Phần I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trên đà phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đất
nước ta ngày càng phát triển sánh vai cùng với các nước khác trong khu vực và
trên thế giới thì điều đó phụ thuộc vào chúng ta và các thế hệ con em của chúng
ta. Tất cả những ai trong ngành giáo dục và những ai quan tâm đến sự nghiệp
giáo dục của con em mình đều mong mỏi cho con em mình tiếp nhận những
kiến thức sâu rộng của nền văn minh nhân loại và trở thành những con người có
trình độ học thức, có đức, có tài để phục vụ đất nước.
Bậc học đầu tiên các em được cắp sách đến toàn trường đó là bậc Tiểu
học. Bậc Tiểu học là bậc học tạo nền tảng vững chắc cho các em vào đời. Được
đến trường đến lớp đó là vinh dự, là niềm vui lớn lao của mỗi trẻ thơ mà mục
tiêu của giáo dục - đào tạo hiện nay là giáo dục học sinh một cách toàn diện. Sau
khi học xong tiểu học, các em được lĩnh hội những kiến thức, kĩ năng mà
chương trình giáo dục tiểu học đã trang bị cho các em để các em tiếp tục học lên
lớp trên.
Toán học là một mảng kiến thức xuyên suốt quá trình học toán của học
sinh. Nó không chỉ truyền thụ và rèn luyện kỹ năng tính toán để giúp các em học
tốt môn khác mà còn giúp các em rèn luyện trí thông minh, óc tư duy sáng
tạo,khả năng tư duy lô gic, làm việc khoa học. Vì vậy chúng ta cần phải quan
tâm tới việc dạy toán ở Tiểu học.
Các bài toán trong chương trình sách giáo khoa (SGK) ti
là một hoạt động bao gồm những thao tác xác lập mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái cần tìm. Trên cơ sở đó chọn được phép tính thích hợp và trả lời đúng câu hỏi của bài toán. - Dạy học giải toán giúp học sinh phát hiện giải quyết vấn đề, tự nhận xét so sánh, phân tích, tổng hợp rút ra quy tắc ở dạng khái quát. - Trong chương trình toán 3 thì giải toán cũng là một mạch kiến thức khác và có ý nghĩa đặc biệt trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt qua việc giải các bài toán có nội dung hình học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị là các dạng toán có ý nghĩa thực tiễn liên quan đến cuộc sống hàng ngày. Vì vậy nó được coi là cầu nối giữa toán học và thực tiễn, chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong chương trình toán 3. 2. Nội dung dạy các bài toán điển hình có nội dung hình học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị. a) Nội dung dạy các bài toán điển hình có nội dung hình học được học thành 4 tiết lý thuyết và 3 tiết thực hành, cụ thể: + Chu vi hình chữ nhật, chu vi hình vuông. + Diện tích hình chữ nhật, diện tích hình vuông. b) Nội dung dạy các bài toán có lời văn liên quan đến rút về đơn vị được học thành 2 tiết, cụ thể: + Tiết 122: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị (giải bằng phép tính chia và phép tính nhân. + Tiết 157: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị (tiếp theo) được giải bằng 2 phép tính chia. 3. Yêu cầu chuẩn kiến thức, kỹ năng cần đạt được a) Bài toán có nội dung hình học - Biết tính độ dài đường gấp khúc. - Biết tính chu vi diện tích hình chữ nhật, hình vuông (theo quy tắc). b) Bài toán liên quan đến rút về đơn vị - Học sinh biết giải và trình bày bài giải các bài toán có lời văn, có đến hai bước tính liên quan đến rút về đơn vị. 4. Các dạng bài tập a) Các bài tập có nội dung hình học - Bài tập về “Nhận biết hình” (nhận dạng hình) - Bài tập về “xếp ghép hình” chẳng hạn từ 8 hình tam giác bằng nhau xếp 5 thành các hình như ở trang 71, trang 82 sách toán 3. Ví dụ: Bài 4 trang 82 - Toán 3. - Bài tập về ‘Tính chu vi” hình chữ nhật, hình vuông (theo quy tắc) - Bài tập về :Tính diện tích” các hình chữ nhật, hình vuông (theo quy tắc) - Bài tập về “Thực hành” chẳng hạn gấp giấy để tạo thành mép vuông (bài 4 trang 43 sách toán 3) hoặc gấp tờ giấy hình chữ nhật để xác định trung điểm của đoạn thẳng (Bài 2 trang 99 sách toán 3). b) Các dạng bài toán liên quan đến rút về đơn vị. - Là một dạng của toán hợp giải bằng hai phép tính. Bài toán được xây dựng từ hai bài toán đơn là ý nghĩa thực tế của phép nhân hoặc phép chia, chẳng hạn: + Dạng 1: Bài toán “Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó có bao nhiêu ki-lô-gam gạo ?” Từ cách hiểu trên ta hướng dẫn học sinh giải bằng 2 phép tính, mỗi phép tính ứng với một bài toán đơn tạo thành tương ứng: Bài giải: Số ki-lô-gam gạo trong mỗi bao là: 28 : 7 = 4 (kg) Số ki-lô-gam gạo trong 5 bao là: 4 x 5 = 20 ( kg) Đáp số: 20 kg + Dạng 2: Bài toán “Có 40 kg đường đựng đều trong 8 túi. Hỏi 15 kg đường đựng trong mấy túi như thế ? Được xây dựng từ hai bài toán đơn: “ Có 40 kg đường đựng đều trong 8 túi. Hỏi mỗi túi đựng bao nhiêu ki-lô-gam đường ?” và bài toán: “Mỗi túi đựng 5 kg đường. Hỏi 15 kg đường đựng trong mấy túi như thế ? Bài giải: Số ki-lô-gam đường đựng trong mỗi túi là: 40 : 8 = 5 (túi) Số túi cần để đựng 15 kg đường là: 15 : 5 = 3 (túi) Đáp số: 3 túi - “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị” được hiểu là bài toán mà trong cách giải trước hết cần thực hiện ở bước 1 là: “tính giá trị một đơn vị của đại lượng nào đó” hay cần phân tích rút về đơn vị. Bước 2 là “Tính kết quả và trả lời câu hỏi của bài toán”. Cách giải thường là: “Gấp lên một số lần” hoặc ‘Số lớn gấp mấy lần số bé”. 5. Phương pháp dạy học giải bài toán điển hình ở lớp 3 - Phương pháp dạy học toán là cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh nhằm đạt được mục tiêu dạy học toán. - Phương pháp dạy học toán là sự vận dụng một cách hợp lý phương pháp dạy học theo đặc trưng bộ môn toán mà vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học sau: Phương pháp thực hành luyện tập gợi mở, vấn đáp, giảng giải, minh họa. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 6 1. Những thuận lợi, khó khăn 1.1. Thuận lợi - Cơ sở vật chất nhà trường đảm bảo và phù hợp với lứa tuổi học sinh; học sinh có đủ sách giáo khoa và đồ dùng học tập. - Nhìn chung các em ngoan, tham gia tích cực các hoạt động của trường của lớp. - So với trước đây, phụ huynh đã có sự quan tâm hơn đối với việc học tập của con em mình. - Về phía giáo viên: Hầu hết các thầy cô đều yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề nghiệp, có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao, 100% giáo viên đã đạt chuẩn và trên chuẩn. 1.2. Khó khăn - Đa số các em là con em nông dân, nhiều em chưa được bố mẹ quan tâm, ít chú ý đến việc học tập hoặc bố mẹ đi làm ăn xa việc học tập của các em còn phó mặc cho nhà trường. - Trình độ học vấn của các bậc phụ huynh chưa tiếp cận được với phương pháp học tập theo chương trình đổi mới, đặc biệt là cách đánh giá học sinh theo yêu cầu của Thông tư 22/BGD&ĐT. - Trong lớp còn nhiều học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng còn yếu về khả năng phân tích, tư duy để giải bài toán có lời văn. 2. Thực trạng việc dạy học giải toán có lời văn 2.1. Thực trạng về đội ngũ giáo viên - Muốn học sinh học tập đạt kết quả thì vấn đề đặt ra cần phải đề cập đến là phương pháp giảng dạy, là cách thức tổ chức hoạt động học tập cho học sinh và quan trọng hơn cả là người giáo viên có trình độ kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm giảng dạy Để nghiên cứu sáng kiến này tôi đã khảo sát chất lượng học sinh ngay từ đầu năm học có kết quả như sau: Lớp SHS T H C Ghi chú SL TL SL TL SL TL 3C 35 7 20 18 52,5 10 28,5 - Qua điều tra thực tế dạy học môn Toán của giáo viên trường Tiểu học Thọ Dân – Triệu Sơn – Thanh Hóa, tôi nhận thấy một thực trạng như sau: + Về trình độ giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn. Trong quá trình giảng dạy có nhiều cố gắng đạt mục tiêu bài dạy, có ý thức nâng cao tay nghề. + Xong việc vận dụng những kiến thức đã có vào việc giảng dạy còn có nhiều hạn chế, lúng túng, chưa linh hoạt. + Khả năng sư phạm còn hạn chế dẫn đến việc hướng dẫn học sinh giải bài toán đôi khi còn thiếu chính xác. Kiến thức cơ bản nhiều khi còn bị lãng quên, sự đầu tư vào chuyên môn chưa nhiều dẫn đến chất lượng giờ dạy chưa cao. VD: Khi hướng dẫn học sinh giải toán, giáo viên chưa khuyến khích học sinh tìm nhiều cách giải khác nhau, chưa cho học sinh thấy được ý nghĩa thực tiễn của nó trong cuộc sống. 7 + Một số giáo viên còn chịu ảnh hưởng của phương pháp dạy học truyền thống, ngại đổi mới cách dạy, cách học. 2.2. Thực trạng việc học giải toán điển hình của học sinh lớp 3 Trong khi nghiên cứu đề tài này tôi đã điều tra đối chứng hai lớp 3 của trường Tiểu học Thọ Dân – Triệu Sơn – Thanh Hóa. Tôi nhận thấy học còn gặp nhiều khó khăn trong giải toán có lời văn có nội dung hình học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị mắc phải sai lầm như sau: a) Bài toán có lời văn có nội dung hình học - Học sinh chưa đọc kỹ đề bài, xác định yêu cầu bài toán chưa đúng, không biết bài toán thuộc loại toán nào dẫn đến việc áp dụng công thức, quy tắc nhầm, lẫn lộn với nhau, kết quả giải toán bị sai. - Vẫn còn những học sinh khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình chữ nhật thì lại áp dụng quy tắc tính chu vi hình vuông và ngược lại khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông thì lại áp dụng quy tắc quy tắc tính chu vi hình chữ nhật. - Khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông và chu vi hình chữ nhật thì không nắm chắc quy tắc để vận dụng quy tắc tính, nhầm giữa tính chu vi hình vuông sang tính diện tích hình vuông, nhầm giữa tính chu vi hình chữ nhật sang tính diện tích hình chữ nhật. - Trong bài giải bài toán về chu vi, diện tích các hình (Bài 3 trang 155- Toán 3) khi viết tên đơn vị đo, các em còn bỏ sót, nhầm lẫn. Thông thường kích thước có cùng đơn vị đo nào thì chu vi có cùng đơn vị đo đó, nhưng với diện tích thì đơn vị đo lại khác. Chẳng hạn: Với hình chữ nhật có chiều dài 9 cm, chiều rộng 6 cm thì đơn vị đo của chu vi là cm, nhưng đơn vị đo của diện tích là cm2. Cụ thể là: Chu vi hình chữ nhật là: (9 + 6 ) x 2 = 30 (cm) Diện tích hình chữ nhật là: 9 x 6 = 54 (cm2) + Trong trường hợp số đo các cạnh không cùng đơn vị thì học sinh chưa biết đổi ra cùng đơn vị đo. VD: Tính diện tích và chu vi hình chữ nhật có chiều dài là 4 dm, chiều rộng là 8 cm. - Một số học sinh nhận diện hình chậm, không hiểu thuật ngữ toán học, không biết bài đã cho dữ kiện nào để áp dụng vào giải toán. Không nắm được các thao tác giải toán, không biết tư duy bài toán (bằng lời hoặc hình vẽ) nên trình bày sai lời giải, sai bài toán, đáp số sai, thiếu. - Ngoài ra còn một số bài toán đòi hỏi học sinh phải tư duy tìm các công thức đã cho để giải. Khả năng giải bài toán mang tính chất tồng hợp kiến thức của các em còn kém, các em quên mất kiến thức cũ liên quan nên giải bài toán bị sai. VD: Bài toán + Cho cạnh hình vuông tính chu vi và diện tích, học sinh nhầm giữa hai cách tính nên kết quả bị sai. + Cho chiều dài, chiều rộng hình chữ nhật. Tính chu vi, diện tích. Học sinh lại nhầm hai công thức tính dẫn đến kết quả sai. 8 b) Bài toán liên quan đến rút về đơn vị Dạng 1 + Bước 1: Rút về đơn vị, tìm giá trị một phần - Học sinh nhầm khi trả lời chưa rõ ràng - Sau khi thực hiện phép tính chia ghi danh số sai với câu trả lời VD: Bài 2 trang 128 “Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao có bao nhiêu ki-lô-gam gạo?” Học sinh trả lời sai: - Bước 1: Tìm số kg gạo trong mỗi bao Danh số kết quả sau: 28 : 7 = 4 (bao) Học sinh phải làm đúng là: 28 : 7 = 4 (kg) - Bước 2: Tìm 5 bao có số ki-lô-gam gạo là: 4 x 5 = 20 (kg) Học sinh hay đặt ngược phép tính là: 5 x 4 = 20 (bao) Như vậy: Khi học sinh giải bài toán dạng 1 hay trả lời sai hoặc sai danh số, phép tính sai vì đặt ngược. Dạng 2: Bước 1: Tìm giá trị một phần thực hiện phép chia Bước 2: Biết giá trị một phần thực hiện phép chia để tìm kết quả theo câu hỏi của bài toán. - Học sinh thường sai: Trả lời sai, ghi danh số nhầm VD: Bài toán 2 trang 166 Bước 1: tìm giá trị một phần - Học sinh trả lời sai 2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên a) Nguyên nhân khách quan - Do đặc thù tình hình của địa phương là vùng nông dân nghèo, điều kiện kinh tế gia đình eo hẹp dẫn đến điều kiện học tập của các em cũng bị ảnh hưởng rất nhiều. - Một số gia đình chưa thực sự quan tâm động viên các em kịp thời cũng như tạo điều kiện tốt hơn để các em học tập. b) Nguyên nhân chủ quan - Giáo viên: Trong giảng dạy, một số giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học chưa linh hoạt, nhịp độ giảng dạy quá nhanh khiến học sinh có năng lực hạn chế không theo kịp. Một số giáo viên còn thiếu tinh thần trách nhiệm với học sinh. Việc đầu tư cho chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, chưa nắm vững yêu cầu về kỹ thuật và kỹ năng của bài toán, chưa quan tâm đến học sinh chưa hoàn thành bài học sau mỗi tiết dạy. - Học sinh: + Sự phát triển nhận thức của một số em còn chậm, không đồng đều, hoạt động tư duy logic kém. Việc lĩnh hội kiến thức ở các lớp trước chưa đầy đủ, còn những lỗ hổng về kiến thức. Một số em có thái độ học tập chưa tốt, ngại cố gắng, thiếu tự tin. 9 + Ngoài ra, một số phụ huynh do không nắm được cách giải toán ở tiểu học nên không hướng dẫn được cho các em hoặc hướng dẫn các em những cách giải toán của bậc Trung học cơ sở. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả dạy và học xong đây chỉ là một số nguyên nhân mà trong chương trình công tác và nghiên cứu làm đề tài tôi phát hiện ra. Những nguyên nhân trên tác động lẫn nhau làm giảm hứng thú học tập của học sinh, làm cho cac em thiếu tự tin cố gắng vươn lên dẫn đến kết quả học tập không tốt. Để khắc phục những tồn tại trên cần phải có biện pháp khắc phục hợp lí. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LỖI CHO HỌC SINH KHI GIẢI TOÁN ĐIỂN HÌNH LỚP 3: Việc dạy học gải toán ở tiểu học là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc ghép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán. Giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh nắm vững khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữTổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán. Vậy qua quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài tôi xin đưa ra một số biện pháp sau đây. 1. Trang bị những công thức, quy tắc, kỹ năng giải toán Đây là vấn đề vô cùng quan trọng trong việc truyền tải kiến thức cho học sinh, thay thế cho việc giáo viên áp đặt kiến thức cho học sinh buộc học sinh phải thuộc lòng những điều giáo viên thuyết trình (phương pháp dạy học truyền thống) bằng việc giáo viên là người dẫn dắt các em tự mình tìm tòi khám phá kiến thức mới (phương pháp dạy học tích cực). Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần vận dụng triệt để biện pháp này vì học sinh muốn giải được các bài toán thì cần phải được trang bị đầy đủ những kiến thức có liên quan đến việc giải toán mà những kiến thức này chủ yếu được cung cấp qua các tiết lý thuyết. Do vậy dưới sự dẫn dắt của giáo viên, học sinh cần tìm ra được cách giải bài toán và cần phải được chính xác hóa nhờ sự giúp đỡ của giáo viên. Qua quá trình tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới dựa trên những cái đã biết giúp các em hiểu sâu hơn, nhớ lâu kiến thức ấy hơn nếu như tự mình tìm ra kiến thức ấy Học sinh cần nắm chắc quy tắc, công thức tính, các bước tính của một phép tính từ đó mới rèn luyện được kỹ năng tính toán. 1.1. Đối với loại toán có nội dung hình học thì khả năng nhận biết các đặc điểm của một hình vẽ là rất quan trọng. Ví dụ: Khi dạy về “Diện tích hình chữ nhật” giáo viên cần cho học sinh nhắc lại đặc điểm của hình chữ nhật thông qua hình vẽ. + Khả năng cắt ghép hình tam giác thành hình chữ nhật. + Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh nhớ rõ các ký hiệu hình vẽ. Chẳng hạn, đâu là cạnh chiều dài của hình, đâu là cạnh chiều rộng của hình chữ nhật. Từ đó học sinh biết vận dụng vào giải các bài toán áp dụng trực tiếp quy tắc đã xây dựng để vận dụng tính. Bài tập: Cho hình chữ nhật có chiều dài là 8cm, chiều rộng là 5cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó ? Với bài tập này học sinh chỉ cần vận dụng đúng quy tắc, công thức đã được trang bị là giải được ngay. Cũng có những bài toán đòi hỏi học sinh phải 10 có khả năng tư duy thì mới giải được. Do vậy, giáo viên cần rèn cho các em kỹ năng này. Ví dụ: Cho hình chữ nhật có nửa chu vi là 22cm, chiều rộng là 9 cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó ? - Khi giải bài toán không có cùng đơn vị đo thì phải biết đổi ra cùng một đơn vị đo. Ví dụ: Số đo cạnh theo mm, số đo diện tích theo cm2. Vậy phải đổi số đo cạnh ra cm. - Giáo viên cần lưu ý cho học sinh: + Với hình chữ nhật có số đo chu vi là cm, thì đơn vị đo của diện tích là cm2 + Với hình vuông có số đo chu vi là cm thì đơn vị đo của diện tích hình vuông là cm2. 1.2. Với bài toán liên quan đến rút về đơn vị: Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết đề bài yêu cầu tính cái gì? Bài toán thuộc dạng 1 hay dạng 2 để giải bài toán. Ví dụ: + Bài toán ở dạng 1 thì phải tìm giá trị của một phần là thực hiện phép chia rồi mới tìm được giá trị của nhiều phần (thực hiện phép tính nhân). + Bài toán chia ở dạng 2 thì: Bước 1 cũng phải tìm giá trị một phần (thực hiện phép tính chia) nhưng ở bước 2 thì lại khác với bước 2 ở dạng 1 đó là biết giá trị một phần rồi lại tiếp tục thực hiện phép chia để tìm kết quả theo yêu cầu của bài toán. *Điều quan trọng chủ yếu khi dạy giải toán là dạy học sinh biết cách giải bài toán (phương pháp giải toán). Giáo viên không được làm thay, không được áp đặt cach giải cần phải tạo cho học sinh tự tìm ra cách giải bài toán tập trung vào 3 bước: + Tính toán để biết bài toán cho gì, hỏi gì, yêu cầu gì? + Tìm cách giải thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán (giả thiết) với yêu cầu của bài (kết luận) để tìm ra phép tính tương ứng. + Trình bày bài giải, viết câu lời giải, phép tính trung gian và đáp số. 2. Biện pháp hình thành và rèn luyện kĩ năng giải toán điển hình Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của mình, tôi nhận thấy rèn kĩ năng giải toán cho học sinh là một biện pháp không thể thiếu trong qua trình dạy học. Do đặc điểm của môn toán ở tiểu học được cấu tạo theo kiểu đồng tâm các nội dung được củng cố thường xuyên và được phát triển dần từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Sau khi đã lĩnh hội kiến thức, kĩ năng toán học, để định hình vững chắc kiến thức ấy, học sinh cần rèn luyện vận dụng qua các dạng bài tập khác nhau, có yêu cầu cao hơn. Để giải được các bài tập ấy, giáo viên cần hướng dẫn các em tư duy từ cái đã biết để tìm cái chưa biết, rèn cho học sinh óc suy luận, phán đoán và kỹ năng. - Phân tích đề bài toán: Là một kĩ năng quan trọng nhất * Ví dụ: Bài toán 1 (Bài toán có yếu tố hình học) 11 “Một tờ giấy hình chữ nhật có chiều dài 72cm, chiều rộng bằng 8 1 chiều dài. Tính diện tích tờ giấy đó”. Để giải được bài toán này học sinh cần phải phân tích đề và dựa vào những yếu tố đã biết để giải. + Bài toán đã biết chiều dài chưa? + Bài toán đã biết chiều rộng chưa? Vậy để tính được diện tích tờ giấy thì ta phải tính gì trước? Qua hàng loạt câu hỏi đặt ra để phân tích yêu cầu bài toán, trả lời được các câu hỏi đó, học sinh sẽ làm được bài tập dễ dàng. Với các kỹ năng đã có của học sinh, giáo viên là người giúp học sinh rèn luyện và phát huy những kỹ năng ấy, cần cho học sinh nắm rõ thuật ngữ toán học”chiều rộng bằng 8 1 chiều dài nghĩa là gì? Biết phân tích và tóm tắt bài toán bằng cách ghi các dữ kiện đã cho và câu hỏi của bài toán dưới dạng ngắn gọn nhất. Qua tóm tắt học sinh có thể nêu lại được bài toán, từ đó lập kế hoạch giải, do vậy giáo viên cần hướng dẫn: + Muốn tính được diện tích tờ giấy ta cần dữ liệu nào? (có chiều dài, có chiều rộng). + Tìm chiều rộng bằng cách nào ? Lấy 72 : 8 = 9 (cm) Như vậy với một số câu hỏi gợi mở mà giáo viên đưa ra, học sinh có thể sẽ tìm cách giải bài toán về những kiến thức đã học để có thể áp dụng được công thức tính. * Ví dụ 2: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị Giáo viên cũng vận dụng cách hướng dẫn trên, yêu cầu học sinh phân tích kỹ yêu cầu bài toán, xem bài toán thuộc dạng toán 1 hay dạng toán 2. Vận dụng công thức tính đến việc suy luận cho nên việc xác định dạng toán là rất quan trọng. Bài toán 2: “Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì xếp được bao nhiều hàng như thế ?”. Để giải được bài toán này học sinh cần phải đọc kỹ bài toán phân tích tóm tắt bài toán, xem bài toán cho biết gì ? Bài toán yêu cầu những gì ? Tóm tắt: 24 cúc áo: 4 cái áo 42 cúc áo: cái áo Sau đó lập kế hoạch giải + Bài toán đã cho biết dữ kiện nào ?(4 cái áo thì cần 24 cái cúc). + Bài toán yêu cầu làm gì ? (42 cái cúc áo thì dùng cho mấy cái áo như thế) Vậy muốn biết 42 cúc áo thì dùng cho mấy cái áo thì ta phải đi tính gì trước? (Mỗi cái áo cần mấy cái cúc ?) 24 : 4 = 6 (cúc) Khi đã tính được một cái áo cần mấy cái cúc thì học sinh sẽ tìm được 42 cúc dùng cho mấy cái áo ? (lấy 42 : 6 = 7 (áo) Muốn giải được tốt bài toán này yêu cầu học sinh phải tìm hiểu, phân tích kỹ đầu bài (biết tóm tắt và trình bày bài toán thông qua tóm tắt) lập được kế 12 hoạch bài giải bài toán và kĩ năng vận dụng sáng tạo những kiến thức đã học vào giải các bài toán ở mức độ phức tạp hơn. Do vậy giáo viên nhất thiết phải sử dụng biện pháp này nhằm rèn cho học sinh những kỹ năng trên giúp các em có khả năng giải mọi dạng toán khác nhau. Vận dụng kiến thức
Tài liệu đính kèm: