SKKN Một số biện pháp cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số tại lớp chồi Trường Mầm non Hoa Pơ Lang

SKKN Một số biện pháp cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số tại lớp chồi Trường Mầm non Hoa Pơ Lang

Cô cần phát âm ra những từ lặp đi lặp lại trong câu chuyện “Dê kia mày đi đâu” “tôi đi tìm lá non và nước suối mát để uống” và bảo trẻ học thuộc để đem vào đóng kịch.Và cuối cùng là cô có thể cùng với trẻ tham gia đóng kịch để vừa tạo sự thân thiện vừa gợi ý, hướng dẫn trẻ nói lưu loát hơn.

* Tích hợp môn làm quen tiếng việt trong các môn học khác

Việc tích hợp để ôn luyện, củng cố từ tiếng việt đã học vào các môn học được giáo viên mầm non đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên chúng ta cần chú ý tích hợp vào môn học nào cho phù hợp, đưa nội dung cần tích hợp vào hoạt động khác một cách nhẹ nhàng và thu hút trẻ, tránh tình trạng gò ép, máy móc rập khuôn.

 * Tích hợp tiếng việt thông qua môn âm nhạc.

 Cũng tương tự như môn làm quen văn học, khi ta tổ chức trò chơi âm nhạc “Nhìn hình đoán tên bài hát” những hình ảnh này sẽ được giấu sau mỗi ô cửa, trên mỗi ô cửa sẽ được kí hiệu bằng các hình ảnh đã học, nhiệm vụ của mỗi đội chơi sẽ chọn ô có gắn tranh nào và xem nội dung tranh để đoán tên bài hát phù hợp.

 

docx 26 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 933Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số tại lớp chồi Trường Mầm non Hoa Pơ Lang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị đồ dùng phục vụ cho môn học còn thiếu, đồ dùng đồ chơi trong ngoài lớp còn hạn hẹp, diện tích lớp học chật hẹp, chưa đúng điều lệ quy định trường mầm non.
 - Một số trẻ trong lớp còn có tính thụ động trong giờ học.
- Phụ huynh 100% là nông dân, công việc thường bận rộn nên chưa thật sự quan tâm và đầu tư vào việc học của trẻ, một số phụ huynh lại chưa hiểu được tầm quan trọng của giáo dục mầm non nên việc phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong công tác giảng dạy gặp rất nhiều khó khăn.
 Xuất phát từ thực trạng như vậy, bản thân tôi đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu và ứng dụng nhiều biện pháp để đưa một số biện pháp cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ tại trường được nâng cao. Sau đây là một số giải pháp mà tôi đã thực hiện.
 3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
 a. Mục tiêu của giải pháp
 - Giúp trẻ hiểu nhanh , học nhanh và có thể nói được Tiếng việt một cách lưu loát.
 - Ghi nhớ lâu hơn những gì cô dạy bảo qua các hoạt động học hàng ngày của trẻ.
 b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
 - Nội dung cho trẻ dân tộc thiểu số nói và hiểu được Tiếng việt phải dựa trên nhiều yếu tố và được thực hiện thông qua kế hoạch sinh hoạt hàng ngày và được tích hợp vào các môn học ở mọi lúc mọi nơi như : 
Giải pháp 1: Tạo môi trường tiếng việt phong phú, hấp dẫn, gần gủi với trẻ.
Để gây hứng thú cho trẻ làm quen với tiếng việt, giáo viên cần phải có sự thay đổi cách tổ chức các hoạt động trong môi trường ngôn ngữ nói thật phong phú, độc đáo, hấp dẫn và sáng tạo. Trang trí lớp theo nội dung chủ đề, theo nội dung kiến thức cần cho trẻ nhận thức. Môi trường lớp trẻ hoạt động thay đổi chủ yếu được trang trí bằng sản phẩm của trẻ và sản phẩm do cô và trẻ tự tạo để kích thích khả năng quan sát, sự tò mò, ham hiểu biết và để trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động khám phá trải nghiệm, được tắm mình trong môi trường tiếng việt.
* Môi trường ngoài lớp học
Với quan điểm giúp trẻ làm quen với tiếng việt ở mọi lúc, mọi nơi và để tạo ấn tượng cho trẻ ngay từ khi bước chân vào lớp, ở mảng tường ngoài cửa lớp trẻ có thể nhận ra ngay những hình ảnh quen thuộc của mình và của các bạn trong lớp kèm theo những từ tương ứng với hình ảnh, một sự gần gũi, thân quen sẽ đến với trẻ. Và trẻ cũng bắt gặp những hình ảnh của chủ đề, những hình ảnh này do chính trẻ vẽ, xé, cắt dán từ tạp chí, họa báoĐây cũng là mảng tường để bố mẹ trẻ thấy được hiện bé đang hoạt động ở chủ đề nào để mỗi ngày khi đưa trẻ đến lớp hay đón trẻ ra về, phụ huynh có thể phối kết hợp với giáo viên trò chuyện với trẻ về hình ảnh, về từ giúp trẻ làm quen thêm hay củng cố, rèn phát âm, chính xác hóa lại các từ có trong từ đó mà cô đã cung cấp cho trẻ. Những hình ảnh, câu, từ này được cô thường xuyên thay đổi để kích thích sự hứng thú của trẻ
 Việc cải tạo môi trường Xanh, sạch, đẹp 
 Ví dụ: Lợi thế sân trường bằng phẳng, rộng. Tôi đã kết hợp với Đoàn thanh niên của trường trồng cây xung quanh trường để tạo bóng mát cho trẻ như: Cây xà cừ, cây sao, cây bàng, cây phượng, giao cho bảo vệ chăm sóc và trồng thêm hoa, cây bằng Lăng. Cô giáo sẽ có dịp tăng cường tiếng Việt cho trẻ về từ “Cây phượng” trẻ vừa hiểu được từ, vừa được thấy được cây, được quan sát thực tế màu của hoa phượng của chủ đề: Thế giới thực vật.
Hình ảnh cổng trường
Hình ảnh cây xanh để che bóng mát
 Trẻ biết dùng nước tưới cây cảnh, đồng thời trẻ được quan sát sự phát triển của cây qua chăm sóc cây, trẻ biết tên các loại cây qua môi trường thực tế, cho trẻ tiếp cận phát âm, ôn phát âm những từ đã học, làm quen, cung cấp những từ mới, qua chơi với nước trẻ còn thử nghiệm vật chìm, nổi, chơi thả thuyền dưới nước, bằng các vật liệu trong thiên nhiên, trẻ hứng thú khám phá ra những điều mới lạ khi vui chơi cùng các bạn.
 - Khi cho trẻ khám phá môi trường thiên nhiên giáo viên không nhất thiết phải thực hiện tiết dạy trong lớp học mà có thể cho cháu học ngoài trời giáo viên dễ dàng dạy thực tế như đề tài khám phá khoa học “ Tìm hiểu môi trường xung quanh” Như về sự phát triển của cây hoặc một số loại cây, cây làm cảnh, cây cho bóng mát, cây cho quả để ăn, cây lấy gỗNgoài ra môi trường thiên nhiên còn giúp cho trẻ được ngắm nhìn, được tìm hiểu khám phá các loại động vật, các loại phương tiện qua lại gần gũi cùng trẻ, không chỉ khám phá mà qua quan sát còn giúp trẻ phát triển về ngôn ngữ nói thông qua trò chuyện cùng cô từ đó giúp cho trẻ hứng thú học tập và giáo viên cũng dễ dẫn dắt trẻ vào bài học hơn.
 Ví dụ: Như phát triển Nhận thức “Cây trong trường bé” trước khi vào bài cô cho trẻ hát bài “Em yêu cây xanh” thông qua nội dung của bài hát cô dẫn dắt cháu vào bài để tìm hiểu về các loại cây được dễ dàng và lô gic hơn.Vừa đàm thoại khi cô đặt ra câu hỏi cô và trẻ giúp trẻ vừa có thể thích thú khi nói chuyện với cô vừa tạo điều kiện trẻ học tiếng việt tốt hơn.
Bên ngoài lớp học là “Bé yêu thiên nhiên” với những cây, hoa, rau, mỗi loại cây cô đều gắn biển tên tương ứng, hàng ngày trẻ được tiếp xúc và làm quen tên gọi của từng loại cây, điều này không những giúp trẻ khám phá thế giới tự nhiên mà con giúp trẻ rèn luyện ngôn ngữ
 Hình ảnh hoạt động chăm sóc tưới cây
 * Tạo môi trường trong lớp học.
Đối với việc trang trí lớp tạo môi trường cho trẻ hoạt động là một việc làm hết sức quan trọng vì theo tôi nghĩ môi trường có gần gũi, có thân thiện thì học sinh mới hứng thú tham gia vào các hoạt động, chính vì vậy nên tôi rất chú ý đến phần trang trí môi trường trong lớp học, Việc trang trí lớp học cho trẻ 4-5 tuổi khác hẳn so với việc trang trí ở lớp mầm và nhà trẻ, đó là trên mỗi góc đều có hình ảnh gợi mở và có chữ viết để tạo môi trường cho trẻ làm quen dần với tiếng việt.
+ Góc phân vai, tôi tạo môi trường tiếng việt lên các mặt hàng, viết tên một số thực phẩm cây ăn quả, rau ăn lá, các loại nước giải khát, bánh kẹotương tự các góc khác tôi đặc biệt chú trọng trang trí tạo môi trường tiếng việt đa dạng phong phú giúp trẻ “học mà chơi, chơi mà học”
Hình ảnh góc phân vai
+ Góc sách- thư viện: Ngoài việc giáo viên thường thay đổi tranh ảnh, sách truyện, thơ theo chủ đề thực hiện thì tôi còn sưu tầm các bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng dao theo từng chủ đề và in thành tranh to, sau khi trẻ học xong tôi treo vào góc đến giờ chơi trẻ có thể chỉ và đọc theo.
Hình ảnh trẻ xem tranh ảnh
+ Góc học tập: Trên mảng tường trống tôi thiết kế một bảng các ô vuông đủ màu sắc có tiêu đề “Hôm nay bé học gì?” để khi trẻ học song cho trẻ tìm đúng màu sắc đúng hình ảnh cô cho trẻ cắt dán hình ảnh vào từng ô. Qua các chủ đề, các tiết học.
+ Góc trang trí chủ đề thường xuyên thay đổi phù hợp theo chương trình 
Khi trang trí chủ đề “Nước và hiện tượng tự nhiên” tôi thực hiện như sau:
	- Chuẩn bị: Bút màu, giấy vẽ, hồ dán, kéo, các hình ảnh trên hoạ báo, tạp chí, xốp màu, giấy màu...
- Cách trang trí: Tôi cho trẻ vẽ, tô màu hay cắt hình ảnh về hiện tượng thiên nhiên trong báo, tạp chí... Có nội dung tranh, theo mục đích của cô.
Ngoài ra trên mỗi đồ dùng cá nhân của trẻ như: Cốc uống nước, bàn chải đánh răng, khăn mặt, ngăn tủ đựng cặp của trẻ đều kí hiệu bằng hình ảnh với màu sắc và khác nhau. Trên cửa sổ của lớp, tôi làm rèm cửa bằng dây hoa, dây lá, bằng những chùm nho, quả cà chua được làm từ giấy, xốp bitis, hộp sữa chua probi.., xen kẽ trên mỗi chùm nho, quả cà chua...tôi dùng decal màu sắc để cắt cái dán lên, điều này không chỉ làm lớp học thêm sinh động mà còn giúp trẻ hàng ngày được tri giác tiếng việt thường xuyên.
 Giải pháp 2: Giúp trẻ hứng thú tích cực hoạt động tiếng việt thông qua việc làm quen các tác phẩm văn học, thông qua các môn học khác, hoạt động góc, mọi lúc mọi nơi.
 * Hoạt động tiếng việt thông qua việc làm quen các tác phẩm văn học
Sách và truyện có tranh rất quan trọng trong việc phát triển của trẻ, khả năng tư duy, sáng tạo, kỹ năng nói lưu loát, nhận biết được các mẫu câu, các từ khó, sự tập trung chú ý, phát triển tốt kỹ năng lật sách.Khi cô kể chuyện thì trong câu chuyện phải gần gủi và thân thuộc. Nếu có thể, ta kể những câu chuyện gần với trẻ về dân tộc về văn hóa địa phương của trẻ.Truyện cần lặp đi lặp lại nhiều từ, nhiều phân đoạn vì như vậy sẽ giúp trẻ nhớ lâu và trẻ có thể tham gia hóa thân vào vào nhân vật như đóng kịch nhờ đó trẻ sẽ ghi nhớ Tiếng việt hơn. Kể chuyện giúp trẻ học tiếng việt cũng phải thông qua từng bước cụ thể và rõ ràng như sau:
 + Giới thiệu câu chuyện và các nhân vật trước khi đọc truyện
 + Kể lại câu chuyện, sử dụng các đạo cụ minh họa 
 + Giới thiệu các từ chính của câu chuyện thông qua hành động và tiếng địa phương 
 + Đọc lại câu chuyện nhưng đặt câu hỏi cho trẻ trước, trong và sau khi kể chuyện 
 + Kể lại câu chuyện thông qua hoạt động đóng kịch 
 + Với trẻ có khả năng tiếng việt tốt, cần khuyến khích trẻ kể lại câu chuyện, cho các bé này kể trước và có thể kể theo từng đoạn một.
 Ví dụ: Truyện “Chú Dê đen và Dê trắng”Cô có thể sử dụng những con rối để giới thiệu vào nhân vật từ dáng đi, tiếng kêu, tính cách, đặc điểm của từng con vật. Vì khi thực hiện như vậy vừa khơi dậy sự tò mò, thích thú vừa giúp trẻ phát triển kỹ năng quan sát và ghi nhớ lâu .Sau đó, Cô cho trẻ xem con dê thật qua một đoạn video và hỏi trẻ đã từng thấy con vật này chưa? Nó ăn gì? Sống ở đâu?
Hình ảnh các con vật trong truyện được cắt ra từ video
Cô cần phát âm ra những từ lặp đi lặp lại trong câu chuyện “Dê kia mày đi đâu” “tôi đi tìm lá non và nước suối mát để uống” và bảo trẻ học thuộc để đem vào đóng kịch.Và cuối cùng là cô có thể cùng với trẻ tham gia đóng kịch để vừa tạo sự thân thiện vừa gợi ý, hướng dẫn trẻ nói lưu loát hơn.
* Tích hợp môn làm quen tiếng việt trong các môn học khác
Việc tích hợp để ôn luyện, củng cố từ tiếng việt đã học vào các môn học được giáo viên mầm non đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên chúng ta cần chú ý tích hợp vào môn học nào cho phù hợp, đưa nội dung cần tích hợp vào hoạt động khác một cách nhẹ nhàng và thu hút trẻ, tránh tình trạng gò ép, máy móc rập khuôn. 
	* Tích hợp tiếng việt thông qua môn âm nhạc. 
	Cũng tương tự như môn làm quen văn học, khi ta tổ chức trò chơi âm nhạc “Nhìn hình đoán tên bài hát” những hình ảnh này sẽ được giấu sau mỗi ô cửa, trên mỗi ô cửa sẽ được kí hiệu bằng các hình ảnh đã học, nhiệm vụ của mỗi đội chơi sẽ chọn ô có gắn tranh nào và xem nội dung tranh để đoán tên bài hát phù hợp.
	* Tích hợp tiếng việt vào môn khám phá khoa học.
	Ví dụ: Khi dạy tiết khám phá về một số loại quả
	Tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi “Qua cầu hái quả” lồng ghép củng cố tăng cường tiếng việt đã học bằng cách dán màu sắc lên quả và yêu cầu trẻ đi qua cầu hái quả có màu sắc mà cô mong muốn.
	* Tích hợp tiếng việt thông qua môn tạo hình 
	VD: Trong lúc quan sát môi trường thiên nhiên hay tranh ảnh nghệ thuật đẹp tôi luôn lấy trẻ làm trung tâm tôi khuyến khích trẻ bằng những câu hỏi gợi mở cho trẻ thể hiện cái ý muốn cảm xúc của trẻ đối với hiện tượng xung quanh.
 VD: Con nhìn thấy bạn Y Phong hôm nay chơi đồ chơi gì trong lớp? Hôm qua được nghỉ học Bố mẹ đã cho các con đi chơi ở đâu? Ở đó con thấy có gì đẹp không? Hãy kể cho cô và các bạn nghe nào ?
 Cô tăng cường sử dụng các câu hỏi gợi mở, giúp trẻ củng cố vận dụng những kinh nghiệm đã lĩnh hội được ở các hoạt động khác nhau và môi trường xung quanh trẻ và môi trường cô đã cung cấp, tôi luôn khuyến khích trẻ suy nghĩ tìm cách giải quyết.
 VD: Con cho cô biết con sẽ nặn thêm gì cho con cá? Có cách nào khác để nặn con cá không?
 Muốn nặn con cá đẹp con phải nặn thêm những chi tiết gì vào nữa?đồng thời thăm dò khả năng của trẻ để trẻ mưu tả những gì trẻ sẽ làm.
	* Tích hợp tăng cường tiếng việt vào hoạt động góc
	+ Đối với góc học tập:
	- Cho trẻ, xếp tranh rời theo mẫu, xếp thứ tự bức tranh
để tạo thành bài thơ tìm tranh trong đoạn thơ.
- Cho trẻ tô, đồ tranh theo nét chấm mờ, tô màu tranh còn thiếu trong bài thơ...
+ Đối với góc nghệ thuật: Tôi cho trẻ nặn vẽ, cắt, xé, dán theo ý thích từ bột mì cô đã nhào và trộn với nhiều màu sắc khác nhau, làm tranh nối số rỗng bằng cát nhuộm màu, tô màu chữ số rỗng.
+ Đối với góc thiên nhiên: Tôi đều gắn biển tên cho từng loại cây, để trong quá trình trẻ chăm sóc cây, được tiếp xúc và nhận ra các, câu, từ mà trẻ đã học.
* Tích hợp tiếng việt vào hoạt động ngoài trời:
- Ở nhóm chơi trò chơi tự chọn: Tôi thường cho trẻ chơi xếp sỏi, đá, hột hạt ngoài ra tôi dùng cát trắng mịn để trẻ dùng ngón tay vẽnhững thứ mà trẻ biết lên trên. 
 * Dạy trẻ học Tiếng việt qua các hoạt động góc. 
 - Hoạt động góc là hoạt động quan trọng nhất với trẻ .Qua vui chơi không những hình thành cho trẻ óc tưởng tượng sáng tạo, phát triển ngôn ngữ và tăng cường khả năng nhận thức mà còn giúp trẻ thể hiện năng lực, kỹ năng, tình cảm, nguyện vọng và mối liên hệ với những người xung quanh.
 - Chỉ khi chơi trẻ mới tích cực tìm hiểu sự vật để thoả mãn nhu cầu nhận thức
 - Chơi là một cách để trẻ học, là con đường để giúp trẻ lớn lên và phát triển nhân cách toàn diện.
 - Như vậy, hoạt động vui chơi được nhìn nhận với phương diện như là phương tiện để giáo dục nhân cách cho trẻ Mầm Non. Vui chơi của trẻ là một hoạt động phản ánh sáng tạo độc đáo, thực hiện tác động qua lại giữa trẻ với trẻ, trẻ với môi trường xung quanh, trong vui chơi trẻ nhận thức được thế giới xung quanh, khi chơi các trò chơi trẻ lĩnh hội kinh nghiệm xã hội của người lớn một cách tự nhiên, lĩnh hội những kiến thức, những kỹ năng, kỹ xảo, những phương thức hành động, những chuẩn mực đạo đức, những nguyên tắc sống...
 - Trong vui chơi trẻ hoạt động tự lực, tự nguyện và tự tin, xã hội trẻ em được hình thành trong quá trình vui chơi sẽ phát triển việc tự tổ chức, hình thành và biểu hiện những phẩm chất mang tính xã hội: khả năng hoà nhập vào nhóm chơi, khả năng hoạt động đóng vai, khả năng phục tùng những yêu cầu của xã hội trẻ em và bộc lộ những khả năng riêng của trẻ, đây là nơi mà trẻ thoải mái tự thể hiện bản thân mình trong các trò chơi, góc xây dựng , góc phân vai, góc học tập, góc âm nhạc, góc thiên nhiên . 
 Ví dụ: Góc xây dựng một số bé sẽ làm kỹ sư xây dựng “Trang trại của bé” khi đang xây một bé có thể giả bị thương ở tay và được đưa sang bác sĩ khám, ta có thể cho bạn có vốn Tiếng việt tốt nói phân đoạn dài hơn để cho bạn yếu nói phân đoạn ngắn hơn, học từ dễ đến khó, học từng đoạn 1.
 + Bạn a nói: A! Đau quá
 + Bạn b liền hỏi? Bạn bị sao vậy có đau lắm không ?
 + Bạn a: Tớ cần đi bệnh viện (gặp bác sĩ) 
Có thể giao lưu giữa các bác thợ xây và góc phân vai nơi các bạn bán hàng, mua nước uống, đồ ăn.
Mối liên hệ giữa các góc chơi tạo cho trẻ hứng thú và vui vẻ, trẻ có thể giao lưu góc này qua góc khác có thể xem tranh ảnh, nghe nhạc và hát theo bài hát, có thể nói chuyện, chỉ đạo hay hướng dẫn tự làm giúp trẻ thông minh và nhanh nhẹn quan trọng là rất tốt cho việc học Tiếng việt của trẻ.
 * Hoạt động cung cấp Tiếng việt ở mọi lúc, mọi nơi 
Là phương pháp học tiếng việt vô cùng hiệu quả, bởi trẻ mầm non đang là lứa tuổi vừa học vừa chơi, đặc biệt là trẻ dân tộc thiểu số vì hoàn cảnh gia đình hay tác động từ điều kiện môi trường không được tốt nên có rất nhiều trẻ khả năng nhận thức, ghi nhớ còn rất hạn chế và rất chậm. Vì vậy áp dụng giải pháp này Tôi đã thử nghiệm và thành công cụ thể theo lịch
 + Buổi sáng 6h30-7h30 là giờ đón trẻ, Với thái độ luôn luôn niềm nở, vui vẻ và không quên chào hỏi phụ huynh, khi đưa trẻ vào lớp cô thân thiện hỏi han trẻ những câu hỏi gần gủi “con đã ăn sáng chưa ? Mẹ cho con ăn món gì? “Ai mua áo cho con đây”? 
 + Từ 8h – 9h là giờ học chính thức , đây cũng là thời gian tôi dành nhiều thời gian trò truyện với các cháu nhiều hơn .Giờ hoạt động ngoài trời , cô có thể hỏi trẻ thời tiết hôm nay như thế nào? Ngoài ra, tôi còn cho trẻ đọc thơ, đọc ca dao, đồng dao khi trẻ chơi Trò chơi vận động, Trò chơi dân gian, hay trong trò chơi tự do tôi ra cùng nói chuyện với các em, trả lời những câu hỏi của trẻ và cố gắng sửa sai những từ ngữ trẻ nói chưa chính xác, yêu cầu trẻ nói đi nói lại từ khó để trẻ có thể nhớ lâu hơn.
 - Trong giờ học chính, giờ học thể dục, các hoạt động ngoài trời, hoạt động góc thậm chí là cả giờ ra chơi.Cô và trẻ cùng tạo ra tình huống hay một câu chuyện nào đó rồi cùng trò chuyện với trẻ một cách vui vẻ và thân thiện. 
 Giải pháp3: Vai trò của giáo viên trong định hướng tổ chức cho trẻ.
Đối với giáo viên cần phải nâng cao trình độ chuyên môn, luôn học tập qua sách báo, nắm bắt sự đổi mới của quá trình hoạt động để trẻ có kiến thức sâu đáp ứng được yêu cầu ham học hỏi các bài tập sáng tạo của trẻ.
Luôn có ý tìm tòi và sưu tầm những bài tập hay lạ, những đề tài khám phá để hướng trẻ quan sát thử nghiệm .
Sáng tạo trong đồ dùng đồ chơi với các nguyên vật liệu đơn giản, gần gũi xung quanh trẻ mà hiệu quả và nâng cao yêu cầu từ nguyên vật liệu tạo hình đó.
Luôn có hướng thay đổi cách hướng dẫn đồ dùng đồ chơi, nguyên vật liệu mới mẻ, phong phú để tạo hứng thú thu hút trẻ tham gia hoạt động.
Nắm bắt được ý trẻ, tôn trọng ý kiến của trẻ dựa vào ý trẻ để giúp trẻ phát triển theo mục tiêu chương trình chăm sóc giáo dục mầm non mới.
Cô luôn tạo cơ hội để trẻ nói theo suy nghĩ của mình.
 Giải pháp 4: Phối hợp với phụ huynh trong việc giúp trẻ làm quen với tiếng việt.
 Trong các lớp học ở trường mầm non có nhiều nhóm trẻ em, giáo viên cần phối hợp tốt với cả cha mẹ các trẻ em, để phối hợp tốt được với cha mẹ, trước hết giáo viên cần hiểu mối quan tâm của họ khi đưa con đến trường, con họ đến lớp sẽ học được những điều gì? Nên tôi thường tận dụng những buổi họp phụ huynh học sinh hay tổ chức cuộc họp bất ngờ vào giờ trả trẻ, cùng phụ huynh bàn luận về vai trò rất lớn về tiếng việt. Động viên phụ huynh dành nhiều thời gian hơn cho các con của mình, cùng Cô giáo chủ nhiệm dạy cháu thuộc bài hát bài thơ, bài nào cháu chưa thuộc hay khó đọc phụ huynh có thể nhờ tới cô giáo hướng dẫn và dạy lại cho cháu, nhiều nhà phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn nên tôi chủ động tự bỏ tiền mua sách truyện gửi cho phụ huynh, nhờ sự nhiệt tình của Cô nhiều phụ huynh học sinh rất vui và kết hợp với giáo viên rất tốt. 
 - Phối hợp thực hiện chương trình giáo dục trẻ
 - Tham gia xây dựng kế hoạch giáo dục của nhà trường, của nhóm/ lớp.
 - Cha mẹ tham gia vào các hoạt động thực hiện các nội dung giáo dục trẻ phù hợp với chương trình, cụ thể là:
 + Tạo điều kiện giúp trẻ được tự do tìm tòi khám phá trong môi trường an toàn theo khả năng và sở thích của mình để trở thành đứa trẻ tò mò, sáng tạo, tự tin và luôn được hạnh phúc và sở thích của mình để trở thành đứa trẻ tò mò, sáng tạo, tự tin và luôn được hạnh phúc vì mọi người xung quanh yêu thương, gần gũi trẻ.
 + Chú ý lôi cuốn các thành viên trong gia đình, đặc biệt các thành viên là nam giới ông, bố, anh, chú, bác tham gia vào việc chăm sóc và dạy trẻ.
 + Khuyến khích cha mẹ các cháu người dân tộc thiểu số khi ở nhà cố gắng thường xuyên nói tiếng việt với các cháu, quan tâm hơn nữa tình học tập của con mình.
* Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
 Các giải pháp và biện pháp trên đều có mối quan hệ chặt chẽ và không thể tách rời nhau, trẻ mầm non là lứa tuổi vừa học vừa chơi nên ta không thể ép buộc trẻ vào tình thế mà trẻ không thích vì vậy: việc dạy Tiếng việt cho trẻ cần phải thông qua các quá trình học và chơi và cần phải có sự kết hợp khéo léo giữa cô và trò, giữa phụ huynh và giáo viên, giữa phụ huynh và các cháu, để có thể giúp trẻ phát triển một cách tốt nhất.
* Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học các vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng :
Dưới đây là kết quả tôi đã nghiên cứu từ những kinh nghiệm mình đúc kết được trong việc dạy trẻ học Tiếng việt 
* Bảng so sánh kết quả đầu năm và cuối năm
Nội dung khảo sát
Đầu năm
Cuối năm
Tỉ lệ tăng so với dầu năm
Đạt
Chưa đạt
Đạt
Chưa đạt
Số
trẻ
Tỉ lệ
(%)
Số
trẻ
Tỉ lệ
(%)
Số trẻ
Tỉ lệ
(%)
Số trẻ
Tỉ lệ
(%)
Phát triển nhận thức
10
26
29
74
37
95
2
5
74
Phát triển ngôn ngữ
13
33
23
67
37
95
2
5
67
Phát triển thẩm mỹ
14
36
23
64
36
92,3
3
7,7
64
Phát triển tình cảm- xã hội 
15
38
24
62
38
97,5
1
2,5

Tài liệu đính kèm:

  • docxSKKN 2018 CAO HANH (1).docx