồng tình và hứng thú với việc tham gia hoạt động trải nghiệm nhất là trải nghiệm theo hình thức hội thi hoặc tham quan, dã ngoại... 
Cũng từ kết quả khảo sát cho thấy đa số học sinh thích tham gia các hoạt động TNST , hoạt động ngoại khóa trong khi học môn Ngữ văn song việc các em tham gia chưa được chủ động và tích cực. Nếu xét về tâm lí học sinh thì thấy một thực tế là học sinh thích những tiết học này vì được vui chơi, được tự do hơn so với những bài học trên lớp.
Nguyên nhân: 
- Một số học sinh không thích học môn Ngữ văn vì các em cho rằng bài học dài, kiến thức nhiều khó nhớ. Một số học sinh khi có học lực yếu bộ môn này thường tỏ ra nhút nhát, thếu tự tin khi phải thể hiện mình trước số đông. Hoặc là các em chưa được tạo cơ hội để thể hiện mình trước tập thể: ví dụ có em kể chuyện không hay nhưng lại hát rất tốt; có em lực học tốt song thể hiện ý kiến trước tập thể lại tỏ ra nhút nhát, nếu trong quá trình giảng dạy giáo viên chỉ đánh giá về năng lực học tiếp thu kiến thức thì dễ làm cho học sinh bị nản chí vì luôn thấy mình “không bằng ai”, từ đó tạo nên thói quen ỉ lại, dựa dẫm người khác.
- Phần vì của hoạt động rộng, yêu cầu hướng dẫn học sinh phải tỉ mỉ, phần vì cơ sở vật chất và điều kiện của đơn vị còn thiểu thốn nên giáo viên chưa thực sự nhiệt trình hướng dẫn học sinh thực hiện các chủ đề trải nghiệm.
Thực trạng trên đặt ra vấn đề: Làm thế nào để tổ chức và hướng dẫn cho HS tham gia hoạt động TN-ST một cách có hiệu quả, phát huy được năng lực sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập, làm cho bộ môn Ngữ văn trở nên gần gũi và nhẹ nhàng hơn với học sinh.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
Dạy học định hướng phát triển năng lực ở học sinh thì giáo viên cần phải nhận biết được khả năng, năng lực của học sinh thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau. Có học sinh thì kể chuyện hay; có học sinh viết văn hay; có học sinh diễn kịch tốt, có em mạnh dạn nhưng có em nhút nhát..vv.. trong dạy học giáo viên cần phải kích thích được học sinh để các em có thể tham gia trải nghiệm một cách chủ động, nhiệt tình. 
Từ thực tế giảng dạy, trên cơ sở đánh giá những nội dung và kết quả tổ chức triển khai các hoạt động TN-ST trong những năm học trước, hướng đến những điều chỉnh tích cực đổi mới phương pháp dạy học tôi đã tiến hành những biện pháp sau đây:
Biện pháp 1. 
Giúp học sinh nhận thức đầy đủ về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong học tập môn Ngữ văn 9. 
Ngay từ đầu năm học giáo viên phải định hướng cho học sinh hiểu rõ được Thế nào là hoạt động trải nghiệm sáng tạo? Tham gia hoạt động để làm gì? Học sinh phải làm gì trong mỗi hoạt động đó?... 
Đồng thời để kích thích các em sự tò mò, hào hứng tham gia các hoạt động giáo viên cần phải hướng dẫn giúp các em có được cái nhìn tổng thể về những yêu cầu cho mỗi hoạt động theo chủ đề hoặc yêu cầu về hoạt động trải nghiệm cho mỗi bài học.
Đối với chủ đề hoạt động trải nghiệm “Phụ nữ xưa và nay” được triển khai từ khi học xong tiết 41 và học sinh báo cáo kết quả sau khi học tiết 57. Yêu cầu học sinh phải có được những cảm về những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua từng thời kỳ: trong thời kỳ đất nước còn chế độ phong kiến và trong thời kỳ ngày nay. Qua các văn bản đã được học gồm: “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ; “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; truyện “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” của Nguyễn Đình Chiểu, học sinh cần thể hiện được những cảm nhận của bản thân về người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ. Từ nhừng hiểu biết và liên hệ ở với vẻ đẹp của người phụ nữ trong thời đại ngày nay. Kết quả của hoạt động học sinh phải thể hiện bằng một “sản phẩm” cụ thể mang dấu ấn cá nhân, thể hiện quan điểm riêng của bản thân. Học sinh cần kết hợp những kiến thức hiểu biết đã được tìm hiểu ở chương trinh đã học ở các lớp 6;7;8. 
Với chủ đề hoạt động trải nghiệm về “Người lính”, chủ đề này được triển khai từ khi học xong tiết 58 và học sinh báo cáo kết quả sau khi học tiết 72. Thông qua kiến thức của các bài học gồm: “Đồng chí” của Chính Hữu; “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật”; “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, học sinh tham gia hoạt động trải nghiệm bằng những hình thức khác nhau như: tham quan những di tích lịch sử; gặp gỡ trực tiếp với các cựu chiến binh hay nghe kể chuyện về hay thể hiện tình cảm của mình với những người lính, người chiến sĩ cách mạng trong từng thời kì lịch sử thông qua những bài hát, những câu chuyện kể .vv.. 
Trong bộ môn Ngữ văn, khi tiếp cận với một tác phẩm văn học, học sinh có thể có những cách nhìn khác nhau, tuy nhiên giáo viên là người định hướng cho các em thể hiện quan điểm mang tính nhân văn. Học sinh là chủ thể của hoạt động TN-ST, các em cần thể hiện quan điểm, ý kiến của cá nhân, của nhóm đối với những vấn đề liên quan đến bài học. Kết quả hoạt động của học sinh phải được thể hiện thành “sản phẩm” mang dấu ấn của cá nhân.
Cũng cần định hình cho học sinh thấy được hình thức tổ chứchoạt động trải nghiệm sáng tạo sẽ được tiến hành. Đối với trường Lê Văn Tám, do đặc điểm của địa phương và tình hình thực tế của nhà trường, giáo viên có thể chọn một số hình thức hoạt động trải nghiệm như: Hội thi; Tham quan thực địa; 
Biện pháp 2. 
Giúp giáo viên bộ môn nâng cao chất lượng trong việc xây dựng kế hoạch, thiết kế chương trình cho mỗi hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Có thể nói vai trò của người giáo viên được xem là một tổng đạo diễn. Để chuẩn bị cho mỗi hoạt động cần phải tiến hành xây dựng kế hoạch chi tiết để hướng dẫn cho học sinh tham gia hoạt động theo một kịch bản nhất định. Các nội dung trải nghiệm cần phải phù hợp với chủ đề, đúng quan điểm đường lối giáo dục.
Kế hoạch cho một chủ đề hoạt động trải nghiệm cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Đáp ứng đúng nhu cầu tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Đặt tên cho hoạt động
Xác định mục tiêu của hoạt động TNST
Xác định nội dung và phương pháp, phương tiện, hình thức của hoạt động
Lập kế hoạch
Thiết kế chi tiết hoạt động trên bản giấy.
Kiểm tra, điều chỉnh và hoàn thiện chương trình hoạt động
Kế hoạch tổng thể này cần xác định cụ thể về nội dung và hình thức tổ chức hoạt động (tham khảo phụ lục 1)
Người giáo viên bộ môn xây dựng kế hoạch chi tiết có sự tham khảo ý kiến của nhóm giáo viên cùng bộ môn. Kế hoạch này phải được thông qua tổ chuyên môn góp ý và duyệt trước khi thực hiện.
Biện pháp 3. 
Giúp học sinh trở thành chủ thể của hoạt động.
Hoạt động TN-ST là hoạt động mà chính học sinh là chủ thể, vì vậy giáo viên tuyệt đói không được làm thay các em. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn.
