Thực tế, việc dạy và học văn ở trường phổ thông nói chung và trường
Trung học cơ sở (THCS) nói riêng vẫn còn nhiều vấn đề nan giải. Việc đặt câu
hỏi trong giờ học văn vẫn mang hình thức nặng nề với những câu hỏi khô khan,
những câu hỏi yêu cầu phải trả lời theo đáp án chính xác. Với những câu hỏi
đóng như vậy, chưa hoàn toàn kích thích được sự sáng tạo của HS. Như vậy, ta
có thể thấy, mức độ phát triển tư duy của HS, một phần, phụ thuộc vào câu hỏi
của GV. Việc thiết kế câu hỏi đã khó, nhưng làm sao để có thể xây dựng được
một hệ thống các câu hỏi mở để kích thích được suy nghĩ và cảm nhận của HS
lại càng khó hơn, nhất là với thực trạng HS ngày càng chán học môn Văn như
hiện nay. Đó quả là một vấn đề nan giải đối với giáo viên dạy Văn?!
Mặt khác, hiện nay chưa có một lý thuyết thật hệ thống và “bài bản” về
đặt câu hỏi, đặt biệt là câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn. Trong khi đó, nghiên
cứu vấn đề đặt câu hỏi mở trong dạy học thật sự cần thiết và có tính ứng dụng cao.
Nó có ý nghĩa như một sự chỉ dẫn bước đầu trong công việc giảng dạy trên lớp.
Từ thực tế và lí luận ấy, ta thấy rằng việc xây dựng hệ thống câu hỏi mở
trong dạy học Ngữ văn là rất cần thiết. Vì vậy, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu về đề
tài “Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản
chương trình Ngữ văn 7” với mục đích nghiên cứu xây dựng hệ thống câu hỏi
phần đọc hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn 7 một cách khái quát, đóng
góp về mặt lí luận cho lí luận dạy học
ột hệ thống câu hỏi đọc hiểu, không phải không cần những câu hỏi tái hiện. Tuy nhiên, do loại câu hỏi này không có tính tích cực cao, khá dễ nên ít kích thích được suy nghĩ của học trò. Vì vậy, loại câu hỏi này chỉ nên đóng vai trò là bước đệm, tạo cơ sở, tiền đề để hỗ trợ cho loại câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề. Việc sử dụng nhiều câu hỏi tái hiện sẽ làm giảm hứng thú của HS và hạn chế khả năng khám phá, tìm hiểu những vấn đề cốt lõi của văn bản ở các em. Hiện nay, một số GV đã chú trọng hơn đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy, đã lồng ghép một số câu hỏi mở cho HS. Tuy nhiên, do không có tính hệ thống, và không có sự chuẩn bị, tìm tòi kĩ của HS nên HS dường như bị động trong các câu trả lời và diễn đạt quan điểm cá nhân của mình rất lúng túng. Thậm chí, trong các tiết dự giờ, GV còn cài sẵn câu trả lời cho các em, khiến cho giờ học vẫn mang nặng tính hình thức, mà không thực sự thấy được vai trò sáng tạo, liên tưởng, tưởng tượng của HS. Ta sẽ làm phép so sánh 2 dạng câu hỏi sau (Mặc dù cùng là mục đích để hỏi giúp HS khám phá những biện pháp nghệ thuật đặc sắc được sử dụng trong một đoạn thơ) Bảng 1.12. So sánh hai dạng câu hỏi: Câu hỏi phát hiện và câu hỏi mở Dạng câu hỏi phát hiện Dạng câu hỏi gợi mở (?) Em hãy cho biết, trong đoạn thơ này, tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào? (?) Em thấy đoạn thơ này hay hay không hay? (?) Vì sao em thấy nó hay? Hay ở điểm nào? Hoặc: (?) Vì sao em thấy nó chưa hay? Chỗ nào chưa hay? Vì sao? Ở dạng câu hỏi phát hiện, mặc dù HS phải có thao tác vận dụng kiến thức cũ đã học để trả lời nhưng phần nào câu hỏi này vẫn mang tính áp đặt vì nó đã vô tình để lộ thông tin là GV đã phát hiện ra trong đoạn thơ có sử dụng một hoặc một số biện pháp nghệ thuật. Như vậy, HS chỉ giúp GV tìm dẫn chứng để chứng minh cho điều GV vừa hỏi. Còn ở dạng câu hỏi gợi mở, trước hết, HS phải cho biết quan điểm cá nhân của mình về đoạn thơ (hay hoặc không hay). Tuy nhiên, sau đó, HS phải tự Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 16/52 bảo vệ cho ý kiến của mình bằng những lý giải và dẫn chứng cụ thể. Cách hỏi này không những giúp cho các em hiểu bài một cách sâu sắc mà còn tập cho HS cách tư duy, trình bày ý kiến cá nhân của riêng mình. (Điều kiện là HS phải thực sự có thao tác chuẩn bị bài và sưu tầm, tìm đọc các kiến thức có liên quan). Với những ý kiến và quan điểm khác nhau của mỗi HS, nếu khéo léo, GV còn gợi ra một không khí lớp học với sự tranh luận với những ý kiến trái chiều. Giờ học sẽ sôi nổi và HS sẽ làm việc tích cực hơn rất nhiều. 2.2.3. Một số đánh giá về thực trạng sử dụng câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn hiện nay ở trƣờng THCS 2.2.3.1. Đối với việc dạy của giáo viên - Giáo viên mặc dầu đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học văn nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Một số giáo viên vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại đúng những điều mà giáo viên đã truyền đạt. Giáo viên chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình tới học sinh. Nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng như việc chỉ ra cho học sinh hướng tích cực chủ động để thu nhận kiến thức. Do đó, có những giờ dạy được giáo viên tiến hành như một giờ diễn thuyết (ham nói). Điều này cũng do một phần vì giáo viên sợ “cháy” giáo án (Giáo viên hỏi nhưng học sinh không trả lời được hoặc học sinh vẫn phát biểu nhưng chưa ra vấn đề, cho nên giáo viên làm thay). - Cũng có những giờ học văn thiếu đi tính chất “văn” bởi GV đặt ra quá nhiều câu hỏi cho HS. Những câu hỏi chẻ nhỏ khiến cho giờ học trở nên rời rạc, khô khan. GV hỏi, HS trả lời liên tục nhưng thiếu tính khái quát, tư duy và sáng tạo chứ chưa nói đến việc sẽ có những “xúc cảm thẩm mỹ văn chương”. - Hầu hết, GV khi lên lớp chỉ dựa vào hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài ở cuối phần văn bản của SGK mà không cung cấp cho HS hệ thống câu hỏi về cách thức tiếp cận nội dung tác phẩm để HS chuẩn bị ở nhà. Thế nên, những câu hỏi mở để thăm dò ý kiến của HS hay để HS liên tưởng, tưởng tượng ngay trong Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 17/52 giờ học đều khiến cho HS lúng túng, không biết cách trả lời hoặc trả lời rằng “em không biết”. - Các câu hỏi mở được sử dụng trong giờ dạy là chưa nhiều, chưa tạo thành hệ thống. Hay nói cách khác, GV vẫn còn chưa có nhiều kĩ thuật để đặt một câu hỏi mở tốt, giúp phát huy hết năng lực cho HS và khơi dậy cho HS những kĩ năng tự học và đọc hiểu văn bản. 2.2.3.2. Đối với việc học của học sinh *Những điểm sáng: - Vẫn còn học sinh thích học văn, mê văn – tuy số này không nhiều. - Vẫn có học sinh giỏi văn, vẫn có những bài viết hay của học sinh. *Những tồn tại: -Về phía học sinh, tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học, lười suy nghĩ. Chỉ biết suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn, lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ của sách vở. Học sinh chưa có hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của mình trước tập thể, cho nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy khá khó khăn. - Học sinh thường soạn bài với tính chất đối phó bằng cách chép từ các sách “học tốt” nhưng khi hỏi thì không hiểu gì. Từ đó dẫn đến việc HS không biết cách trả lời thế nào trước câu hỏi của GV, cho dù đó chỉ là những câu hỏi phát hiện chứ đừng nói đến sẽ bộc lộ quan điểm, suy nghĩ cá nhân của mình về một vấn đề nào đó khi được hỏi một câu hỏi mở. Thói quen học tập thụ động, đối phó của học sinh là một rào cản lớn đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học. - Nổi bật là tình trạng chán học văn ở học sinh. Học sinh thiếu nhiều về kiến thức ngữ văn, rất ít học sinh đọc sách để thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương, biết rung động trước những tác phẩm văn học hay. Do vậy khi làm bài, học sinh thường suy luận chủ quan, thô tục hoá văn chương. Ngoài những lỗi trên thì tình trạng học sinh làm bài sai kiến thức cơ bản vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Đó là tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, viết sai tên tác giả, tác phẩm, nhầm tác phẩm của nhà văn này với nhà văn khácĐó cũng là hệ quả của việc giảng Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 18/52 dạy chỉ quan tâm đến việc ghi nhớ máy móc lượng kiến thức đơn thuần mà không chú ý đến tư duy, sự sáng tạo và thẩm mỹ nhân văn của văn chương. 2.3. Đề xuất việc xây dựng hệ thống câu hỏi mở phần đọc hiểu văn bản Ngữ văn 7 2.3.1. Đối với các văn bản tự sự Bảng 2.5. Đề xuất hệ thống câu hỏi mở khi dạy các văn bản tự sự Nội dung khai thác Các dạng câu hỏi mở có thể áp dụng - Cốt truyện, tình huống truyện - Sử dụng câu hỏi đào sâu (giúp khai thác thông tin, mở rộng vấn đề, giúp tìm hiểu bản chất vấn đề) + Tình huống truyện này có ý nghĩa gì với em? + Tại sao tình huống truyện này lại rất quan trọng với tác phẩm? + Em cho rằng đâu là vấn đề cốt lõi của tác phẩm? - Nhân vật - Nghệ thuật xây dựng truyện - Câu hỏi Giả định (giúp thăm dò các khả năng và kiểm chứng các giả thuyết, giúp phát huy trí tưởng tượng) + Điều gì sẽ xảy ra nếu nhân vật? + Nếu, em nghĩ thế nào? + Nếu, em đồng ý hay phản đối? + Nếu điều đó xảy ra, nó có thể gây ra hậu quả gì? Tại sao? - Sử dụng câu hỏi đào sâu: Làm cho học sinh cảm thụ sâu sắc đánh giá đúng đắn được các nhân vật trong tác phẩm. Mỗi nhân vật khác nhau lại đòi hỏi cách phân tích khác nhau , tìm hiểu về các phương diện: lai lịch, hoàn cảnh xuất thân, ngoại hình, ngôn ngữ , nội tâm, cử chỉ, hành động. Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 19/52 - Sử dụng câu hỏi về sự đánh giá của cá nhân (giúp đánh giá quan điểm, tình cảm, suy nghĩ của cá nhân) + Bạn nghĩ gì về? + Bạn đánh giá như thế nào về? + Bạn đã từng ở trong tình huống đó chưa và bạn xử lý ra sao? + Điều gì khiến bạn tin như thế?... Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 20/52 * Đối với các văn bản trữ tình Sơ đồ 2.3. Đề xuất hệ thống câu hỏi mở khi dạy các văn bản trữ tình 2.4. Thực nghiệm sư phạm Từ thực trạng dạy học Ngữ văn và đề xuất quy trình thiết kế câu hỏi mở như đã nói ở trên, chúng tôi sẽ tổ chức thực nghiệm sử dụng câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản trong chương trình Ngữ văn 7 và kết quả của quá trình thực nghiệm đó. Chúng tôi áp dụng tổ chức dạy học Ngữ văn có sử dụng câu hỏi mở ở ba tác phẩm tiêu biểu cho ba giai đoạn văn học là: Một thứ quà của lúa non: Cốm của Thạch Lam; Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh. Nội dung cần khai thác Chủ thể trữ tình Đặc điểm ngôn ngữ thơ Hình ảnh thơ Câu, từ, nhạc điệu, các biện pháp nghệ thuật tu từ. Xây dựng hệ thống câu hỏi mở: + Câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng + Câu hỏi phân tích tổng hợp + Câu hỏi so sánh + Câu hỏi nêu vấn đề + Câu hỏi giả định +Câu hỏi đào sâu + Câu hỏi quan điểm Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 21/52 2.4.1. Mục đích của thực nghiệm Mục đích của quá trình thực nghiệm nhằm kiểm tra tính khả thi của đề tài, đồng thời cũng nhằm mục đích thu được kết quả thực tiễn cho đề tài. Quá trình thực nghiệm này còn có thể bổ sung những kinh nghiệm thực tế cho những vấn đề được đặt ra trong đề tài. Quá trình thực nghiệm được triển khai tại trường THCS Phan Đình Giót (Thanh Xuân – Hà Nội) 2.4.2. Đối tượng và nội dung thực nghiệm - Đối tượng: Toàn bộ học sinh lớp 7A1, 7A9 trường THCS Phan Đình Giót (Thanh Xuân – Hà Nội) - Nội dung thực nghiệm: Giảng dạy văn bản Một thứ quà của lúa non: Cốm của Thạch Lam; Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh. - Thời lượng tiến hành thực nghiệm: 2 tiết học. 2.4.3. Quy trình triển khai thực nghiệm 2.4.3.1. Văn bản “Một thứ quà của lúa non: Cốm” - Bước 1: Giáo viên soạn giáo án có thiết kế câu hỏi mở theo quy trình đã đề xuất ở chương II Tiết : 57 MỘT THỨ QUÀ CỦA LÚA NON: CỐM (Trích Tuỳ bút “Hà Nội băm sáu phố phường”) - Thạch Lam- A. Mục tiêu cần đạt: 1. Kiến thức: Giúp học sinh: - Cảm nhận được phong vị đặc sắc, nét đẹp văn hoá trong một thứ quà độc đáo và giản dị của dân tộc. - Thấy và chỉ ra được sự tinh tế, nhẹ nhàng mà sâu sắc trong lối văn tuỳ bút của Thạch Lam. 2. Kĩ năng: - Rèn kĩ năng cảm nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại. - Rèn kĩ năng tư duy sáng tạo trong việc cảm nhận một tác phẩm văn học. - Hình thành năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực thuyết trình Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 22/52 3. Thái độ: - Giáo dục ý thức trân trọng, giữ gìn nét đẹp văn hoá của dân tộc. B. Chuẩn bị: + GV: Giáo án, máy projector. tranh ảnh minh hoạ, tài liệu tham khảo về tác giả, tác phẩm. + HS: Đọc và chuẩn bị bài. Sưu tầm tư liệu cho bài học: tranh ảnh minh hoạ, tài liệu tham khảo về tác giả, tác phẩm. C. Phƣơng pháp dạy học và kĩ thuật dạy học 1. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp thuyết trình,... 2. Kĩ thuật dạy học: Sáu chiếc mũ tư duy, sơ đồ tư duy. D. Nội dung và tiến trình dạy học: 1. Ổn định tổ chức: 2. Kiểm tra bài cũ: 3. Giảng bài mới: * Giới thiệu bài: * Nội dung: * HĐ 1: HD HS Tìm hiểu khái quát văn bản. - Mục tiêu: HS tự tìm hiểu và rút ra những ý chính về tác giả, phong cách sáng tác. + Tác phẩm: Hoàn cảnh sáng tác, thể loại, bố cục. + Cách đọc văn bản. + Rèn kĩ năng thuyết trình 1 vấn đề. - Phƣơng pháp: Thuyết trình, vấn đáp. - Kĩ thuật: 6 chiếc mũ tư duy. - Thời gian: 7 phút HĐ của GV HĐ của HS Nội dung cần đạt * Y/c các nhóm mũ chuẩn bị nội dung trình bày. * Y/c nhóm mũ trắng trình bày phần sƣu tầm về tác giả Thạch Lam. - GV gọi HS nhận xét - Các nhóm mũ chuẩn bị nội dung trình bày. - Nhóm mũ trắng trình bày. Các nhóm khác lắng nghe, nhận xét. I. Đọc hiểu khái quát VB 1. Tác giả: - Thạch Lam (1910 – Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 23/52 chốt ý. (Chiếu máy + ghi bảng) * Y/c nhóm mũ xanh lá cây trình bày về phong cách sáng tác của Thạch Lam. * Y/c nhóm mũ vàng chỉ ra cái hay của phong cách sáng tác đó. * GV tổng kết: (chiếu máy) trích dẫn nhận xét của Nguyễn Tuân về văn Thạch Lam: “Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đờiNgày nay, đọc lại Thạch Lam vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”. - Văn của ông quả đúng là “làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn”. - Nhận xét phần trình bày của nhóm mũ trắng. - Nhóm mũ xanh lá cây trình bày về những điểm đặc biệt trong phong cách sáng tác của Thạch Lam. => Phong cách này hình thành nên cách viết văn hết sức nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng để lại trong lòng người đọc nhiều sự suy ngẫm. 1942) - Sinh tại: Hà Nội. - Phong cách sáng tác: tinh tế, nhạy cảm. 2. Tác phẩm: a. Xuất xứ: Rút từ tập “HN băm sáu phố phường” (1943) b. Hoàn cảnh sáng tác: Viết vào thời kì TD Pháp đô hộ thể hiện lòng yêu nước thầm kín. c. Thể loại: Tùy bút. Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 24/52 * Y/c nhóm mũ trắng giới thiệu sơ qua về tập tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường”. * Y/c nhóm mũ đỏ trình bày hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm. (?) Các em có suy nghĩ gì về lòng yêu nƣớc thầm kín của Thạch Lam? * Y/c nhóm mũ xanh chỉ ra những đặc trƣng của thể tùy bút. * Y/ c nhóm mũ đen chỉ ra cái khó khi đọc văn bản. Đề xuất cách đọc: Y/c nhóm mũ đen đọc 1 đoạn. * Y/ c nhóm mũ đỏ chọn 1 đoạn nhiều cảm xúc nhất đề xuất cách đọc đọc. (?) Mũ trắng đƣa ra cách chia bố cục? GV nhận xét: (chiếu - Nhóm mũ trắng giới thiệu. Các nhóm mũ khác lắng nghe, nhận xét. - Nhóm mũ đỏ trình bày hoàn cảnh sáng tác. - Trả lời (yêu nước là ca ngợi, tôn trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc) - Nhóm mũ xanh trả lời. (Tùy bút thiên về biểu cảm, chú trọng thể hiện cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ của tác giả trước các hiện tượng và vấn đề của đời sống. Ngôn ngữ tùy bút thường giàu hình ảnh và chất trữ tình.) - Mũ đen trả lời. - Cách đọc: Tìm hiểu kĩ chú thích trước để hiểu văn bản, chú trọng vào những từ ngữ biểu cảm. - Đọc VB. - Cách đọc: giọng thủ thỉ, tâm tình, nhẹ nhàng, sâu lắng. d. Đọc – tìm hiểu chú thích: sgk. e. Bố cục: 3 phần. Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 25/52 máy phần bố cục). + P1: Từ đầu “thuyền rồng”: Cội nguồn của cốm. + P2: Tiếp “kín đáo và nhũn nhặn”: Cốm – giá trị văn hóa sâu xa. + P3: Còn lại: Bàn luận về sự thưởng thức cốm. Các nhóm mũ khác nhận xét cách đọc. - Trả lời Các nhóm nhận xét. - Quan sát. * HĐ 2: HD HS tìm hiểu chi tiết VB: - Mục tiêu: + Giúp HS cảm nhận được phong vị đặc sắc, nét văn hóa của một thứ quà giản dị mà độc đáo trong cảm nhận của Thạch Lam. + Tình cảm trân trọng của nhà văn đối với một thứ quà mang hương vị đồng quê dân dã. + Nét nhẹ nhàng, tinh tế của ngòi bút Thạch Lam trong bài. - Hình thành năng lực phát hiện và cảm thụ thẩm mĩ qua hình ảnh và từ ngữ mà Thạch Lam sử dụng. - Phƣơng pháp: Nêu vấn đề, thuyết trình, vấn đáp, bình giảng. - Kĩ thuật: 6 chiếc mũ tư duy. Thời gian: 30 phút HĐ của GV HĐ của HS Nội dung cần đạt * GV chiếu đoạn 1. * Đƣa yêu cầu cụ thể cho các nhóm mũ để thảo luận. - Thời gian: 2 phút. - Mũ trắng: Tác giả đã mở đầu bài viết về cốm bằng những hình ảnh và chi tiết nào? - Mũ xanh lá cây: Chỉ ra - Các nhóm thảo luận nhanh trong 2 phút. 1. Cội nguồn của cốm: Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 26/52 sự sáng tạo trong cách dùng từ của tác giả để miêu tả màu sắc, hương thơm, cảm giác trong đoạn văn? - Mũ đỏ: Tác giả đã cảm nhận bằng những giác quan nào? - Mũ đen: Đặt câu hỏi về những cái khó hiểu, khó nắm bắt để nhóm mũ vàng trả lời. - Mũ vàng: Chỉ ra cái hay về nội dung và nghệ thuật của đoạn văn này? => GV phát câu hỏi, tổng kết, ghi bảng. - Mũ trắng: Tác giả đã mở đầu bài viết về cốm bằng những hình ảnh và chi tiết nào? - Mũ xanh lá cây: Chỉ ra sự sáng tạo trong cách dùng từ để miêu tả màu sắc, hương thơm, cảm giác trong đoạn văn? (GV chiếu máy: Các tính từ đƣợc sử dụng). - Mũ đỏ: Con ấn tượng về hình ảnh nào? - Mũ đen: Đặt câu hỏi về những cái khó hiểu, khó - Các nhóm mũ trả lời. (?) Từ “vừng sen” khiến bạn liên tƣởng đến cái gì? - Hình ảnh: + Cơn gió mùa hạ + Vừng sen trên hồtinh tế, giàu sức gợi + Cánh đồng xanh + Hạt thóc nếp + Giọt sữa trắng thơm - NT: Sd 1 loạt các TT cảm nhận hương thơm liên tưởng đẹp. Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 27/52 nắm bắt để nhóm mũ vàng trả lời. - Mũ vàng: Chỉ ra cái hay về nội dung và nghệ thuật của đoạn văn này? => GV chốt, ghi bảng. GV (Mũ xanh): Tổng kết và bình giảng: - Mũ vàng trả lời. (?) Theo các bạn, tác giả TL đã miêu tả về điều gì rất chính xác trong đoạn văn này? Những cảm nhận về hương thơm được miêu tả chính xác. + Hình ảnh tinh tế đầy sức gợi. + Liên tƣởng đẹp, đầy chất thơ. + Giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng. => Cốm là sự kết tinh những tinh tuý của thiên nhiên. * GV chuyển ý: - HS quan sát đoạn VB tiếp theo: “ Đợi đến lúc vừa nhấtchiếc thuyền rồng”. (?) Tại sao có nhiều nơi cũng biết cách thức làm cốm, nhƣng không đâu làm đƣợc hạt cốm dẻo, thơm và ngon đƣợc bằng ở làng Vòng? - Nhóm mũ đen: có cảm thấy điều gì khó hiểu trong đoạn văn này? - Nhóm mũ đen có thể thắc mắc: + Đợi đến lúc vừa nhất là như thế nào? + 1 loạt cách chế biến là gì? + Thế nào là một sự bí mật trân trọng và khe khắt giữ gìn? - Cốm là sản phẩm khéo léo của con người làm ra: + Cách thức làm cốm : bí mật, trân trọng, khe khắt. Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 28/52 - Nhóm mũ xanh lá cây sẽ cụ thể hóa các công đoạn làm cốm để chúng ta thấy đƣợc cốm là “1 sự bí mật trân trọng và khe khắt”. (phim hoặc tranh ảnh) - Nhóm mũ đỏ có cảm xúc gì khi xem phim hoặc hình ảnh này? - Nhóm mũ vàng: Con có cảm nhận gì về hình ảnh “cô hàng cốm xinh xinh”? * GV tổng kết: => Các nhóm sẽ trả lời. - Quan sát. + Sự duyên dáng của cô gái làng Vòng đi bán cốm. Cội nguồn cao quý. - Yêu cầu HS quan sát đoạn văn từ : “Cốm là thức quà riêng biệtkín đáo và nhũn nhặn”. - Các nhóm chuẩn bị thảo luận. Thời gian: 2 phút. + Mũ đen: Tại sao tác giả không gọi cốm là “thứ quà” mà lại gọi cốm là - Quan sát. - Chuẩn bị thảo luận. 2. Cốm – giá trị văn hóa sâu xa - Là thức quà quí, riêng biệt của đất nước. Xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu một số văn bản chương trình Ngữ văn 7 29/52 “thức quà”? + Mũ đỏ: “Cốm là thức quàAn Nam”. Qua câu văn trên, em có nhận xét gì về tình cảm, thái độ của tác giả đối với giá trị của cốm? + Mũ trắng: Em hiểu “sêu tết” là gì? Tại sao, cốm lại được dùng để làm quà sêu tết? + Mũ xa
Tài liệu đính kèm: