Giáo viên bộ môn cần có ý thức cao trong việc góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Mỗi GV nên thường xuyên tích lũy những kinh nghiệm hay, có nhiều lợi ích trong việc dạy- học. Để đạt hiệu quả mong muốn khi vận dụng đề tài thì mỗi người chúng ta phải kiên trì trong suốt quá trình dạy để hướng dẫn học sinh.
Để tiếp tục hoàn thiện vấn đề nghiên cứu trong đề tài chúng ta lại cần dành thời gian, công sức đáng kể để nghiên cứu kỹ hơn sách giáo khoa, sách tham khảo và các tài liệu, kiến thức khác.
Với HS, đối tượng quan trọng nhất, HS sẽ là người thể hiện kết quả đạt được của đề tài, thì cần điều kiện mang tính quyết định: HS phải là người có ý thức đối với việc học tập của bản thân, chăm, ngoan, có tinh thần hợp tác. Với số ít HS rơi vào tình trạng không thèm nghe, bàng quang, không chịu học, đạo đức chưa khá tốt,. thì GV khó để đạt được hiệu quả mong muốn.
Như vậy, để thực hiện và thành công đề tài, cần tổ hợp các điều kiện cả về phía GV lẫn HS.
c đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức, những hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành... . Khi học tập môn hóa học HS sẽ hiểu, giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hóa quy lại giữa các chất hay các phản ứng hoá học... Đồng thời cung cấp kiến thức làm nền tảng, cơ sở phát huy tính sáng tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Hóa học góp phần giải tỏa, xóa bỏ những hiểu biết sai lệch làm hại đến đời sống, tinh thần của con người... - Để đạt được mục đích của học hoá học trong trường phổ thông thì giáo viên dạy hóa học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài những hiểu biết về hoá học, người giáo viên dạy hoá học còn phải có phương pháp dạy học thu hút, gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức, làm cho HS thấy dễ hiểu, áp dụng làm được bài tập,... Do đó GV phải giúp HS giải quyết tốt các dạng bài tập tính toán, trước khi giải quyết thì phải phân dạng được bài tập, có cách giải phù hợp với dạng toán, tuy nhiên trong chuyên đề này chúng tôi chỉ đưa ra vấn đề một dạng về áp dụng định luật bảo toàn khối lượng để giải nhanh một số bài tập hoá học ở trung học cơ sở. 2. Thực trạng a. Thuận lợi, khó khăn - Thuận lợi: Các bài kiểm tra định kì, học kì của bộ môn Hóa học được nhà trường, các học sinh lưu giữ tương đối đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu phân tích, minh chứng. Các giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn khác đã tạo điều kiện để công việc điều tra, thu thập số liệu, đối chứng hiệu quả khi áp dụng đề tài. Các giáo viên giảng dạy bộ môn Hóa học ở trường THCS Buôn Trấp đều thực sự có trách nhiệm, hứng thú cùng hỗ trợ cung cấp cho chúng tôi tư liệu, số liệu, tình hình thực tế liên quan đến đề tài nghiên cứu. Các GV đã tạo điều kiện để kiểm nghiệm, đối chứng qua các tiết dạy, các bài kiểm tra 15 phút tại lớp mình dạy. - Khó khăn: Trong số những học sinh học yếu môn Hóa có một tỷ lệ đáng kể các em lại lười học, chưa ngoan. Do vậy gây trở ngại cho việc thực hiện đề tài. Một số học sinh không quan tâm nhiều đến mục đích của vấn đề mà GV áp dụng, về nhà thì không chịu tự ôn tập, thực hiện yêu cầu của GV, và cuối cùng, kết quả nghiên cứu đối với số HS này là không có giá trị để kết luận. Khi áp dụng đề tài, một trở ngại không nhỏ là số tiết luyện tập chưa nhiều, học sinh học 2 buổi thì không được học thêm môn hóa học nên việc ôn tập, đinh hướng phân loại các dạng toán cho học sinh chưa được thường xuyên, đầy đủ. Thực tế trong đội ngũ các GV giảng dạy môn Hóa học ở trường THCS, vẫn còn 1 số ít GV chưa thật sự nhiệt tình để khắc phục khó khăn giúp học sinh nắm bắt được nhiều cách giải bài toán để học sinh thấy rõ tác dụng khi vận dụng định luật bảo toàn khối lượng. b. Thành công, hạn chế - Thành công: Đề tài đã chỉ rõ: nếu GV dạy Hóa học chịu khó đưa ra được bài toán có nhiều cách giải thường xuyên thì học sinh chắc chắn phân loại bài toán nhanh hơn, biết vận dụng định luật một cách hiệu quả thì mang lại hiệu quả dạy học cao hơn. Cụ thể là nhiều HS làm được nhiều các dạng BT thì biết cách giải và biết cách giải nhanh, ngắn gọn, dễ hiểu từ đó góp phần nâng cao chất lượng đại trà (thể hiện ở điểm kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì cao hơn) - Hạn chế: Quy mô thực hiện, nghiên cứu đang chỉ giới hạn ở trường THCS Buôn Trấp, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk – nơi có điều kiện thuận lợi hơn các trường trong huyện. Do đó đề tài chưa tìm hiểu hiệu quả thu được khi áp dụng ở các môi trường giáo dục khác. c. Mặt mạnh, mặt yếu - Mặt mạnh: Nội dung, giải pháp, biện pháp thực hiện đề tài tương đối thiết thực, thường gặp, dễ vận dụng trong thực tế giảng dạy Hóa học. Mỗi GV đều ít nhiều áp dụng được vào công việc của mình.. - Mặt yếu: Mới chỉ nghiên cứu cụ thể ở một dạng toán là vận dụng định luật bảo toàn khối lượng nên nội dung chưa được phong phú, chưa mở rộng kiến thức ở nhiều dạng khác. d. Nguyên nhân, các yếu tố tác động: - Những thành công mà đề tài thu được là nhờ những nội dung của biện pháp thực hiện được chúng tôi nung nấu, đặt nền móng từ lâu. Từ đó đến nay, chúng tôi đã dần dần trao đổi, triển khai đến các GV dạy Hóa học trong nhà trường trong các cuộc sinh hoạt chuyên môn của tổ. Mỗi GV đều nhất trí thực hiện những nội dung đã thống nhất chung. Cuối mỗi học kì, năm học chúng tôi tổng hợp để rút ra nhiều nhận xét, đánh giá, đồng thời điều chỉnh một số nội dung chưa phù hợp. Nói tóm lại, những số liệu trong đề tài là số liệu thực, có thể tin tưởng, những vấn đề đưa ra và được giải quyết, những kết luận có trong đề tài là kết quả của 1 quá trình nghiên cứu với khoảng thời gian đảm bảo. - Đề tài vẫn còn một vài hạn chế nhất định bởi cái nhìn của người nghiên cứu chưa thể toàn diện, trong quá trình thực hiện có những phát sinh không theo hướng mong đợi. Những nguyên nhân khách quan như áp lực công việc nặng nề, đối tượng HS chưa thật hợp tác cũng tạo ra những tồn tại nêu trên. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra: Thứ nhất, thực trạng về chất lượng học tập bộ môn Hóa học trong nhà trường nói riêng: Số lượng HS điểm yếu, kém môn Hóa học (các bài kiểm tra định kì, học kì, điểm trung bình môn) còn không ít, có lớp tỉ lệ này là trên dưới 15%. Ý thức học tập của một số em còn nhiều vấn đề phải quan tâm: lười học bài cả trên lớp lẫn ở nhà, ít khi làm bài tập về nhà, các em này yếu cả các môn tự nhiên khác như toán, lý,.. Ở lớp 8 khi học xong định luật bảo toàn khối lượng học sinh làm một vài ví dụ đơn giản là tìm khối lượng của 1 chất trong phản ứng có n chất khi biết khối lượng của (n-1) chất trong phản ứng và sau đó hầu như không nhắc gì đến định luật này mặc dù từ phần tính theo phương trình hoá học trở đi có nhiều bài toán có thể áp dụng định luật này nhưng cả giáo viên và học sinh chủ yếu sử dụng cách làm thông thường như sách giáo khoa hướng dẫn mà quên mất cách kết hợp định luật bảo toàn khối lượng, khi lên lớp 9 có nhiều bài toán khó ( dạng tìm tên kim loại, toán hỗn hợp, tăng giảm khối lượng...) nếu giải theo cách bình thường thì rất là dài dòng, khó hiểu nhưng biết vận dụng định luật bảo toàn khối lượng thì lại nhẹ nhàng, dễ hiểu hơn mà cũng ngắn gọn hơn. Lúc này muốn vận dụng định luật bảo toàn khối lượng thì giáo viên lại mất thời gian nhắc lại định luật, cách vận dụng định luật và có thể phải giảng bài toán vài lần học sinh mới nhớ lại, biết cách vận dụng định luật bảo toàn khối lượng. Thứ hai, vấn đề dạy của giáo viên vẫn còn ít nhiều hạn chế, cụ thể: còn có GV chưa thật tâm huyết, giảng dạy thiếu nhiệt tình trên lớp, giảng còn khó hiểu. Qua dự giờ, đánh giá một số tiết dạy, chúng tôi còn nhận ra có GV còn chủ quan giảng lại bài tập cho học sinh mà không chỉ cho học sinh thấy có một số bài toán thì có thể giải bằng nhiều cách khác nhau trong đó có cách là vận dụng định luật bảo toàn khối lượng . 3. Giải pháp, biện pháp a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Mục tiêu của các giải pháp, biện pháp chúng tôi đưa ra trong đề tài gồm: - Giúp các đồng nghiệp cùng giảng dạy bộ môn Hóa học trên địa bàn huyện Krông Ana giúp học sinh biết vận dụng định luật bảo toàn khối lượng vào giải quyết một số bài tập hóa học một cách hiệu quả. - Đề tài mong muốn tạo ra một diễn đàn nhỏ, cụ thể về 1 chủ đề để các GV cùng trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, vận dụng những vấn đề phù hợp để áp dụng vào công việc hàng ngày của mình: dạy học môn Hóa học. - Góp phần nâng cao chất lượng đại trà của HS, đặc biệt chất lượng môn Hóa học. Giảm tỉ lệ HS học yếu môn Hóa học. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Thường khi giáo viên dạy xong bài này, ngoài những bài áp dụng ngay dạng toán tìm khối lượng một chất khi biết khối lượng của n-1 chất trong phản ứng hoá học và hầu như suốt thời gian còn lại của lớp 8 giáo viên ít sử dụng đến định luật bảo toàn khối lượng để hướng dẫn học sinh làm bài tập tính theo phương trình hoá học. Đối với kinh nghiệm của bản thân, tôi thường làm như sau: - Trước hết phải yêu cầu học sinh hiểu về nội dung định luật bảo toàn khối lượng. Định luật: " Trong phản ứng hoá học tổng khối lượng các chất sản phẩm bằng tổng khối lượng các chất tham gia phản ứng". Nội dung định luật tương đối dễ hiểu nên học sinh sẽ không mất nhiều thời gian để học hiểu và thuộc nhưng để vận dụng được nó thì không phải học sinh nào cũng hiểu được. - Một số áp dụng của định luật: CT 1/ mA + mB = mC + mD CT2/ Gọi khối lượng của các chất trước phản ứng là mT Gọi khối lượng của các chất sau phản ứng là mS Dù phản ứng đủ hay dư thì ta vẫn có: mS =mT - Đa số giáo viên và học sinh khối 8 sau khi học xong thường vận dụng ít ở những dạng toán đơn giản là tìm khối lượng của một chất khi biết khối lượng của (n-1) chất. Ví dụ: 1/ Cho 4,8 gam magiê (Mg) tác dụng với oxi (O2) thu được 8 gam magiê oxit (MgO). a/ Lập phương trình hoá học b/ Tìm khối lượng oxi đã phản ứng. Giải: a/ PTHH: 2Mg + O2 2MgO b/ Áp dụng định luật BTKL ta có: mMg + m= mMgO => m= 8-4,8 = 3,2 gam 2/ Cho 5,4 gam nhôm (Al) tác dụng với 29.4 gam axit sunfuric (H2SO4) thu được muối nhôm sunfat (Al2(SO4)3) và 0.6 gam hidro. a/ Lập phương trình hoá học. b/ Tính khối lượng muối nhôm sunfat thu được. Giải a/ 2Al + 3H2SO4 Al2(SO4)3 + 3H2 b/ Áp dụng định luật BTKL ta có: mAl + m = mAl2(SO4)3 + mH2 => mAl2(SO4)3 = mAl + m - mH2 = 5.4 + 29.4 -0.6= 34.2 gam Thường sau khi vận dụng định luật để hướng dẫn học sinh làm các bài tập trên thì thời gian sau giáo viên và học sinh ít dùng hay ít vận dụng định luật có khi thời gian sau lãng quên mất nhưng đối với tôi thì khi đến dạng toán " Tính theo Phương trình hoá học" tôi tiếp tục hướng dẫn học sinh vận dụng định luật BTKL để giải nhanh một số bài tập mà khi dùng ĐLBTKL lại dễ hiểu và học sinh thấy hứng thú khi biết áp dụng định luật BTKL vào bài tập phức tạp. Ví dụ: Ở hóa học 8: BT 1/ Cho 9,2 gam một kim loại hoá trị I tác dụng với khí oxi dư (O2) thu được 12,4 gam oxit. Tìm tên kim loại Đối với dạng này thường áp dụng cho học sinh khá, giỏi. Nhưng ban đầu học sinh mới gặp dạng này lần đầu thì sẽ thấy khó làm, giáo viên trên lớp thường hướng dẫn học sinh tìm số mol của kim loại, sau đó suy ra số mol oxit, rồi tìm khối lượng mol (M) của oxit theo công thức M =m/n rồi trừ khối lượng oxi suy ra khối lượng mol của M. Ngoài cách này giáo viên nên hướng dẫn học sinh cách áp dụng định luật bảo toàn khối lượng để học sinh biết tận dụng các kiến thức đã học vào giải bài tập. Cách giải: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh - Sau khi học sinh viết xong PTHH thì giáo viên có thể hỏi: Qua PTHH trên em thấy tổng số các chất tham gia và sản phẩm trong này là bao nhiêu? - Đề bài đã cho khối lượng mấy chất? - Khi đọc đề bài em thấy bài toán cho khối lượng của 2 chất trong tổng số có 3 chất thì em sẽ dùng cách nào để tính khối lượng chất kia dễ dàng nhất? - Khi đọc đề bài xong em viết PTHH sau đó nếu em thấy bài toán cho khối lượng của (n-1) chất trong tổng n chất thì cách giải đầu tiên em hãy nghĩ ngay tới là định luật bảo toàn khối lượng nếu thấy không được thì hãy dùng cách khác. -Em gọi tên kim loại là gì? - Em hãy viết PTHH - Bây giờ em tính được khối lượng chất nào khi áp dụng ĐLBTKL? - Em tính được số mol oxi không? - Em đưa số mol oxi vào PTHH và tính xem số mol A là bao nhiêu? - Em có số mol A, có khối lượng A thế em tìm được tên A không? - Học sinh trả lời ngay là 3 chất. - 2 chất - Dùng định luật bảo toàn khối lượng. - Hs chú ý để tích lũy kinh nghiệm Gọi tên kim loại là A 4 A + O2 2A2O -Hs thấy dễ dàng tìm khối lượng oxi m= m- mA = 12,4 – 9,2 = 3,2 gam - Hs sẽ tính được số mol oxi theo CT n= m/M= mol - Theo PTHH: Số mol A bằng 0,4 mol - Tìm được tên A dựa vào khối lượng mol Gv có thể giảng kỹ bài toán theo hướng giải này như sau: Gọi tên kim loại là A PTHH: 4 A + O2 2A2O 4 1 2 0.4 0.1 0.2 Theo định luật bảo toàn khối lượng ta có: m= m- mA = 12,4 – 9,2 = 3,2 gam Số mol oxi là: n= mol Theo PTHH ta thấy nA = 0.4 mol Khối lượng mol của A là: M=gam. Suy ra A là Na Tương tự cách làm trên tôi có thể đưa thêm một số bài tập để học sinh áp dụng. Vì là học sinh lớp 8 mới làm quen với hoá học, mới biết dạng toán này nên đề bài phải thật dễ hiểu, dễ áp dụng để khuyến khích học sinh. Ví dụ BT 2/ Cho 4 gam kim loại hoá trị II tác dụng hết với khí clo (Cl2) thu được 11.1 gam muối. Tìm tên kim loại. BT3/ Cho 10.8 gam kim loại hoá trị III tác dụng hết với khí oxi (O2) thu được 20.4 gam oxit. Tìm tên kim loại. BT4/ Cho 3.2 g phi kim hóa trị IV tác dụng hết với oxi (O2) thu được 6.4 g oxit. Tìm tên phi kim. Sau đó học đến chương oxi thì cũng có thể dùng các bài tập như ví dụ 1 vừa củng cố lại tính chất hoá học của oxi vừa nhớ được định luật bảo toàn khối lượng. Và đối với lớp 9 có rất nhiều dạng bài tập nếu giải theo các bước bình thường thì nhìn thấy dài dòng và có thể khó hiểu, ta có thể giải nhanh bằng cách áp dụng định luật bảo toàn khối lượng, hoặc đối với giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi thì lại càng nhiều dạng bài tập có thể giải nhanh bằng cách áp dụng định luật bảo toàn khối lượng. Ví dụ: 1/ Bài tập 5 trang SGK Hoá học 9: Hoà tan 9,2 gam kim loại A hoá trị I tác dụng với khí clo dư thu được 23,4 gam muối. Tìm tên kim loại Cách 1: Ta giải theo các bước bình thường: PTHH: 2A + Cl2 2ACl 2 1 2 Số mol của A là: nA= Theo PTHH ta thấy số mol ACl = Khối lượng mol của ACl là: Ta có: A + 35,5 = 2,54 A ó 1,54 A = 35,5 => A= 23 Vậy A là Na Cách 2: 2A + Cl2 2ACl 2 1 2 0.4 0.2 0.4 Theo định luật bảo toàn khối lượng ta có: m= m- mA = 23.4 – 9,2 = 14.2 gam Số mol clo là: n= mol Theo PTHH ta thấy nA = 0.4 mol Khối lượng mol của A là: M=gam. Suy ra A là Na BT 2/ Hoà tan hết 10 gam chất rắn X gồm: Mgo, CuO, Al2O3 cần vừa đủ 300 ml dung dịch H2SO4 1M. Cô cạn dung dịch sau phản ứng thu được bao nhiêu gam hỗn hợp muối khan? Giải bài toán: Bài toán này thường dùng cho học sinh khá, giỏi lớp 9. Ban đầu học sinh mới đọc sẽ thấy khó vì có 3 oxit tham