Ngay từ đầu năm học, giáo viên cần định hình cho học sinh thấy được nhiệm vụ sắp tới là có những hoạt động trải nghiệm nào. Các em nhận thức được nhiệm vụ trước mắt và phấn đấu để hướng tới. Hai chủ đề hoạt động trải nghiệm trong chương trình Ngữ văn 9 đều được thực hiện trong học kì I nên việc định hướng cho học sinh phải được tiến hành từ đầu năm, giúp các em có ý tưởng sáng tạo và ý thức tích lũy kiến thức cho mỗi hoạt động. Giáo viên nên hướng cho học sinh lựa chọn nội dung thực hiện trong cả học kì dựa vào điều kiện, khả năng của bản thân, của lớp, của nhà trường, của địa phương có thể tổ chức được. Việc này sẽ tạo tâm thế sẵn sàng thực hiện cho học sinh.  
Để thực hiện nội dung này cần làm tốt các bước sau:
Bước 1. Lập nhóm học sinh.
Nội dung của một hoạt động có thể rất phong phú và nhiệm vụ của mỗi nhóm có thể cũng khác nhau, vì vậy khi lập nhóm học sinh giáo viên cần phải dựa vào một số tiêu chí như: nhóm theo sở trường; nhóm theo năng lực các nhân..vv và phải phát huy vai trò của ban cán sự lớp trong việc lập nhóm.
Để có được một nhóm tối ưu giáo viên cần chú ý những nội dung sau:
Mục đích: Hoạt động này hướng đến trải nghiệm học tập nào?
Thời lượng: Hoạt động nhóm này diễn ra trong bao lâu?
Đặc điểm học sinh: Những đặc điểm nào ảnh hưởng đến nhiệm vụ hoặc 
trải nghiệm học tập này?
Thành phần tham gia: Nhóm gồm các học sinh có đặc điểm giống nhau 
hay không giống nhau?
Hình thức tổ chức / Quy mô: Hình thức tổ chức nào phù hợp nhất với hoạt 
động học tập? Quy mô như nào thì đạt được mục đích?
Cách thức tiến hành: Các nhóm sẽ được tiến hành như thế nào?
Nhóm tối ưu là nhóm có khả năng kết hợp và hỗ trợ tốt cho nhau trong quá trình làm việc. Mỗi thành viên có ý thức trách nhiệm và hoàn thành tốt phần nhiệm vụ của mình giúp nhóm dễ đạt được mục tiêu của hoạt động. (Tham khảo phụ lục 2)
Bước 2. Hướng dẫn nhóm học sinh xây dựng kế hoạch.
Kế hoạch của nhóm là một phần cụ thể hóa kế hoạch tổng thể của giáo viên.
Giáo viên tránh làm thay, làm hộ học sinh. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người tư vấn giúp đỡ. Làm như vậy các em mới có cơ hội bộc lộ khả năng của bản thân, rèn luyện các phẩm chất, năng lực cần thiết. 
Học sinh phải định hình những công việc cần làm làm là gì? Tổ chức ở đâu ? Những ai thực hiện ? Cần có sự giúp đỡ của ai ở trong hoặc ngoài nhà trường ? Cần những gì về cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng để thực hiện? Các em vừa là người thu thập và xử lý thông tin, phân tích tình hình và tổ chức lớp để bàn bạc đi đến thống nhất nội dung công việc cần làm. Ở bước này giáo viên cần phải tư vấn hướng dẫn chi tiết cho mỗi nhóm, giúp các em nhận thấy được mục tiêu và cần đạt được sau khi kết thúc hoạt động.
Bước 3.Tổng duyệt chương trình
Sau khi hướng dẫn và góp ý cho các nhóm, mõi nhóm học sinh sẽ chọn nội dung và phương pháp thực hiện hoạt động của nhóm mình, kế hoạch này được xem là “kế hoạch con” của chủ đề hoạt động trải nghiệm. Vì vậy kế hoạch của các nhóm được kết nối với nhau phải có sự thống nhất, có tính khái quát làm toát lên nội dung chủ đề của hoạt động.
Giáo viên bộ môn là người tổng duyệt chương trình của các nhóm và để hoạt động diễn ra theo đúng kế hoạch cần có sự thống nhất ý kiến của tổ chuyên môn. 
Bước 4. Học sinh tiến hành báo cáo hoạt động trải nghiệm. 
Sau quá trình chuẩn bị, thu thập và xử lý thông tin, hoặc tập luyện cho những nội dung mang tính kết hợp các thành viên trong nhóm, học sinh sẽ tham gia trực tiếp vào hoạt động. Toàn bộ ý tưởng, ý kiến của các em sẽ được chính các em chủ động trình bày, báo cáo. 
Khi tham gia hoạt động TN - ST đòi hỏi học sinh phải huy động kiến thức, kĩ năng, các phẩm chất năng lực tổng hợp để giải quyết nhiệm vụ thực tiễn. Có nhiệm vụ của cá nhân, có nhiệm vụ đòi hỏi phải có sự hợp sức của cả nhóm. Các em phải bàn bạc, trao đổi, thống nhất, ra quyết định. Do vậy điều quan trọng với mỗi giáo viên là phải hướng dẫn các em các kĩ năng như: kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng lắng nghe và phản hồi tích cực, kĩ năng ghi chép, thu thâp xử lí thông tin, kĩ năng ra quyết định. Đồng thời xây dựng niềm tin đối với học sinh. Giáo viên chỉ có thể tin tưởng các em thì mới có thể giao việc cho các em. Và ngược lại, học sinh chỉ có tin yêu giáo viên, tin yêu bạn của mình mới có thể tự tin chia sẻ với chính giáo viên và bạn bè trong lớp nhưng suy nghĩ của mình..
Bước 5. Học sinh tự dánh giá.
Đây là bước cuối cùng của hoạt động, học sinh tự đánh giá lại quá trình hoạt động. Nội dung đánh giá phải được tổng hợp lại từ việc xây dựng ý tưởng đến tất cả các bước tổ chức thực hiện; kết quả công việc và ý nghĩa của nó; những bài học kinh nghiệm về mọi mặt.  Thông qua đây, giúp học sinh sẽ có khả năng tư duy sâu hơn; việc giao tiếp được mạnh dạn, tự tin; ý thức trách nhiệm của các em được bộc lộ.
Dưới đây là phần thiết kế cho hoạt động TN- ST chủ đề Người lính.
Hoạt động TN-ST chủ đề: NGƯỜI LÍNH
Hình thức hoạt động: Ngoại khóa: Hội thi và trình diễn 
1. Mục tiêu hoạt động 
- Về kiến thức: Giúp học sinh:
+ Nắm vững được bản chất, đặc điểm, vai trò của nội dung chủ đề học trải nghiệm.
+ Giúp học sinh cảm nhận vẻ đẹp về hình ảnh người lính được khắc họa trong các tác phẩm mà các em đã được học, được đọc, được xem.
- Về kĩ năng:
+ Học sinh thể hiện được kĩ năng diễn xuất, biểu diễn, thuyết trình, kĩ năng vẽ.
+ Biết vận dụng lí thuyết đã học vào thực hành.	
+ Biết vận dụng một cách sáng tạo kiến thức đã học để giải quyết các tình huống học tập và cuộc sống.
Tư tưởng, thái độ:
+ Giáo dục lòng biết ơn đối với những hi sinh của thế hệ cha anh.
+ Giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, ý chí quyết tâm xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
+ Có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân.
 - Năng lực 
+ Năng lực hợp tác nhóm
2. Chuẩn bị cho hoạt động
- Lực lượng tham gia: giáo viên, học sinh.
- Thời gian: 7 giờ 30 phút ngày 20/12/2018
- Không gian, địa điểm: tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm tại UBND xã Bình Hòa.
- Tài liệu được sử dụng trong quá trình tổ chức hoạt động học tập cho các chủ thể hoạt động: sách trải nghiệm sáng tạo GV - HS, các tư liệu trên các kênh thông tin.
- Chuẩn bị của GV: xây dựng kế hoạch tổng thể; hướng dẫn học sinh chuẩn bị các nội dung liên quan ch hoạt động trải nghiệm.
 	-HS về các phương tiện, tài liệu sử dụng trong quá trình tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm: giấy A3, máy chiếu, bút màu, một số tranh ảnh và các nguồn tư liệu tham khảo khác . 
3. Nội dung và phương pháp và tiến trình thực hiện tiết chuyên đề trải nghiệm
Nội dung: nhiệm vụ cho HS chuẩn bị cho chủ đề “ Người lính”
Thời gian chuẩn bị: 4 tuần
Phân công nhóm, tìm kiếm thông tin, chuẩn bị nội dung của từng nhóm cụ thể như sau:
Nhóm 1: Vẽ tranh, thuyết minh về người lính qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Nhóm 2: Thực hiện một số tiết mục văn nghệ hát - múa ca ngợi người lính.
Nhóm 3: Tiểu phẩm kịch: “Chiếc lược ngà” (chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn Quang Sáng)
Nhóm 4: Phim tư liệu tổng hợp: Người lính qua các thời kì và lồng thuyết minh.
Nhóm 5. Sưu tầm hình ảnh: Người lính trong lòng nhân dân. 
Phương pháp: 
- Học sinh xây dựng ý tưởng, lựa chọn nội dung phù hợp
- Học sinh thu thập và xử lí thông tin
- Tập luyện và hoàn thiện sản phẩm
- Học sinh báo cáo sản phẩm trải nghiệm 
Cách thức tiến hành:
 Học sinh tiến hành “báo cáo” các hoạt động đã chuẩn bị theo kịch bản một chương trình hội thi, trình diễn đan xen các tiết mục:
- Xem phim tư liệu. (Nhóm 4)
- Hát tốp ca “Lá xanh”. (Nhóm 2)
- Thuyết trình sản phẩm Kể chuyện theo tranh .(nhóm 1, nhóm 5)
- Đơn ca: “Nơi đảo xa” (nhóm 2) trình bày.
- Nhóm 3 thực hiện tiểu phẩm kịch “Chiếc lược ngà” 
- Múa: “Linh thiêng Việt Nam” (nhóm 2)
4. Đánh giá kết quả hoạt động 
	- Các nhóm nhận xét nhóm mình, đồng thời nhận xét góp ý cho kết quả của nhóm khác .
- Giáo viên đánh giá học sinh: Thông qua kết quả đánh giá của ban giám khảo và phần theo dõi các hoạt động, giáo viên bộ môn đưa ra những nhận xét khách quan về mức độ hoàn thành nhiệm vụ của mỗi nhóm, trên cơ sở đó đánh giá quá trình tham gia của học sinh. Lưu kết quả cho phần đánh giá chất lượng học tập bộ môn.
Như vậy toàn bộ quá trình hoạt động và đánh giá kết quả của nhóm được chính các em thực hiện. Việc đánh giá này không nặng về điểm số mà đánh giá về mức độ và khả năng tham gia, đống góp của mỗi thành viên. Có thể thấy rằng: Khi để cho các em chủ động trong các nhiệm vụ thì kết quả đạt được là khá cao, các em thể hiện được khả năng và sở trường của mình. Cũng từ đây mà học sinh nhận thấy vai trò, trách nhiệm của mình trong nhóm, trong lớp.
 IV. Tính mới của giải pháp.
Trên cơ sơ những nội dung và phương pháp đã được áp dụng trong những năm học trước, những giải pháp nêu ra trên đây có sự đổi mới nhiều hơn ở chỗ:
Phương pháp tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động TN-ST được thực hiện theo chủ đề ngoại khóa, tập trung. Với hình thức một cuộc thi, học sinh được chia thành các đội dự thi nên các em rất hào hứng tham gia vì sản phẩm của mỗi đội thi sẽ được thể hiện trước học sinh và giáo viên toàn trường.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Với cách thức tiến hành như trên, họat động này đã từng bước đi sâu và ý thức của học sinh, các em học sinh nhận thức được rằng: Hoạt động TN-ST là một phần thưởng mà các em được hưởng trong quá trình học tập. Vì vậy các em luôn trông chờ để được trực tiếp tham gia vào các hoạt động.
Cũng thông qua hoạt động này các em đã cảm nhận được sự nhẹ nhàng trong học tập. Tham gia một hoạt động mang tính ngoại khóa học sinh cảm thấy vui hơn, không bị gò bó. Trải nghiệm mang tính vừa học vừa chơi sẽ kích thích được học sinh trong quá trình học tập.
 Phần thứ ba: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Hoạt động học tập tr

Tài liệu đính kèm:

  • docCao Đình Cường.doc
  • doc_Bia_SKKN.doc