ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Toàn cầu hóa đã và đang tạo nên xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội
phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức. Một trong những vấn đề cấp
thiết được Nhà nước quan tâm chỉ đạo đó là: chú trọng giáo dục ý thức bảo tồn và
phát huy một số giá trị văn hóa cho thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước.
Vậy, làm thế nào để giáo dục học sinh ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kì hội nhập quốc tế? Đây là vấn
đề cần được nghiên cứu để có những định hướng đúng đắn cho con đường phát
triển của dân tộc, mà trách nhiệm trước hết là của người làm giáo dục.
Nhằm góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh về tất cả các mặt như
đức, trí, thể, mỹ đồng thời gìn giữ và phát huy giá trị của di sản văn hoá và
truyền thống tốt đẹp dân tộc Việt Nam, ngày 26 tháng 8 năm 2016 Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị Số: 3031/QĐ-BGDĐT về nhiệm vụ chủ yếu năm
học 2016 - 2017 trong đó chỉ thị nêu rõ “Giáo dục phổ thông chú trọng giáo dục
đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, ý thức, trách nhiệm của công dân đối với xã
hội, cộng đồng”. Đồng thời Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đã có kế hoạch hướng dẫn đưa Giáo dục Di sản vào nội dung dạy học ở
trường phổ thông, từ đó thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện
đa dạng hóa các hình thức dạy học, khuyến khích học sinh tham gia trải nghiệm
sáng tạo “Sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm
GDTX nhằm hình thành và nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn, phát huy những
giá trị của di sản văn hóa; rèn luyện tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong đổi
mới phương pháp học tập và rèn luyện; góp phần nâng cao chất lượng và hiệu
quả giáo dục, phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu, tài năng của học sinh”(Trích
hướng dẫn sử dung dạy học di dản trong trường Phổ thông 2013).
tồn giữ gìn và phát huy di sản văn hóa quê hƣơng từng bƣớc quảng bá cho du khách trong và ngoài nƣớc hiểu hơn về di tích lịch sử đặc biệt này. 3.2. Giáo dục “lòng tự hào dân tộc” thông qua tìm hiểu về trang phục truyền thống dân tộc trên địa bàn huyện 3.2.1 Giáo dục lòng tự hào dân tộc Từ bao đời nay, tinh thần yêu nƣớc và lòng tự hào dân tộc đã ngấm sâu vào huyết quản của mỗi ngƣời con đất Việt. Lòng tự hào dân tộc không chỉ là tình cảm tự nhiên mà nó còn là sản phẩm hun đúc từ chính lịch sử đau thƣơng mà hào hùng của dân tộc việt Nam. Đó là lịch sử đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập từ tay kẻ thù xâm lƣợc. 27 Trong khi sự hy sinh của các vị anh hùng bảo vệ biên cƣơng, giữ yên bờ cõi là khẳng định chủ quyền thiêng liêng của quốc gia, dân tộc thì trang phục truyền thống lại thể hiện sức mạnh tôn vinh giá trị văn hóa, gu thẩm mĩ riêng biệt không thể nhầm lẫn. Chƣa cần sử dụng đến ngôn ngữ giao tiếp bằng việc mặc trang phục truyền thống trong các dịp lễ tết mỗi cá nhân cũng góp phần giới thiệu tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của quốc gia của dân tộc. Vì vậy mỗi cá nhân cần chuẩn bị cho mình trang phục truyền thống để tôn vinh, quảng bá hình ảnh văn hóa dân tộc, điều đó thể hiện chúng ta biết trân trọng, yêu quý và giữ gìn, phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống trong đời sống hiện đại.Hiện nay có rất nhiều ngƣời còn chƣa nhận thức và làm đƣợc do ngày càng cập nhật và bị ảnh hƣởng của lối sống phƣơng Tây hay các quốc gia khác Các em học sinh THPT trên địa bàn huyện trong những bộ trang phục truyền thống của ngƣời Thái, H’Mông, Khơ Mú đang tập thể dục càng trở nên đẹp và nổi bật. Là trƣờng học nằm trên địa bàn xã có nhiều dân tộc thiểu số, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa, đặc biệt là việc giáo dục, tuyên truyền cho học sinh mặc trang phục truyền thống luôn đƣợc nhà trƣờng chú trọng. Cứ vào ngày thứ Hai hằng tuần và dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, học sinh tại đây lại đồng loạt mặc bộ trang phục truyền thống. Việc này đã đƣợc nhà trƣờng duy trì từ nhiều năm nay, giúp các em tự tin, tự hào về bản sắc, truyền thống của dân tộc mình. Cô giáo Trƣơng Thị Lan, chủ tịch công đoàn trƣờng cho biết: Ngoài việc giảng dạy, học tập theo chƣơng trình chính khóa, nhà trƣờng còn lồng ghép, tích hợp nội dung tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc thiểu số vào từng môn học. Bên cạnh đó, các thầy cô giáo chủ động học tiếng Thái, tiếng Mông và tiếng Khơ Mú từ học sinh và ngƣời dân, thƣờng xuyên tổ chức các buổi ngoại khóa, trong đó các nội dung liên quan đến văn hóa ngƣời dân tộc đƣợc đặc biệt quan tâm. Do học sinh của trƣờng đều là ngƣời dân tộc thiểu số nên khi đƣợc giới thiệu về các phong tục tập quán hay tổ chức lễ hội truyền thống, các em rất hào hứng tham gia. Thông qua hoạt động ngoại khóa, những hoạt động sinh hoạt tập thể, giúp cho các em tái hiện bản sắc văn hóa của dân tộc mình, tạo sân chơi lành mạnh thu hút tham gia vào các hoạt động của trƣờng, lớp. Đây là một trong những cách giáo dục hiệu quả cho học sinh về nét đẹp văn hóa, biết bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đặc trƣng của dân tộc mình ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trƣờng. Em Lƣơng Ngọc Ánh, học sinh lớp 10, Trƣờng THPT Kỳ Sơn chia sẻ: Khi mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình, em thấy rất vui và tự hào về bản sắc văn hóa truyền thống. Thầy giáo Lê Văn Tảo, phụ trách đơn vị trƣờng THPT cho biết: Các học sinh đều mong muốn đƣợc mặc những bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình đến trƣờng. Tại các lớp học, nhà trƣờng có treo bộ trang phục truyền thống dân tộc để thƣờng xuyên lồng ghép giới thiệu về trang phục này, giúp các em 28 ghi nhớ những đặc điểm về cách may, cách thêu từng hoa văn, họa tiết, hiểu đƣợc ý nghĩa mà thế hệ đi trƣớc gửi gắm vào trang phục để từ đó biết trân trọng, bảo tồn cho mai sau. Việc mặc trang phục dân tộc trong các ngày thứ Hai hằng tuần và các ngày lễ lớn của đất nƣớc thật sự đã tạo sự hào hứng cho các học sinh, tạo cho các em niềm tự hào, mong muốn đƣợc tìm hiểu và giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Tại các trƣờng học, mỗi học sinh trong trang phục với nét hoa văn và màu sắc riêng thể hiện nét đẹp văn hóa của dân tộc mình. Mong rằng, bằng tình yêu với trang phục truyền thống, các học sinh sẽ biết nâng niu, giữ gìn nét đẹp văn hóa dân tộc để những nét đẹp ấy luôn sống mãi với thời gian. Tình yêu quê hƣơng đất nƣớc là một trong những truyền thống đƣợc thể hiện rõ rệt nhất cả trong quá khứ lẫn hiện tại. Thực tế khẳng định không có con sông nào chảy mãi nếu con ngƣời không biết khơi nguồn. Lòng tự hào dân tộc cũng vậy, nó có sẵn trong mỗi con ngƣời nhƣng có thể bị nguội lạnh nếu không đƣợc chăm lo nuôi dƣỡng. Giáo dục lòng tự hào dân tộc cho học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau nhƣ bài giảng trên lớp, học sinh tìm hiểu qua sách báo, tham gia hội thi hay tham quan trải nghiệm di tích lịch sử cách mạng. Những hoạt động trên nhằm tuyên truyền giáo dục lòng yêu nƣớc, lòng tự hào dân tộc giúp các em biết tin tƣởng vào truyền thống dân tộc, có bản lĩnh trí tuệ, có tình thƣơng trách nhiệm với bản thân, gia đình và quê hƣơng, đất nƣớc... Đối với các em học sinh lòng yêu nƣớc, tự hào dân tộc đƣợc thể hiện bằng tình cảm biết ơn, tin tƣởng vào truyền thống cách mạng của cha anh và biến tƣ tƣởng đó thành hành động nhƣ tích cực học tập, rèn luyện, cần cù, chăm chỉ, kiên trì chịu khó, phấn đấu là công dân có ích cho đất nƣớc. 3.2.2. Hiểu biết chung về trang phục truyền thống Trang phục truyền thống của dân tộc Thái - Huyện Kỳ Sơn Các nhóm ngƣời Thái nhƣ Thái Đen, Thái Trắng đều có nhiều điểm chung trong trang phục hằng ngày nhƣng trong đó, vẫn nổi bật bản sắc riêng để phân biệt. Một bộ trang phục truyền thống phụ nữ Thái gồm: áo ngắn (xửa cỏm), áo dài (xửa chái và xửa luổng), váy (xỉn), thắt lƣng (xải cỏm), khăn (piêu), nón (cúp), xà cạp (pepăn khạ), các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay và xà tích. Xửa cỏm (áo ngắn bó sát ngƣời có hàng cúc bƣớm) có thể may bằng nhiều loại vải với màu sắc khác nhau. Chính hàng khuy bạc hay kim loại đã làm cho xửa cỏm thành chiếc áo đặc trƣng của bộ nữ phục Thái. Theo quan niệm dân gian Thái, hai hàng cúc bạc trên hai vạt áo xửa cỏm là tƣợng trƣng cho sự kết hợp nam với nữ, tạo nên sự trƣờng tồn của nòi giống. Phụ nữ Thái còn mặc hai loại áo dài là xửa chái và xửa luổng. Xửa chái may bằng vải chàm đen, kiểu áo 5 thân, cài cúc phía bên tay trái, cổ đứng, gấu áo phủ quá đầu gối. Theo tục lệ, phụ nữ có chồng mới mặc xửa chải vào dịp 29 cƣới xin, hội hè. Xửa luổng là áo khoác ngoài, may dài, rộng, chui đầu, có tay hoặc không có tay. Phụ nữ Thái từ khi còn trẻ đã may loại áo này, một dành cho bản thân khi về già và một dành biếu mẹ chồng khi về làm dâu. Các cụ già mặc áo xửa luổng lộn trái vào ngày thƣờng, chỉ khi chết mới mặc mặt phải. Váy (xỉn) cùng với xửa cỏm tạo nên dáng nét chính của bộ nữ phục Thái. Phụ nữ Thái mặc váy hai lớp: váy trắng lót bên trong và và váy chàm mặc ngoài. Thắt lƣng (xài ẻo) làm bằng vải tơ tằm hay sợi bông màu xanh lam hoặc tím xẫm, giữ cho cạp váy quấn chặt lấy eo bụng. Nói về bộ trang phục nữ Thái không thể thiếu chiếc khăn Piêu. Chiếc khăn Piêu đƣợc các cô gái Thái thêu thùa rất cầu kỳ, với đƣờng nét tinh sảo và hoa văn mang đậm chất núi rừng hoang sơ cùng màu sắc sặc sỡ, thể hiện tình yêu, sức mạnh nữ tính. Đặc biệt, phụ nữ Thái khi đi lễ hội không thể thiếu chiếc khăn Piêu cầm tay. Ngoài ra, phụ nữ Thái rất thích đeo các đồ trang sức, nhƣ: Vòng cổ, vòng tay, hoa tai, trâm cài tóc, xà tích và cả cúc bạc. Sự khác biệt giữa nữ giới của dân tộc Thái Đen và Thái Trắng đƣợc thể hiện trong các dịp hội hè. Những dịp đó, phụ nữ Thái Trắng thƣờng mặc áo dài màu đen. Đây là loại áo dài thụng thân thẳng, không lƣợn nách, đƣợc trang trí bằng vải “khít” ở giữa thân có tua vải phủ từ vai xuống ngực, nách áo trang trí theo lối đáp hai mảng hoa văn trong bố cục hình tam giác. Phụ nữ chƣa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi trên đỉnh đầu. Họ có loại nón rộng vành. Trong khi đó, phụ nữa Thái Đen thƣờng mặc áo dài xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và màu mà mô-típ hơn Thái trắng. So với trang phục nữ, trang phục của nam ngƣời Thái đơn giản và ít chứa đựng sắc thái, gồm: Áo, quần, thắt lƣng và các loại khăn. Áo nam giới có hai loại: áo cánh ngắn và áo dài. Áo ngắn may bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực, tay dài hoặc ngắn, cổ tròn. Khuy áo làm bằng đồng hay tết thành nút vải. Áo không có trang trí hoa văn, chỉ trong dịp trang trọng ngƣời ta mới thấy nam giới Thái mặc tấm áo cánh ngắn mới, lấp ló đôi quả chì ở đầu đƣờng xẻ tà hai bên hông áo. Mặc dù có những nhóm ngƣời Thái khác nhau nhƣng nhìn chung trang phục của họ phần nào cũng thể hiện ảnh hƣởng của nhau. Tất cả đều rất tự hào về bản sắc riêng của mình và không ngừng bảo tồn, phát huy, phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tộc ngƣời, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam Tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Ẩn mình giữa non xanh nƣớc biếc thơ mộng của núi rừng phía tây nam huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An là những ngôi nhà gỗ đơn sơ, mộc mạc của ngƣời Thái Thanh bản Na, xã Hữu Lập. Mặc dù khí hậu vùng này rất khắc nghiệt với nhiều rủi ro thiên tai, nhƣng ngƣời dân nơi đây vẫn luôn nỗ lực để có cuộc sống lạc quan, bình yên và tràn ngập tiếng cƣời. Ngƣời Thái Thanh rất coi trọng kỹ năng dệt vải, thêu thùa, vì thế ngay từ khi còn nhỏ, các bé gái đã đƣợc bà và mẹ dạy cách làm quen để đến tuổi cập kê họ có thể tự dệt vải, may váy áo, chăn, màn và nhiều đồ vải khác để chuẩn bị 30 cho đám cƣới của chính mình. Trang phục truyền thống của phụ nữ Thái Thanh tại bản Na rất độc đáo và duyên dáng với khăn quấn đầu, áo, váy, thắt lƣng đƣợc trang trí vô cùng cầu kỳ, tinh xảo. Chiếc váy (Xỉn múc seo) là phần quan trọng nhất trong bộ trang phục, gồm ba phần: Cạp váy, thân váy và chân váy. Cạp váy (hua xỉn) cao khoảng 10cm bằng vải bông, màu đỏ tƣơi; Thân váy (Xỉn múc) dệt bằng sợi bông (Phái) nhuộm chàm, thƣờng đƣợc trang trí đơn giản với các đƣờng kẻ nhỏ màu đỏ trầm hoặc vàng; Chân váy (Xỉn xeo) đƣợc bố cục đa dạng với nhiều dải hoa văn trang trí đan xen nhiều hình dạng khác nhau. Chân váy có màu sắc chủ đạo là đỏ, cam, vàng, trắng, xanh lá cây và đƣợc dệt bằng chất liệu tơ tằm. Trang phục truyền thống của dân tộc H’Mông - Huyện Kỳ Sơn Trang phục truyền thống là một nét văn hóa đặc sắc của ngƣời Mông miền Tây Nghệ An. Nếu nhƣ ngƣời Thái và ngƣời Khơ Mú có những điểm giống nhau về trang phục thì ngƣời Mông lại khác hẳn. Từ xa xƣa, bộ trang phục truyền thống này luôn đƣợc lƣu giữ trong cộng đồng và đƣợc ngƣời Mông sử dụng trong các dịp lễ hội. Ngày nay, tuy trang phục có nhiều cách tân mới để phù hợp với xu thế nhƣng về cơ bản vẫn giữ đƣợc những nét đặc sắc riêng từ hoa văn trang trí đến cách mặc. Trang phục truyền thống làm nên nét duyên cho các thiếu nữ ngƣời H’Mông. Chiếc mũ của phụ nữ H’Mông đƣợc làm và trang trí rất cầu kỳ. Ngày xƣa, các chàng trai H’Mông thƣờng tuyển chọn các cô gái đẹp về làm vợ, những “hoa khôi” thƣờng đƣợc đội chiếc mũ có nhiều tua và hoa văn nhƣ vậy. Vì thế ngày nay, thiếu nữ Mông vẫn đội chiếc mũ này để thể hiện vẻ đẹp của mình. Ngƣời phụ nữ H’Mông giữ vai trò truyền giữ trang phục truyền thống của đồng bào mình. Các hoa văn, họa tiết trên váy áo của ngƣời H’Mông cơ bản đƣợc thêu thủ công. Ngoài thêu nhiều màu sắc và trang trí các dải lụa, trang phục của phụ nữ ngƣời H’Mông còn đƣợc đính các đồng xu bằng bạc xung quanh thắt lƣng. Theo quan niệm ngƣời H’Mông, ngày trƣớc, ngƣời phụ nữ H’Mông thƣờng thách cƣới bằng bạc nén, ngƣời phụ nữ nào có nhiều đồng xu bằng bạc là ngƣời phụ nữ xinh đẹp, có giá trị. Váy có 2 dải lụa xanh và đỏ quấn quanh lƣng. Loại vải nải màu này thể hiện sự kín đáo, giữ gìn phẩm tiết của ngƣời H’Mông. Trang phục của nam giới khá đơn giản với chiếc áo khoác và mũ đính đồng xu. Anh Xồng Bá Xia (Na Ngoi - Kỳ Sơn) cho hay: “Trang phục nam giới thƣờng đƣợc sử dụng trong ngày Tết hoặc đám tang”. Hiện nay, để giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc, trƣờng học trên địa bàn có đồng bào H’Mông yêu cầu học sinh mặc đồ truyền thống trong các buổi chào cờ đầu tuần. 31 Ngày nay trang phục truyền thống của ngƣời H’Mông đƣợc cách tân, tuy nhiên về cơ bản vẫn giữ đƣợc đặc trƣng riêng của cộng đồng dân tộc này Trang phục truyền thống của dân tộc Khơ Mú - Huyện Kỳ Sơn Ngƣời Khơ mú, còn có tên gọi khác là ngƣời Xá Cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tềnh, Tày Hạy, thuộc ngữ hệ Môn-Khmer. Họ sinh sống ở các nƣớc nhƣ: Lào, Myanma, Tây Nam Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam. Ngƣời Khơ Mú thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me, là một trong những tộc ngƣời sớm có mặt ở Việt Nam. Ở Nghệ An, ngƣời Khơ Mú sinh sống chủ yếu ở các huyện Kỳ Sơn, Tƣơng Dƣơng, Quế Phong, dân số gần 74.000 ngƣời, chiếm khoảng 48,9% dân số Khơ Mú ở Việt Nam hiện nay. Ở Nghệ An, ngƣời Khơ mú hiện có 34.186 ngƣời, chiếm trên 7% tổng số dân là ngƣời dân tộc thiểu số trên toàn tỉnh và sống tập trung chủ yếu ở hai huyện miền núi Tây Nghệ là Tƣơng Dƣơng và Kỳ Sơn. Nghề thổ cẩm của ngƣời Khơ Mú không phát triển nhƣ ngƣời Thái. Ngƣời Khơ Mú thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa để láy thổ cẩm ngƣời Thái đem về cắt may thành trang phục truyền thống. Váy, áo, khăn đội đầu (Rơ vớt) của ngƣời phụ nữ Khơ Mú tƣơng tự trang phục của ngƣời Thái, cho thấy sự tác động mạnh mẽ của văn hóa Thái đối với văn hóa Khơ Mú. Đặc trƣng riêng trong trang phục của ngƣời Khơ Mú chính là ở màu sắc. Ngƣời Khơ Mú xƣa thích chọn màu xanh thẫm của đại ngàn. Khăn đội đầu (Rơ vớt) cũng có màu xanh thẫm, trên đó đƣợc thêu nhiều hoa văn tinh tế với màu đỏ chủ đạo nhƣ những đốm lửa thắp lên giữa rừng sâu - gợi cảm giác nồng nàn, ấm áp. Bộ trang phục truyền thống của phụ nữ ngƣời Khơ Mú gồm có: khăn piêu màu đen đội đầu, áo cỏm màu đen với hàng cúc ở ngực, nếu cúc hình chữ nhật thì gọi là "mặc pam”, còn hình con bƣớm thì gọi là "mặc pem”, ngoài ra còn có dây lƣng, váy, xà cạp, chùm cài đầu, bộ xà tích thắt lƣng Khăn đội đầu đƣợc may bằng vải đen dài khoảng gần 2 m, rộng bằng một khổ vải hẹp 30 cm. Ngày nay, khăn đội đầu của phụ nữ ngƣời Khơ Mú đƣợc trang trí thêm các họa tiết hoa văn bằng chỉ thêu, những sợi tua và hoa vải màu ở hai đầu khăn. Mảng trang trí đẹp mắt này là sự giao thoa văn hóa giữa ngƣời Khơ Mú với ngƣời Thái trong vùng. Do vậy, loại khăn này cũng đƣợc gọi là "khăn piêu” nhƣ cách gọi của ngƣời Thái. Bằng cách phối nhiều màu sắc và kỹ thuật thể hiện, các mô tít hoa văn trên khăn piêu trở nên vô cùng tinh tế, bố cục chặt chẽ, hòa sắc rực rỡ mang tính đặc trƣng riêng. Khi đội khăn, ngƣời Khơ Mú đã biết tạo cho mình một phong cách riêng biệt. Cách đội khăn piêu của ngƣời Khơ Mú khác hoàn toàn với cách đội khăn piêu của ngƣời Thái. Trƣớc khi đội khăn, chị em búi tóc gọn trên đầu, dùng thêm độn tóc cho búi tóc đẹp. Sau đó, chị em mới quấn khăn quanh đầu, ôm lấy búi tóc ngƣợc, một đầu khăn thả sau gáy, buông quá vai xuống lƣng, còn đầu kia 32 giấu kín vào vành khăn. Trang phục của nam giới gồm có áo, quần đƣợc may bằng vải bông nhuộm chàm. Vào những dịp lễ, tết, cƣới hỏi, đàn ông ngƣời Khơ Mú thƣờng mặc áo dài màu đen và đội mũ nồi đối với ngƣời già, áo ngắn có khuy bằng vải đen đối với ngƣời trẻ tuổi. Trang phục là một trong những nét văn hóa đặc trƣng. Vì thế, đồng bào Khơ Mú đang tiếp tục gìn giữ và phát huy nét đẹp này. Cách thức tiến hành: Bƣớc 1: Lựa chọn đối tƣợng điều tra, phỏng vấn. Bƣớc 2: Xác định rõ yêu cầu khi điều tra phỏng vấn. Bƣớc 3: Lập kế hoạch chu đáo cho quá trình điều tra, phỏng vấn. Bƣớc 4: Tiến hành điều tra, phỏng vấn. Bƣớc 5: Giáo viên cho học sinh viết bài thu hoạch rồi báo cáo qua lớp. Bƣớc 6: Giáo viên đƣa ra nhận xét đánh giá những thu hoạch của học sinh và tổng kết. Lƣu ý: Cần tìm đƣợc địa điểm, chọn thời gian và thời tiết thích hợp để việc đi lại của học sinh đƣợc thuận lợi. Dự kiến trƣớc tình huống có thể xảy ra. Quy định về kỷ luật, an toàn khi đến nơi tham quan. Phổ biến trƣớc nhiệm vụ cho cả lớp. Phiếu điều tra về trang phục dân tộc nhƣ sau: TT CÂU HỎI TRẢ LỜI (Trang phục ngƣời H’mông) 1 Trang phục bao gồm những gì ? Bộ quần (áo, quần,2 tà, mũ, vòng cổ, 2 thắt lƣng trƣớc và sau, 1 túi) Bộ váy(1 tà trƣớc, 1 thắt lƣng sau, áo, chân váy, áo, mũ, vòng cổ, túi) 2 Chất liệu làm ra sản phẩm? Vải hoa, chủ yếu vải nhung 3 Thời gian làm ra sản phẩm? Bộ quần áo: 3 tiếng Bộ váy may nhanh 5 tiếng, các phụ kiện nhƣ túi, mũ làm thời gian 4 tháng là loại nhỏ 4 Cách giữ gìn trang phục? Không giặt,chỉ đƣa ra phơi nắng Bảo quản bằng cách buộc lại gấp lại cất trong túi to 5 Sử dụng trang phục trong những dịp nào? Bình thƣờng hay mặc, bộ lễ phục đắt tiền may cầu kì thƣờng dành cho dịp lễ tết, đám cƣới, đám tang. 6 Biểu tƣợng trên trang phục có ý nghĩa gì ? Chủ yếu hình hoa để nhớ về nguồn gốc của trang phục. 7 Giá tiền của một sản phẩm Bộ đồ bình thƣờng, bộ váy bình thƣờng: 450.000- 550.000 đồng Bộ thêu tay cầu kì: 2 - 3 triệu 1 bộ 33 2.2.3. Kết quả Kết quả nhận thức Qua buổi học tập và trải nghiệm này, các em hiểu đƣợc giá trị từ những di sản của Huyện nhà; giáo dục lòng tự hào, lòng biết ơn đối với ông cha ta đã xây dựng nên văn hóa đa dạng và phong phú; giáo dục ý thức trong việc bảo vệ, bảo tồn các di sản, phát huy giá trị của từng di sản trong đời sống, kinh tế của tỉnh Nghệ An ở thời đại mới; có trách nhiệm trong việc chung tay xây dựng quê hƣơng ngày càng giàu đẹp. Hoạt động trải nghiệm thực tế là bài học thực tiễn sống động và sâu sắc nó không chỉ tác động vào tình cảm của học sinh mà còn là thức tỉnh con tim khối óc có những suy nghĩ tích cực tiến bộ từ đó có hành động đúng trƣớc hết trách nhiệm với bản thân sau đó vì gia đình và xã hội. Nhƣ vây, thông qua về trang phục truyền thống nhằm giáo dục truyền thống yêu nƣớc, lòng tự hào dân tộc một cách thiết thực không giáo điều, sách vở là nơi truyền ngọn lửa cách mạng đến với thế hệ hôm nay và mai sau. Sau đây một số chia sẻ của các em học sinh sau khi tham quan trải nghiệm: Em Đậu Thị Thanh Xuân 12C1 chia sẻ: Tìm hiểu về trang phục truyền thống dân tộc Khơ Mú, em cảm thấy bị thu hút và ấn tượng về những nét đặc trưng của loại trang phục này. Những cô gái Khơ Mú không khoác lên người bộ cánh hàng hiệu, bộ trang sức đắt tiền mà vẫn hết sức yêu kiều trong bộ trang phục chiếc khăn piêu đội đầu, áo cỏm màu đen với hàng cúc ở ngực, dây lưng, váy, xà cạp... Em yêu sự tinh tế ở cách phối màu, từng văn hoa, bố cục, sự hài hòa rực rỡ, Tuy có hơi mang cảm giác của trang phục người Thái nhưng trang phục người Khơ Mú vẫn toát lên một đặc tính rất riêng, tạo nên một phong cách riêng biệt của người Khơ Mú. Qua trang phục truyền thống, em có thể nhận ra văn hóa của một dân tộc, sự thiên cảm cũng như lối sống của họ. Trang phục là một những nét văn hóa đặc trưng. Tuy không phải là người con của dân tộc Khơ Mú, nhưng em rất tự hào về nét đẹp văn hóa của họ. Em mong rằng, tất cả chúng ta nói chung và đồng bào dân tộc Khơ Mú nói riêng sẽ tiếp tục bảo vệ giữ gìn và phát huy nét đẹp này, để xây dựng một nền văn hóa trang phục truyền thống bền vững cho dân tộc Việt Nam Em Vy Thị Cẩm Tú 12C1 chia sẻ: Từ ánh nhìn đầu tiên bộ trang phục của người dân tộc H’Mông đã thu hút em bởi sự tinh tế và kì công của chúng. Không giống với các dân tộc khác, trang phục của người dân tộc H’Mông rất nhiều bộ phận, rất cầu kì hợp thành như khăn đội đầu, mũ, áo, váy hay thắt lưng. Ta có thể cảm nhận ra một cô gái H’Mông thướt tha trong bộ đồ với chiếc váy xếp ly khi bước đi tạo sự nhịp nhàng đong đưa. Những đồng xu lắc lư chạm vào nhau tạo nên âm thanh như một bản nhạc thật vui tươi. Các đường nét hoa văn trên trang phục vô cùng cầu kỳ, độc đáo và mang nhiều ý nghĩa đối với cuộc sống hàng ngày, đời sống tâm linh. Em
Tài liệu đính kèm: