SKKN Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn chính tả - Lớp Năm

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn chính tả - Lớp Năm

Củng cố quy tắc chính tả cho học sinh:

 - Là giúp cho học sinh nắm vững các quy tắc chính tả.

 - Để khắc phục được tình trạng học sinh hay mắc lỗi chính tả thì giáo viên cần tập trung vào các loại bài chính tả phân biệt. Qua loại bài chính tả phân biệt này học sinh được ôn luyện nhiều lần, nắm chắc được các quy tắc chính tả, mẹo chính tả. Cũng qua bài chính tả so sánh này, học sinh nắm vững nghĩa của từng cách viết, từ đó hạn chế được các lỗi sai.

 Ví dụ: Khi dạy bài chính tả phân biệt dấu hỏi, dấu ngã.

 - Chúng ta cung cấp cho học sinh quy luật bổng trầm, hệ bổng gồm các thanh: ngang, hỏi, sắc; hệ trầm gồm các thanh: huyền, nặng, ngã.

 Do vậy khi gặp một tiếng mà ta không biết là thanh hỏi hay thanh ngã, ta tạo ra một từ láy. Nếu tiếng đó láy với tiếng bổng ta có thanh hỏi, nếu tiếng đó láy với tiếng trầm ta có thanh ngã.

 

doc 21 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 1937Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn chính tả - Lớp Năm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch phát âm ở những vùng miền có khác nhau (phương ngữ). Bên cạnh đó lại có trường hợp từ mang hai biến thể phát âm, khó có thể nói biến âm nào là chuẩn.
 Ví dụ: tròng trành - chòng chành ; lang thang – lan than; 
 sung sướng – xung xướng ; sum sê - xum xuê; 
 	tuyên truyền – tiên triền	 ; giường chiếu – dường chíu; 
 Hoặc có khi một cách phát âm nhưng lại có hai cách viết.
 / i /
 Ví dụ: i: trong lí luận, mĩ thuật, 
 y: trong Lý Thái Tổ, thư ký, 
 Bản thân hệ thống âm vị tiếng Việt còn có một số âm vị không ghi thống nhất, một âm có thể ghi bằng nhiều con chữ.
 Ví dụ: c: con cuốc
 / cờ / k: cái kim
 q: tổ quốc 
 	 Trước những khó khăn trên, việc xác định trọng điểm chính tả cần cho dạy học sinh vùng phương ngữ, một mặt phải coi trọng hệ thống âm chuẩn toàn dân, mặt khác phải tham khảo biến thể phát âm địa phương, đồng thời phải dùng nghĩa để sử dụng dựa vào các văn cảnh.
 2. Thực trạng của vấn đề:
 Dân tộc Việt Nam trải qua bốn nghìn năm văn hiến, đã tích lũy được một kho tàng tập quán văn học và văn hóa rất đa dạng, phong phú. Chữ viết (theo mẫu tự La tinh) của dân tộc ta tuy mới hình thành hơn một trăm năm nay, nhưng đã thành trụ cột then chốt của nền văn hóa nước nhà. Việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cả trong lời nói, lẫn chữ viết là việc làm hết sức cần thiết của tất cả mọi người dân Việt Nam.
 Thế nhưng hiện tượng viết sai chính tả đang là mối quan tâm của nhiều người, của cộng đồng xã hội. Việc viết sai chính tả xuất hiện ngày càng nhiều, không chỉ là học sinh Tiểu học, học sinh Trung học, sinh viên, đôi khi có cả một số giáo viên và những người thành đạt, và trên một số pa- nô, bảng hiệu, quảng cáo nữa,...
 Hiện nay đa số học sinh thường thích xem truyện tranh như: Đô-rê-mon, Co-nan, Thủy thủ Mặt trăng, Bảy viên ngọc rồng,  hơn là đọc sách, tạp chí văn học,  Việc không có thói quen, không có niềm đam mê đọc sách dẫn tới vốn từ ngữ nghèo nàn, ít ỏi. Người đọc sách nhiều sẽ có vốn từ càng nhiều thì ít khi viết sai chính tả.
 Thông thường môn chính tả mới có yêu cầu về viết đúng, viết đẹp. Còn lại một số môn học khác, giáo viên thường bỏ qua việc soát lỗi, thậm chí chỉ yêu cầu học sinh học thuộc, tính toán đúng. Hơn nữa bài vở thì nhiều, thời gian hạn hẹp, áp lực công việc khá lớn và giáo viên chưa quan tâm đúng mức, nên việc sửa lỗi chính tả cũng chưa toàn tâm, toàn ý, chưa có hiệu quả. 
 Mặc khác một bộ phận không nhỏ học sinh còn ham chơi lười học, không chịu suy nghĩ, tư duy trong việc nói và viết một cách chuẩn mực tiếng Việt (vì có bài mẫu, sách mẫu, học thêm )
 Từ những vấn đề nêu trên để hạn chế việc học sinh viết sai chính tả, tôi đã đi sâu về bộ môn này, nghiên cứu, suy nghĩ để tìm ra giải pháp giúp các em viết đúng chính tả. “Nét chữ là nết người” viết đúng chính tả thể hiện ý thức của người học sinh trong học tập đối với chữ viết - một thứ chữ gắn liền với nền văn hóa dân tộc, đồng thời thể hiện lòng tự tôn dân tộc đối với tiếng Việt. 
 Đầu năm học, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5B. Sau khi khảo sát chất lượng đầu năm, để nắm bắt tình hình học tập của các em, tôi đã lập bảng thống kê lấy điểm riêng về phân môn Chính tả, trong bài làm môn Tiếng Việt. Tôi đã rút ra được một số điều như sau:
 Một số em đã nắm bắt được phương pháp học theo mô hình trường học mới VNEN, theo mô hình học trong Tài liệu hướng dẫn học dưới sự hướng dẫn của thầy cô, bài làm của các em ít sai lỗi chính tả, chữ viết đẹp, rõ ràng, trình bày đúng văn bản. Nhưng số em này không nhiều (khoảng từ 35 đến 40%), chủ yếu là những em học giỏi môn Tiếng Việt.
 Còn hầu hết các em đều sai lỗi chính tả, có em thì viết sai ở âm đầu: s/x; d/gi; ch/tr;  Có em thì viết sai ở âm cuối: c/t; n/ng. Có em thì viết sai ở âm chính: iê/i ; yê/i. Có em thì viết tiếng có âm đệm trở thành tiếng không có âm đệm; nhiều em viết sai ở dấu thanh không phân biệt giữa dấu hỏi và dấu ngã; .
Qua khảo sát, tôi thống kê được tỉ lệ học sinh lớp 5B chất lượng phân môn chính tả như sau:
Tổng số
Kỹ năng nghe – viết tốt. Viết đúng tốc độ
Kỹ năng nghe – viết tốt. Viết chưa đúng tốc độ
Nghe – viết còn hay sai lỗi chính tả. Viết chưa đúng tốc độ
31
SL
TL
SL
TL
SL
TL
6
19,4%
15
48,4%
10
32,2%
Dựa vào những kết quả trên, tôi liền tiến hành vạch ra cho mình một kế hoạch để làm thế nào tỉ lệ học sinh viết sai lỗi chính tả ở điểm trung bình và yếu giảm đến mức tối thiểu. Một điều đáng mừng là học sinh tôi dạy 97,8% là học sinh dân tộc Kinh, 3,2% là học sinh dân tộc thiểu số 2/5 học sinh có giọng nói là giọng miền Trung, bản thân tôi cũng là người có giọng miền Trung, điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường cũng tạm ổn, trường có tổ chức dạy 2 buổi/ngày. Đó cũng là một yếu tố giúp tôi có thể thực hiện được nghiên cứu này.
 Song yếu tố quan trọng là làm thế nào để các em có thể nắm bắt được khi nào
các em viết sai chính tả.Tỉ lệ viết sai chính cũng tương đối nhiều mà tài liệu về môn Chính tả ở thư viện cũng hạn chế. Việc tiếp thu của các em cũng có phần hạn chế, các em cứ viết theo thói quen, đọc sao viết vậy, sửa rồi lại quên. 
 Qua trao đổi, dự giờ các đồng nghiệp cùng khối; thông qua việc nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt và kết quả khảo sát của học sinh, tôi nhận thấy tình trạng dạy và học chính tả hiện nay hiệu quả đạt chưa được cao, cụ thể là:
 - Kết quả khảo sát học tập của học sinh, các em còn mắc nhiều lỗi chính tả, tình trạng này có cả nguyên nhân ở nội dung và phương pháp dạy học của phân môn này.
 - Từ thực tiễn, tôi thấy giáo viên chuẩn bị bài giảng rất chu đáo, tận tâm giảng dạy tỉ mỉ cho học sinh cách viết từng chữ, từng câu nhưng cuối cùng vẫn có không ít học sinh viết sai, ngay cả những từ giáo viên mới vừa phân tích hướng dẫn xong.
 - Nguyên nhân dẫn đến cái sai là do một số học sinh đọc chậm, đọc ngắc ngứ, cách phát âm không chuẩn. Nói - đọc như thế nào thì viết như thế đó; học sinh phân biệt chưa rõ cách đọc nhất là “ tr ” và “ ch ”, “ s ” và “ x ”, “ gi - d ”,  thường hay lẫn lộn về sai thanh điệu do sự phát âm không phân biệt giữa thanh hỏi và thanh ngã, .
 - Một số học sinh ráp âm, ráp vần để tạo thành tiếng chưa thành thạo, nhất là đối với một số tiếng khó viết, ít gặp.
 Ví dụ: lấp loáng, suy thoái, gọn ghẽ, khoét, ngọ nguậy, ngoằn ngoèo, .
 - Phần lớn bị ảnh hưởng bởi môi trường sống nên các em chưa thật chú tâm đến học tập, tiếp thu kiến thức chậm, khó nhớ mau quên. Những kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết còn nhiều hạn chế.
 Trong quá trình giảng dạy và theo dõi chất lượng bộ môn, tôi thấy học sinh thường mắc phải hai loại chính tả như sau:
1. Sai về nguyên tắc chính tả hiện hành:
	 Là loại lỗi do người viết không nắm được các đặc điểm và nguyên tắc kết hợp các chữ cái, quy tắc viết hoa trong tiếng Việt
1.1. Đặc điểm chính tả Tiếng Việt:
	- Tiếng Việt là ngôn ngữ phân tiết tính: các âm tiết được tách bạch rõ ràng trong khi nói. Vì thế khi viết, các chữ biểu thị âm tiết được viết rời, cách biệt nhau.
	Ví dụ: Bầm ơi sớm sớm chiều chiều (6 âm tiết)
	 Thương con bầm chớ lo nhiều bầm nghe ( 8 âm tiết)
	- Mỗi âm tiết tiếng Việt đều mang một thanh điệu nhất định. Khi viết chữ phải đánh dấu ghi thanh điệu lên âm chính (hoặc bộ phận chính, đối với âm chính là nguyên âm đôi) của âm tiết.
	+ Cấu tạo âm tiết của tiếng Việt rất chặt chẽ và ổn định. Ở dạng đầy đủ, âm tiết tiếng Việt có cấu tạo như sau:
 THANH ĐIỆU
Phụ âm đầu
 VẦN
Âm đệm
Âm chính
Âm cuối
 	Trong đó, âm chính và thanh điệu là hai bộ phận không thể thiếu được 
trong cấu tạo của bất kỳ âm tiết nào.
	+ Cách xác định ký hiệu ghi âm chính trong chữ: Muốn xác định ký hiệu ghi âm chính trong chữ, ta đặt chữ vào mô hình cấu tạo vần.
 	Ví dụ:
Tiếng
Phụ âm đầu
 Vần
Thanh điệu
Âm
đệm
Âm
chính
 Âm cuối
Em 
yêu
màu
đen
Hòn 
than
óng
ánh
m
đ
H
th
e
yê
a
e
o
a
o
a
m
u
u
n
n
n
ng
nh
ngang
ngang
huyền
ngang
huyền
ngang
sắc
sắc
 + Khi viết một tiếng, dấu thanh luôn được đặt ở âm chính: dấu nặng đặt bên dưới âm chính, các dấu khác được đặt ở phía trên âm chính.
 Ví dụ: hình, phận, rộng, đúng, tìm, tạo, 
 + Khi viết các tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm cuối thì dấu thanh được đặt ở chữ cái đầu ghi nguyên âm.
 Ví dụ: mía, nghĩa, giữa, của, múa, lửa, 
 + Những tiếng có nguyên âm đôi mà có âm cuối thì dấu thanh được đặt ở chữ cái thứ hai ghi nguyên âm đôi.
 Ví dụ: biển, người, quốc, nước, luận, hoàng,  
	1.2 Quy tắc viết hoa hiện hành:
	- Tình trạng viết hoa trong chính tả hiện hành:
	+ Đánh dấu sự bắt đầu một câu.
	+ Ghi tên riêng của người, địa danh, tên cơ quan, tổ chức ...
	+ Biểu thị sự tôn kính: Bác Hồ, Người ...
 	 Hai chức năng a và c nhìn chung được thực hiện một cách nhất quán trong chính tả tiếng Việt. Duy có chức năng b là còn nhiều điểm chưa thống nhất trong sử dụng.
	Ví dụ: 
	Cùng một tên tổ chức, cơ quan cũng tồn tại những cách viết khác nhau:
	Trường tiểu học Lê Hồng Phong.
	Trường Tiểu học Lê Hồng Phong.
	- Quy định về cách viết hoa tên riêng: (của Bộ trưởng Bộ Giáo dục & đào tạo ban hành). đang áp dụng trong nhà trường.
	+ Đối với tên người và tên địa lý: viết hoa chữ cái đầu tất cả các tiếng tạo nên tên đó, không dùng gạch nối.	
	Ví dụ: Võ Thị Sáu, Hà Nội, Bình Trị Thiên, Bình Dương
 + Đối với tên người và tên địa lý nước ngoài: viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên riêng đó. Các tiếng trong một bộ phận của tên riêng được ngăn cách bằng dấu gạch nối.
 Ví dụ: Tên người: Ê-đi-xơn, Giu-li-ét-ta, Ét-man Hin-la-ro, 
 Tên địa lí: I-ta-li-a, Hi-ma-lay-a, Niu-di-lân, Ê-vơ-rét, 	
 + Đối với tên tổ chức, cơ quan, đơn vị được viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên đó.
 Ví dụ: Trường Tiểu học Lê Hồng Phong. Nhà xuất bản Giáo dục. 
 	2. Sai cách phát âm chuẩn:
 2.1. Lỗi viết sai thanh điệu: 
 Tiếng Việt có 6 thanh ( ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng ) thì nhiều học sinh không phân biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Số lượng tiếng mang 2 thanh này rất nhiều và rất khó nhớ - kể cả những người có trình độ văn hoá cao.
	Ví dụ: Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành, lẩn lộn,
 2.2 Lỗi viết sai phụ âm đầu:
 Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
 + c/k: Céo co	
 + g/gh: Con ghà , gê gớm	
 + ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc, nghành nghề
 + ch/tr: Cây che, chiến chanh
 + s/x: Cây xả , xa mạc
 2.3 Lỗi viết sai âm cuối, vần:
 Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
 + at/ac; ăt/ât/âc: mác mẻ, lường gạc, gặc lúa, nổi bậc, lấc phấc
 + an/ang; ân/âng: cây bàn, bàng bạc, khoai lan, hụt hẫn, tần lầu...
 + ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển
 Nguyên nhân chủ yếu viết sai:
 	* Lỗi khi viết về thanh điệu:
	Thực tế qua ngôn ngữ nói, trong phương ngữ từ khu vực miền Trung và miền Nam không có thanh ngã. Trong khi số lượng từ mang hai thanh này khá 
lớn. Do đó đây là lỗi rất phổ biến trong học sinh. 
	* Lỗi khi viết phụ âm đầu:
 	 Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/tr, d/gi, s/x. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: âm “cờ ” ghi bằng 3 chữ cái c / k /qu, âm “ngờ” ghi bằng ng/ngh, âm “gờ” ghi bằng g/gh) dù có những quy định riêng cho mỗi dạng khi ghép chữ, nhưng đối với học sinh tiểu học thì rất dễ lẫn lộn do không nhớ các quy định.
 	* Lỗi khi viết âm cuối, vần:
	Đối với người Miền Nam, có thể nói việc phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối n/ng và t/c. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt khác hai bán âm cuối i,u/ lại được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o (trong: sau/sao), do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh các tỉnh phía Nam.
 Tóm lại: Qua tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc viết sai lỗi chính tả của học sinh, vấn đề mà cả xã hội đang quan tâm, việc tìm ra các giải pháp phù hợp là hết sức cấp bách đối với những ai làm công tác giáo dục, 
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
 a. Mục tiêu của giải pháp:
 	Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy chính tả, tôi nhận thấy rằng nếu chỉ dùng tài liệu hướng dẫn học, thì chưa đáp ứng đầy đủ với các yêu cầu dạy cho học sinh học yếu chính tả ở tiểu học. Vì vậy, để khắc phục lỗi chính tả mà học sinh mắc phải, tôi đã nghiên cứu và vận dụng một vài biện pháp để giúp các em nắm được các quy tắc chính tả, các mẹo luật chính tả phù hợp với trình độ tiếp thu của các em, hình thành kĩ năng, kĩ xảo chính tả, bỏ thói quen phát âm sai dẫn đến việc viết sai. 
b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp:
 	Sau đây là một vài biện pháp mà tôi đã áp dụng trong những năm trực tiếp giảng dạy như sau: 
 	* Biện pháp 1: Củng cố quy tắc chính tả cho học sinh:
	- Là giúp cho học sinh nắm vững các quy tắc chính tả.
	- Để khắc phục được tình trạng học sinh hay mắc lỗi chính tả thì giáo viên cần tập trung vào các loại bài chính tả phân biệt. Qua loại bài chính tả phân biệt này học sinh được ôn luyện nhiều lần, nắm chắc được các quy tắc chính tả, mẹo chính tả. Cũng qua bài chính tả so sánh này, học sinh nắm vững nghĩa của từng cách viết, từ đó hạn chế được các lỗi sai.
	Ví dụ: Khi dạy bài chính tả phân biệt dấu hỏi, dấu ngã.
	- Chúng ta cung cấp cho học sinh quy luật bổng trầm, hệ bổng gồm các thanh: ngang, hỏi, sắc; hệ trầm gồm các thanh: huyền, nặng, ngã.
	Do vậy khi gặp một tiếng mà ta không biết là thanh hỏi hay thanh ngã, ta tạo ra một từ láy. Nếu tiếng đó láy với tiếng bổng ta có thanh hỏi, nếu tiếng đó láy với tiếng trầm ta có thanh ngã.
 Ví dụ: Mở (trong mở mang) -Thanh hỏi; Nghỉ (nghỉ ngơi) - Thanh hỏi 
 Mỡ (trong mỡ màng) -Thanh ngã; Nghĩ (nghĩ ngợi) - Thanh ngã
	Ngoài ra ta cho học sinh hiểu nếu tạo ra một từ ngữ có ý nghĩa sẽ nắm được nghĩa và hình thức chữ viết của từ. 
 	Ví dụ: Deo dai, em thử điền dấu hỏi sẽ thành Dẻo dai. Dẻo dai là từ có nghĩa chỉ sự bền bỉ không giảm của sức lực, vậy ta điền dấu hỏi. Nếu điền dấu ngã sẽ thành Dẽo dai, dẽo dai không có nghĩa vậy không thể điền dấu ngã.
	- Đối với những từ Hán -Việt phát âm không phân biệt dấu hỏi, dấu ngã. Gặp những từ bắt đầu bằng một trong các phụ âm: m, n, nh, v, l, d, ng và ngh hãy nhớ câu: “ Mình Nên Nhớ Viết Là Dấu Ngã ” thì đánh dấu ngã.
	Ví dụ: Vĩ nhân, cần mẫn, nhã nhặn, lãnh đạm, vãng lai, phụ lão, dã man, ngôn ngữ, tín ngưỡng ... Trừ "ngải" trong "ngải cứu". Còn những từ bắt đầu bằng các phụ âm khác, hoặc không có phụ âm đầu thì đánh dấu hỏi.
	Ví dụ: đảo điên, tưởng tượng, kiểu cách , .
 Nhưng vẫn có một số trường hợp ngoại lệ vẫn viết bằng dấu ngã 
 Ví dụ: kỹ (kỹ thuật, kỹ xão), bãi (bãi bỏ, bãi khóa), 
 hữu (bằng hữu, hữu nghị), phẫu (phẫu thuật, giải phẫu ), 
 tiễn (tiễn đưa, tiễn biệt), 
 Khi dạy bài chính tả phân biệt k/q/c. Học sinh tự tìm ra những từ có âm đầu là k/q/c, từ các ví dụ cụ thể mà học sinh nắm lại quy tắc chính tả.
 * Chữ cái c: Luôn đứng trước các vần bắt đầu các nguyên âm : a, ă, à, o, ô, u, ư ...
	Ví dụ: Cần cù, còn, cặm cụi, cũng ...
 * Chữ cái k: Luôn đứng trước các vần bắt đầu bằng các nguyên âm : e, ê, i ...
	Ví dụ: Kính, kể, kèo ...
 * Chữ cái q: Luôn kết hợp với u thành qu (đọc là quờ). Qu luôn đứng trước hầu hết các nguyên âm (trừ các nguyên âm o, u, ư ).
	Ví dụ: Quan trọng, quanh quẩn.
 	Ngoài ra cần cung cấp cho học sinh một số mẹo luật chính tả.
	Ví dụ: Khi nào viết là da , khi nào viết là gia?
	 + Da: Chỉ lớp bao bên ngoài các loại động vật	
	 + Gia: Chỉ mối quan hệ dòng họ.
* Biện pháp 2: Yêu cầu học sinh tự phát hiện ra lỗi chính tả và tự sửa lỗi chính tả:
	- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh tự phát hiện ra những lỗi viết sai và tự bản thân các em sửa lỗi qua các hình thức khác nhau.
	- Giáo viên đọc lại bài văn hay khổ thơ mà trong đoạn bài yêu cầu học sinh viết cho học sinh soát lỗi.
	- Giáo viên chỉ ra cho học sinh thấy được các lỗi sai, từ đó học sinh có ý thức được các lỗi mà mình mắc phải, bằng cách viết lại các lỗi sai đó vào một quyển vở sửa lỗi, các lần sau mà gặp phải các lỗi này học sinh sẽ thận trọng hơn trong khi viết. Qua đó hình thành cho học sinh bản năng tự kiểm tra soát lỗi và có ý thức tự sửa.
	- Giáo viên cho học sinh phát hiện ra lỗi chính tả qua các dạng bài tập khác nhau. Ví dụ: Chép một đoạn bài có viết sai chính tả, yêu cầu học sinh viết lại cho đúng.
 	Ví dụ: Trong bài: “Kì diệu rừng xanh” nắng trưa đả rọi xuống đỉnh đầu mà rừng sâu vẫn ẫm lạnh, ánh nắng lọt qua lá trong xanh. Chúng tôi đi đến đâu, rừng rào rào chuyễn động đến đấy. Những con vượn bạt má ôm con gọn ghẻ chiền nhanh như tia chớp. 
 Qua bài viết trên giáo viên cho học sinh tự sửa lỗi chính tả, cụ thể là âm cuối t thành c, chiền thành chuyền, dấu hỏi viết dấu ngã, dấu ngã viết dấu hỏi.
 Từ những cách nêu trên giúp học sinh quen dần với cách phát hiện ra lỗi và tự sửa lỗi, dần dần học sinh sẽ nhớ cách viết đúng, thấy được các từ viết sai để tránh. 
 * Biện pháp 3: Giáo viên cần phải phát âm chuẩn và rèn cho học sinh kỹ năng đọc:
	Muốn cho học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ tiếng, đúng chuẩn, đồng thời luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm cuối. Việc rèn phát âm bắt đầu phải được thực hiện trong tiết Tập đọc và được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn
 	* Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh sửa lỗi thông qua môn học khác:
	- Thông qua phân môn luyện từ và câu, giúp cho học sinh hiểu được nghĩa của từ một cách chính xác.
	Ví dụ: đổ hay đỗ
	- Xe đổ: Xe bị lật nghiêng
	- Xe đỗ: Xe dừng lại không chạy nữa
 Ví dụ: vỏ hay võ .
 - Vỏ: bóc vỏ, vỏ chai
 - Võ: võ nghệ, võ vàng, vò võ
	- Qua phân môn luyện từ và câu giúp cho các em hiểu về câu, từ đó biết chấm câu, sau dấu chấm câu biết viết hoa chữ cái đầu câu, biết viết hoa các danh từ riêng.
 * Biện pháp 5: Tổ chức cho học sinh học theo tổ - nhóm:
	- Giáo viên cần tổ chức cho học sinh học theo tổ nhóm hoặc phân thành “đôi bạn cùng tiến” học tập để các em hướng dẫn lẫn nhau (giáo viên luôn nhắc nhở và kiểm tra các em đều phải có một quyển vở rèn chính tả).
	Ví dụ: Mỗi tuần sau tiết chính tả đến tiết học của những ngày tiếp theo các nhóm học tập hoặc đôi bạn học tập sẽ đọc trước phần viết đúng rồi đọc toàn bài viết. Qua đó học sinh đọc để hiểu được nội dung bài và nghĩa của từ cần ghi nhớ.
	Vậy trong một tiết các em đã được mắt nhìn, tay viết các chữ khó rất nhiều lần, từ đó hạn chế được các lỗi sai ở học sinh.
 	 c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp: 
 	 Những biện pháp trên thực hiện được là nhờ kinh nghiệm qua nhiều năm giảng dạy và công tác, qua sự trăn trở của bản thân, qua những kinh nghiệm đúc kết được trong những năm học Cao Đẳng Tiểu học và bằng sự nhiệt huyết và lương tâm nghề nghiệp.
 	 d. Mối quan hệ giữa các biện pháp, giải pháp:
 	Giữa 5 biện pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau. Các biện pháp được thực hiện từ việc giao việc ở nhà đến việc kiểm tra bài, thực hành trên lớp  Sự quan hệ mật thiết giữa cô giáo và học sinh trong việc rèn cách viết cách đọc. 
 4. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng:
 	 Trong quá trình giảng dạy, với việc áp dụng các biện pháp trên tôi nhận thấy học sinh có những tiến bộ rõ rệt trong việc nắm bắt các quy luật chính tả, đặc biệt là các tiếng có phụ âm gi/d, tr/ch, s/x và thanh hỏi, thanh ngã so với đầu năm tỉ lệ viết đúng đạt trên 85%. Ngoài ra, các em còn thể hiện sự viết đúng, viết đẹp trong bài chính tả nói riêng và các bài tập của môn học khác nói chung. 
 	Trong tiết học chính tả, không khí lớp học trở nên hào hứng, sôi nổi, các em học sinh không còn rụt rè e ngại mà đã có sự tự tin, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài.
 	 Kết quả này được thể hiện rõ trong các đợt kiểm tra định kì của môn chính tả trong lớp tôi giảng dạy như sau:
THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG CHÍNH TẢ HỌC KÌ I NĂM HỌC: 2017 - 2018 
Tổng số
Kỹ năng nghe – viết tốt. Viết đúng tốc độ
Kỹ năng nghe – viết tốt. Viết chưa đúng tốc độ
Nghe – viết còn hay sai lỗi chính tả. Viết chưa đúng tốc độ
31
SL
TL
SL
TL
SL
TL
Giữa HKI
6
19,4%
15
48,4%
10
32,2%
Cuối HKI
15
48,4%
14
45,2%
2
6,4%
Tuy việc giúp học sinh học tốt môn chính tả cần một quá trình lâu dài, xuyên suốt, song với kết quả đạt đượ

Tài liệu đính kèm:

  • docTHAILUAN_LHPHONG.doc