gia phản ứng, 3 PTHH mà chỉ có 2 số liệu vì học sinh có thói quen lập PTHH, tìm số mol của từng chất rồi mới tìm được khối lượng. Nếu các em giải toán theo cách tính thông thường thì rất khó. Gv định hướng cho học sinh những dạng toán này ta nên áp dụng định luật bảo toàn khối lượng thì sẽ dễ hiểu hơn và học sinh sẽ không thấy khó khăn khi giải bài tập hóa học mà ngược lại sẽ thấy hứng thú hơn. Gv hướng dẫn cho học sinh là yêu cầu của bài toán là tính khối lượng muối khan do đó mình có thể áp dụng định luật BTKL như sau: PTHH: MgO + H2SO4 MgSO4 + H2O CuO + H2SO4 CuSO4 + H2O Al2 O3 + 3H2SO4 Al2( SO4)3 + 3H2O Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh Từ số liệu bài toán cho em tìm được số mol chất nào? Nếu áp dụng định luật BTKL thì em sẽ có phương trình khối lượng như thế nào? Em đã có khối lượng của chất nào rồi? Em tìm khối lượng chất nào nữa? Theo pthh em thấy số mol axit và số mol nước như thế nào? Số mol nước là bao nhiêu? Tính khối lượng nước được không? Em đã tính được khối lượng muối chưa? - Số mol của axit là: 0.3x1= 0,3 mol - HS: mX + maxit = mmuối + mnước mX = 10 gam m axit = 0.3x98 =29.4 gam -Khối lượng nước Số mol axit = số mol nước Số mol nước = 0,3 mol m nước = 0.3 x 18 = 5.4 g mmuối = mx + maxit - mnước = 10+ 29.4-5.4 = 34 gam GV hướng dẫn học sinh trình bày lại bài, học sinh sẽ thấy bài rất ngắn gọn, dễ hiểu: Số mol của axit H2SO4 là: 0.3x1= 0,3 mol Áp dụng ĐLBTKL ta có: mX + maxit = mmuối + mnước Theo đề bài: mX = 10 gam Khối lượng axit là: m axit = 0.3x98 =29.4 gam Theo PTHH ta thấy số mol axit = số mol nước= 0.3 mol Khối lượng nước là: m nước = 0.3 x 18 = 5.4 g Vậy khối lượng muối là: mmuối = mx + maxit - mnước = 10+ 29.4-5.4 = 34 gam BT 3/ Hoà tan 18,4 gam hỗn hợp X gồm 2 kim loại hoá trị II và III trong dd HCl vừa đủ thu được dung dịch (dd) Y và khí Z. Đốt cháy hoàn toàn lượng khí Z thu được 9 gam nước. Cô cạn dd Y thu được bao nhiêu gam muối khan. Đây cũng là một bài toán khó dùng cho học sinh khá giỏi. Bài tập này có thể giải theo nhiều cách khác nhau nhưng áp dụng định luật BT KL để giải là dễ hiểu nhất. Tôi thường hướng dẫn học sinh giải như sau: Yêu cầu hs gọi tên kim loại, viết PTHH Gọi tên kim loại hóa trị II, III lần lượt là A, B Ta có PTHH: A + 2HCl ACl2+ H2 2B + 6HCl 2BCl3 + 3H2 Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh Đốt cháy khí Z thì xảy ra phản ứng gì? Em hãy tính số mol của nước Số mol H2 là bao nhiêu? Nếu dùng định luật BTKL để tìm khối lượng muối em làm như thế nào? Em phải tìm khối lượng chất nào nữa? Nhìn vào PTHH em thấy số mol axit với số mol H2 như thế nào? Em tính khối lượng axit, hidro rồi từ đó tìm khối lượng muối theo định luật BTKL - Hidro tác dụng với oxi 2H2 + O2 -> 2H2O - Số mol của nước là: n H2O = mol - Số mol nước = số mol H2 = 0,5 mol mKL + max = mmuối + mHidro => mmuối= mKL + max - mHidro - khối lượng axit - 2 x Số mol H2 = số mol axit => Số mol axit = 0,5 x 2 = 1 mol Khối lượng H2 là: 0,5x2 = 1 gam Khối lượng axit là: 1x36,5 = 36,5 gam Khối lượng muối là: m muối = 18,4 + 36,5 – 1=53,9 g Hướng dẫn giải BT đầy đủ: A + 2HCl ACl2+ H2 2B + 6HCl 2BCl3 + 3H2 2H2 + O2 -> 2H2O 0,5 0,5 - Số mol của nước là: n H2O = mol -Theo PTHH số mol nước = số mol H2 = 0,5 mol Theo ĐLBTKL ta có: mKL + max = mmuối + mHidro => mmuối= mKL + max - mHidro Theo PTHH ta thấy: số mol axit = 2 x số mol H2 => Số mol axit = 0,5 x 2 = 1 mol Khối lượng H2 là: 0,5x2 = 1 gam Khối lượng axit là: 1x36,5 = 36,5 gam Khối lượng muối là: m muối = 18,4 + 36,5 – 1=53,9 g BT4/ Hỗn hợp chất rắn X gồm kim loại hóa trị I và oxit của nó. Cho 23,2 gam X vào nước dư thu được 32gam bazơ Y và 2,24 lit khí (ĐKTC). Tìm CTHH của X Nếu giáo viên nào thường xuyên hướng dẫn học sinh làm bài tập hóa học thì thấy ngay bài này nếu dùng phương pháp hóa học bình thường thì giải rất dài, khó hiểu nhưng nếu dùng định luật BTKL thì nhanh, dễ hiểu. Giáo viên định hướng cho học sinh khi gặp dạng toán này thì dùng ĐLBTKL giải sẽ nhanh và dễ hơn. Giải cụ thể: Gọi tên kim loại là A thì chất rắn X: A, A2O 2A + 2H2O ->2 AOH + H2 (1) 0.2 0.2 0.2 0.1 A2O + H2O -> 2AOH (2) 0.3 0.6 Số mol H2 là: mol Khối lượng H2 là; 0,1 x 2 = 0.2 g Theo định luật BTKL thì khối lượng nước tham gia phản ứng = mY + m H2 - mx =32 +0,2-23,2 = 9 gam Số mol nước là: mol => Số mol nước phản ứng với A2O là: 0.5-0.2=0.3 mol Số mol AOH ở 2 phản ứng: 0.2 +0.6 =0.8 mol MAOH = gam=> A =40 – 17 = 23 Vậy A là Na Trên đây chỉ là một số dạng bài tập hướng dẫn học sinh biết vận dụng định luật bảo toàn vào giải bài tập, thực tế còn nhiều bài tập có thể áp dụng nhất là trong quá trình ôn thi học sinh giỏi giáo viên sẽ phải hướng dẫn học sinh vận dụng định luật BTKL nhiều hơn. c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp - Giáo viên bộ môn cần có ý thức cao trong việc góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Mỗi GV nên thường xuyên tích lũy những kinh nghiệm hay, có nhiều lợi ích trong việc dạy- học. Để đạt hiệu quả mong muốn khi vận dụng đề tài thì mỗi người chúng ta phải kiên trì trong suốt quá trình dạy để hướng dẫn học sinh. Để tiếp tục hoàn thiện vấn đề nghiên cứu trong đề tài chúng ta lại cần dành thời gian, công sức đáng kể để nghiên cứu kỹ hơn sách giáo khoa, sách tham khảo và các tài liệu, kiến thức khác. Với HS, đối tượng quan trọng nhất, HS sẽ là người thể hiện kết quả đạt được của đề tài, thì cần điều kiện mang tính quyết định: HS phải là người có ý thức đối với việc học tập của bản thân, chăm, ngoan, có tinh thần hợp tác. Với số ít HS rơi vào tình trạng không thèm nghe, bàng quang, không chịu học, đạo đức chưa khá tốt,... thì GV khó để đạt được hiệu quả mong muốn. Như vậy, để thực hiện và thành công đề tài, cần tổ hợp các điều kiện cả về phía GV lẫn HS. d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp - Giải pháp về phía GV (nghiên cứu kiến thức, định hướng, gợi mở, tổ chức hoạt động tích hợp...) là điều kiện đầu tiên để thực hiện được mục đích của đề tài, giải pháp này m
Tài liệu đính kèm: