SKKN Dạy đọc hiểu đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (Trích Vũ Như Tô) - Nguyễn Huy Tưởng theo hướng đối thoại

SKKN Dạy đọc hiểu đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (Trích Vũ Như Tô) - Nguyễn Huy Tưởng theo hướng đối thoại

Câu hỏi “Theo em, vở kịch có mấy mâu thuẫn, chỉ ra các mâu thuẫn? Vì sao lại có những mâu thuẫn này?” vừa là câu hỏi phát hiện, vừa là câu hỏi nêu vấn đề: học sinh phải phân tích và lí giải, phát hiện được hai mâu thuẫn cơ bản của vở kịch là mâu thuẫn giữa Lê Tương Dực và đám bề tôi ngu trung với quần chúng nhân dân lao động và tập đoàn phong kiến (Trịnh Duy Sản) và mâu thuẫn giữa người nghệ sĩ và nhân dân hay chính là mâu thuẫn giữa niềm khao khát hiến dâng tất cả của người nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng với lợi ích trực tiếp và thiết thực của nhân dân. Khi học sinh đã tiếp nhận được hai mâu thuẫn ấy,giáo viên tiếp tục hướng dẫn học sinh tìm hiểu sâu hơn bằng việc lật lại vấn đề: Vậy, tại sao có hai mâu thuẫn ấy? Nó được biểu hiện cụ thể như thế nào trong hồi cuối này?

Trong vở bi kịch “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng, mâu thuẫn bi kịch được xây dựng từ một tư liệu trong lịch sử về một người thợ tài ba với một công trình kiến trúc có tầm cỡ bị bỏ dở. Người thợ có tài tuyệt đỉnh ấy rơi vào tình huống lựa chọn rất khó khăn: xây Cửu Trùng Đài cho bạo chúa - sáng tạo cái Đẹp hay vì quyền lợi của nhân dân mà từ chối xây dựng Cửu Trùng Đài - từ chối sáng tạo cái Đẹp. Và cuối cùng, khao khát sáng tạo cùng với sự động viên của Đan Thiềm - một người yêu cái Đẹp, trân trọng sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ, Vũ Như Tô đã chọn con đường xây dựng Cửu Trùng Đài, điều đó có nghĩa ông đẩy mình vào một mâu thuẫn mới, mâu thuẫn với quyền lợi của nhân dân. Công trình “tranh tinh xảo với tạo hóa” của ông sẽ đẩy nhân dân vào cảnh phải lao động cực nhọc, phải sưu cao thuế nặng,. Xung đột bi kịch nảy sinh, là một mối mâu thuẫn không dễ giải quyết. Nhưng chính mâu thuẫn này thể hiện tư tưởng mà tác giả muốn nói đến trong tác phẩm. Vấn đề nhà văn đặt ra khi xây dựng xung đột bi kịch trong Vũ Như Tô là vấn đề có ý nghĩa dân tộc, nhân loại. Đó là mối xung đột không phải có thể giải quyết một cách chính xác. Đó là mâu thuẫn giữa khát vọng và thực tại. Khát vọng lớn nhưng thực tế không thể lúc nào cũng có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc có khả năng để thực hiện khát vọng. Tòa Cửu Trùng Đài có một không hai về sự kì vĩ, về giá trị nghệ thuật thật khó có thể trở thành thực tại và được hoàn thiện khi nó là nguyên nhân tạo nên nỗi đau cho nhân dân. Người nghệ sĩ Vũ Như Tô và người công dân Vũ Như Tô vì thế mà trở thành nhân vật bi kịch.

 Học sinh đi phân tích, lí giải nguyên nhân của mâu thuẫn.

+ Mâu thuẫn 1: Bắt nguồn từ cuộc sống xa đọa của Lê Tương Dực, suốt ngày cùng cung nữ đắm chìm trong lạc thú, phó mặc triều chính, không quan tâm tới đời sống nhân dân. Đến sự kiện xây dựng Cửu Trùng Đài thì bùng phát mạnh mẽ và được giải quyết. Biểu hiện qua đối thoại của: Đan Thiềm - Vũ Như Tô (lớp I), Nguyễn Vũ - Lê Trung Mại (lớp III). Mâu thuẫn được giải quyết bằng cái chết của Lê Tương Dực. Thế nhưng, sau cuộc nổi loạn đời sống của nhân dân ta chẳng có gì thay đổi vì nước lại rơi vào tay những kẻ như Trịnh Duy Sản.

 

docx 46 trang Người đăng Bằng Khánh Ngày đăng 09/01/2025 Lượt xem 36Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Dạy đọc hiểu đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (Trích Vũ Như Tô) - Nguyễn Huy Tưởng theo hướng đối thoại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ằng việc nhập vai nhân vật, giáo viên có thể giúp học sinh cảm nhận không khí căng thẳng tạo ra từ lời nói và hành động của các nhân vật.
Trong quá trình đọc cũng giúp học sinh liên tưởng, tưởng tượng những sự kiện xảy ra trong vở kịch. Người đọc có điều kiện nhập vào linh hồn vở kịch một cách nhanh nhạy, vững vàng. Đây là một tiền đề vững chắc để giáo viên đưa ra những phương pháp và biện pháp nhắm hướng nhận thức và tư duy của học sinh vào vở kịch.
7.5.3. Xây dựng các câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề, phát hiện các tình huống có vấn đề trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” nhằm kích thích hứng thú tìm hiểu, khám phá của học sinh.
a. Hệ thống câu hỏi gợi mở:
	Một số dạng câu hỏi cơ bản: 
- Gợi mở tri thức nền, tri thức văn hóa xã hội liên quan đến văn bản hoặc chủ đề, đề tài của văn bản.
- Câu hỏi liên hệ thực tế, liên hệ đến các tác phẩm văn học nghệ thuật có liên quan (cùng đề tài, chủ đề, cùng tác giả). 
- Câu hỏi bàn luận trao đổi, trình bày suy nghĩ, quan điểm về các vấn đề của cuộc sống đặt ra trong tác phẩm. 
- Câu hỏi gợi mở học sinh đưa ra ý kiến đánh giá về các yếu tố của văn bản. 
	Có thể dựa vào một số vấn đề then chốt về nội dung và nghệ thuật của vở kịch giúp học sinh khắc sâu và nâng cao năng lực cảm thụ ban đầu.
Câu hỏi 1: Qua đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”, em có nhận xét gì về nhân vật Vũ Như Tô?
Câu hỏi 2: Em hãy nêu điểm tương đồng và khác biệt giữa nhân vật Vũ Như Tô và nhân vật Hộ trong “ Đời thừa” của Nam Cao để thấy tư tưởng của những người nghệ sĩ chân chính? (Giáo viên có thể nói qua cho học sinh hiểu về nhân vật Hộ trong “Đời thừa” của Nam Cao?)
Câu hỏi 3: Khi Đan Thiềm hốt hoảng thông báo: “loạn đến nơi rồi” và thở dài “Biến đến thế là cùng”, theo em “loạn” và “biến” xảy ra trong hồi V xuất phát từ đâu? Liệu có cách giải quyết nào khác ngoài “loạn” và “biến”?
Câu hỏi 4: Theo anh (chị) vì sao lại có những ánh mắt và thái độ khác biệt như vậy khi nhìn nhận và đánh giá Cửu Trùng Đài?
Từng câu hỏi là một “dấu hiệu” có tính chất chi tiết và bị phân hướng vào nội dung cơ bản của tài liệu. Hệ thống câu hỏi không chỉ phục vụ cho hoạt động trí tuệ để học sinh tự lĩnh hội tri thức phù hợp với đặc trưng bộ môn nghệ thuật.
Những câu hỏi gợi mở vừa hấp dẫn về mặt nội dung vấn đề nêu ra vừa phải có ý nghĩa nghệ thuật và hình thức mới. Bằng cách đặt các câu hỏi gợi mở, giúp các em tự mình cảm thụ cái hay, cái đẹp trong văn chương, tự mình có thói quen và khả năng phát hiện, chiếm lĩnh tri thức từ những tài liệu học trong nhà trường hay đọc ngoài nhà trường.
b. Các câu hỏi nêu vấn đề:
Dạy học nêu vấn đề được đặt ra từ mấy chục năm nay, đã được nhiều nhà phương pháp của Ba Lan, Liên Xô nghiên cứu và ứng dụng. Ở nước ta, vấn đề này cũng đã được các giáo sư Phan Trọng Luận, giáo sư Đặng Vũ Hoạt, tác giả Vũ Nho đề cập đến. Theo định nghĩa của Linaiđa Ia coplepha Kez thì “Dạy học nêu vấn đề là một hệ thống các tình huống có vấn đề liên kết với nhau và phức tạp dần lên mà qua giải quyết các tình huống đó học sinh với sự giúp đỡ và chỉ đạo của thày giáo sẽ nắm được nội dung của môn học đó và phát triển cho mình những đức tính cần thiết để sáng tạo trong khoa học và trong cuộc sống”.
Như vậy, dạy học nêu vấn đề nhằm phát huy trí tuệ sáng tạo của học sinh. Các phương pháp dạy học văn ứng với ba giai đoạn tiếp cận, đi sâu, tổng hợp và khái quát. Cái quý nhất đối với người học sinh chưa phải là kết luận về hiện thực mà là con đường dẫn tới những kết luận đó. Phương pháp dạy học văn là con đường vạch ra hình thức tồn tại của nội dung. Con đường hình thành nhân cách và lĩnh hội tri thức phải thông qua sự vận động tự nhiên của chủ thể học sinh. Dạy học nêu vấn đề là dựa vào những qui luật của tư duy, đặc biệt là tư duy sáng tạo. Rowtain stair có nói: “Yếu tố đầu tiên của quá trình tư duy là tình huống có vấn đề, con người bắt đầu tư duy khi có nhu cầu hiểu biết cái gì”.
Trong dạy học truyền thống, chỗ hạn chế nhất là thói quen đưa đến cho người học những kiến thức có sẵn và người học chỉ còn tiếp nhận một cách thụ động và rồi ghi nhớ, ghi nhớ để rồi lặp lại.
Trong dạy học nêu vấn đề, kiến thức không đưa đến dưới hình thức có sẵn mà thông qua tình huống có vấn đề đặt ra trước học sinh.
Tình huống có vấn đề: Là trạng thái tâm lí nảy sinh trước khó khăn về trí tuệ mà con người ta không thể giải thích hoặc hành động bằng kiến thức cũ, phương thức cũ. Là tình huống trong đó chủ thể cảm thấy có cái khó trong nhận thức hay nói cách khác có mâu thuẫn nhận thức giữa cái đẹp đã biết và cái chưa biết, đồng thời chủ thể có mong muốn giải quyết mâu thuẫn bằng cách huy động những cái đã biết tạo ra phương thức hành động mới để đạt được hiểu biết mới. Muốn có tình huống có vấn đề cần có ba thành tố liên quan chặt chẽ với nhau:
+ Cái chưa biết: Đó là tri thức mới, cách thức hành động mới mà học sinh cần phát hiện và chiếm lĩnh.
+ Nhu cầu nhận thức của chủ thể.
+ Khả năng có thể chiếm lĩnh cái chưa biết của chủ thể.
Cơ chế của quá trình này: Giáo viên đặt vấn đề - học sinh tri giác - giáo viên tổ chức quá trình giải quyết vấn đề. Kết quả là học sinh nắm kiến thức, phương thức giải quyết và phương pháp nhận thức khoa học.
Tình huống có vấn đề sẽ có tác dụng lôi cuốn học sinh vào quá tình tư duy. Một bài văn, một tác phẩm văn học, số phận nhân vật chỉ trở thành đối tượng suy tư của mỗi người khi chính người đó nhận ra trong đó một tình huống, một vấn đề, một tâm trạng có liên quan đến suy nghĩ hay rung động của mình. Một giờ dạy văn muốn thành công nhất thiết phải xây dựng được một hay những tình huống có vấn đề và được học sinh tiếp nhận một cách có ý thức.
Như vậy, người giáo viên phải là người nêu nên được những tình huống có vấn đề thông qua các câu hỏi nêu vấn đề nhằm gợi sự hứng thú của học sinh, ở đây cần phân biệt với loại câu hỏi tái hiện phân tích. Câu hỏi nêu vấn đề thường có tính chất phức tạp về nội dung. Nó gợi lên mối mâu thuẫn giữa cái đã biết với cái chưa biết, giữa cái cũ với cái mới trong nhận thức của học sinh với tác giả, giữa học sinh với nhau về một vấn đề trung tâm trong tác phẩm. Câu hỏi nêu vấn đề phải vạch ra được mối quan hệ hữu cơ giữa những yếu tố cụ thể với những quan điểm kép của bài văn, của tác phẩm như chủ đề, quan điểm tác giả, tác dụng, ý nghĩa tác phẩm.
Tôi đã hệ thống các câu hỏi nêu vấn đề khi dạy học đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” như sau:
+ Theo em, vở kịch có mấy mâu thuẫn, chỉ ra các mâu thuẫn? Vì sao lại có những mâu thuẫn này ? 
+ Vì sao Nguyễn Huy Tưởng đã cho rằng Đan Thiềm và Vũ Như Tô là hai người “đồng mệnh”?. 
+ Trong vở kịch chúng ta thấy mâu thuẫn giữa nghệ sĩ và nhân dân chưa được giải quyết dứt khoát? Điều đó thể hiện như thế nào? (Câu hỏi nêu vấn đề)
+ Kết thúc vở kịch, dân chúng đã hiểu gì về Vũ Như Tô? Cách hiểu đó liệu có khác so với trước đây?
+ Liệu Vũ Như Tô khi ra pháp trường đã tự trả lời được cho mình câu hỏi “ta tội gì?” hay vẫn một câu trả lời không thay đổi “Vô lí. Ta không có tội”? 
+ Nguyễn Huy Tưởng đã viết trong tựa đề: “Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Dựa vào đoạn trích, anh (chị) hãy lí giải điều mà nhà văn gọi là “Bệnh Đan Thiềm”?
Học sinh trả lời: “Bệnh Đan Thiềm” chính là bệnh đam mê, trân trọng, nâng niu cái tài, cái đẹp, bệnh của kẻ “biệt nhỡn liên tài”. Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích tâm trạng của Đan Thiềm trong đoạn trích. Nàng là người đã khuyên Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài giờ lại bằng mọi cách thuyết phục ông trốn đi. Cả hai việc đều có nghĩa duy nhất: bảo vệ cái tài, cái đẹp. Nàng đau đớn nhận ra thất bại của giấc mộng lớn Cửu Trùng Đài. Trong hồi V, có đến 20 lần, nàng thúc giục Vũ Như Tô trốn đi, lánh đi, chạy đi. Đan Thiềm có tâm trạng lo lắng, hốt hoảng, van xin tha tội cho ông cả. 
	Khi tìm hiểu nhân vật Vũ Như Tô, giáo viên có thể dẫn dắt: Đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là đỉnh cao của bi kịch “Vũ Như Tô”. Mọi mâu thuẫn âm ỉ giờ trào ra thành sóng thác hành động và kết thúc đầy bi thảm.
- Giáo viên đặt vấn đề: Trong lớp kịch thứ V, Đan Thiềm giục Vũ Như Tô trốn đi. Nàng cảnh báo “Ông đừng mơ mộng nữa”, phải chăng đó là tâm trạng đầy bi kịch của nghệ sĩ tài hoa Vũ Như Tô?
- Giáo viên gợi mở để học sinh tìm hiểu: 
+ Cái tài của Vũ Như Tô trong lớp kịch được thể hiện như thế nào? 
+ Nét tính cách nổi bật của Vũ Như Tô là gì? Tính cách ấy thể hiện quan điểm gì của tác giả?
+ Hành động quyết ở lại với Cửu Trùng Đài của Vũ Như Tô thể hiện quan điểm gì ở nhân vật này? Quan điểm của Vũ Như Tô thể hiện tư tưởng gì của tác giả? 
+ Câu than trước khi ra pháp trường của Vũ Như Tô: “Ôi mộng lớn! Ôi Cửu Trùng Đài! Ôi Đan Thiềm!” thể hiện tâm trạng gì của Vũ Như Tô? 
+ Em hiểu “Bệnh Đan Thiềm” là gì? Tâm trạng của Vũ Như Tô và Đan Thiềm thể hiện chủ đề nào của vở bi kịch?
+ Qua tóm tắt, anh (chị) thấy giấc mộng ảo vọng của Vũ Như Tô bắt đầu ra sao?
+ Trong thời khắc đầy biến động dữ dội, sự thật phũ phàng dội xuống, họ Vũ có còn mơ?
+ Đâu là khoảnh khắc Vũ Như Tô nhận ra giấc mộng lớn đã tan tành? Tâm trạng của ông trong khoảnh khắc ấy?
+ Nỗi đau vỡ mộng của bi kịch Vũ Như Tô thức tỉnh ở chúng ta điều gì? 
+ Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự thất bại của Vũ Như Tô (Vũ Như Tô bị giết, Cửu Trùng Đài bị đốt) là gì? 
+ Trình bày ý kiến của em về nhân vật Vũ Như Tô: ông ta đáng khen hay đáng trách? Vì sao?
+ Đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” đặt ra một vấn đề có ý nghĩa muôn thuở của con người. Theo em, vấn đề đó là gì? Tác giả thể hiện thái độ gì đối với Vũ Như Tô và Đan Thiềm? 
Qua hệ thống các câu hỏi, giáo viên cần định hướng cho học sinh đến những kết luận và hiểu biết quan trọng, đúng đắn về nhân vật Vũ Như Tô. Trong vở kịch “Vũ Như Tô”, nhân vật kiến trúc sư họ Vũ là người có tài hiếm thấy. Ông ta có tài đặc biệt, có khát vọng lớn lao. Bình thường, với cái tài ấy, với khát vọng ấy, ông ta có thể làm được những công trình vĩ đại có thể sánh ngang với các công trình kiến trúc nổi tiếng của thế giới để làm rạng danh dân tộc. Thế nhưng, Vũ Như Tô lại rơi vào bi kịch của người tài sinh nhầm thời. Muốn có điều kiện để trổ tài, để thực hiện khát vọng, ông đã phải đi ng

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_day_doc_hieu_doan_trich_vinh_biet_cuu_trung_dai_trich_v.docx
  • doc3. Phieu cham sang kien V2 - Lan.doc
  • doc3. Phieu cham sang kien V2.doc
  • doc4. Bien ban cham va xet duyet sang kien V2 - Lan.doc
  • docBìa.doc
  • docxMỤC LỤC.docx
  • docxtài liệu.docx