Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một

Phần học các nét cơ bản:

Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh.Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.

VD: - Các nét chữ cơ bản và tên gọi: nét sổ thẳng, nét ngang

 - Nhóm 1: Nét xiên: nét xiên phải, nét xiên trái

 - Nhóm 2: Nét móc: nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu

 - Nhóm 3: Nét cong: nét cong hở phải, nét cong hở trái, nét cong kín

 - Nhóm 4: Nét khuyết: nét khuyết trên, nét khuyết dưới, nét thắt

 

doc 16 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 27150Lượt tải 7 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 tài “ Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một ”.
 III. PHẠM VI ĐỀ TÀI:
 Học sinh lớp Một 6 trường tiểu học Đoàn Thị Nghiệp năm học 2014 - 2015. 
 IV. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
- Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một đoạn thơ ngắn  
- Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu mà các em viết.
V. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
 	Tôi thường nghiên cứu các giáo trình Phương Pháp Dạy Học Tiếng Việt 1. Các tài liệu liên quan: Sách Giáo Viên, Sách Giáo Khoa, Các loại sách liên quan đến môn Tiếng Việt cho học sinh lớp Một, internet .
B. NỘI DUNG: 
 I. THỰC TRẠNG:
1. Thuận lợi:
 Giáo viên:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của caùn boä quaûn lí nhaø tröôøng, tổ chuyên môn. Tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.
- Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như năng lực, phẩm chất.
- Bản thân giáo viên có sức khoẻ tốt , trẻ, có năng lực và nhiệt tình trong giảng dạy, luôn đặt chữ tâm lên hàng đầu.
 Học sinh:
Các em lớp 1 đa số đã học mẫu giáo nên rất ngoan, dễ vâng lời, biết
nghe lời thầy cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng .
 - Phụ huynh có ý thức trách nhiệm, quan tâm đến việc học tập của con em mình và phối hợp với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập,thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.
2/ Khó khăn
Giáo viên:
- Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất thời gian đầu tư.
- Máy chiếu , máy tính trang bị trong phòng học còn hạn chế nên không có điều kiện cho các em quan sát đầy đủ những hình ảnh minh hoạ liên quan đến bài học.
b Học sinh:
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
 - Do đặc trưng vùng miền nên các em chủ yếu phát âm sai x / s , r/g , ch/tr , dấu thanh hỏi – ngã, 
 - Đa số phụ huynh trong lớp là dân làm vườn, nhiều trường hợp phải lo cho kinh tế cuộc sống nên chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm cặp con em mình học bài, đọc bài ở nhà.
 - Một số trường hợp học sinh phải ở với ông bà do cha mẹ làm ăn xa, làm mướn theo thời vụ, cha mẹ li hôn  nên mức độ quan tâm, theo dõi có giới hạn cũng ảnh hưởng đến việc học tập của các em.
II. BIỆN PHÁP:
1/ Nắm bắt thực trạng, tình hình học sinh qua khảo sát điều tra kiến thức đầu năm
- Tìm hiểu để biết rõ số học sinh trong lớp đi học Mẫu giáo và số học sinh không đi học Mẫu giáo, hoặc đi học không đều. Tìm hiểu nguyên nhân, lý do vì sao học sinh đó không đi học Mẫu giáo.
- Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở Mẫu giáo và kết quả điều tra năm 2014 – 2015 thu được như sau:
Tình hình học sinh: lớp Một 6 sĩ số : 33 học sinh
Học sinh không đi học Mẫu giáo : 3 em
Học sinh đi học không đều : 3 em
Học sinh đi học đều : 30 em
 Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái:
Học sinh không biết chữ cái nào : 3 em
Biết 6 - 10 chữ cái : 10 em
Nhận biết hết : 20 em
 	 Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học. Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh tôi đã có những biện pháp cụ thể sau
2/ Biện pháp
a/ Biện pháp tác động giáo dục
- Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học.
- Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, các phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
- Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui, sinh động. Đồng thời mượn đồ dùng học tập, sách giáo khoa cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
- Xây dựng đôi bạn học tốt – chưa tốt kèm cặp nhau.
- Giáo viên có thể cho học sinh học chậm, đọc chậm để ngồi gần với một học sinh đọc tốt. Bạn đọc tốt sẽ giúp bạn đọc còn chậm khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.
- Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo mức hoàn thành và chưa hoàn thành. Đối với các học sinh chưa hoàn thành, các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 29 chữ cái đơn giản, giáo viên nên dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 29 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản.
b/ Phần học các nét cơ bản:
Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh.Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
VD: - Các nét chữ cơ bản và tên gọi: nét sổ thẳng, nét ngang 
 - Nhóm 1: Nét xiên: nét xiên phải, nét xiên trái
 - Nhóm 2: Nét móc: nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu
 - Nhóm 3: Nét cong: nét cong hở phải, nét cong hở trái, nét cong kín
 - Nhóm 4: Nét khuyết: nét khuyết trên, nét khuyết dưới, nét thắt
 c/ Phần học âm:
Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. 
Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thi tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó cũng là chữ q hay chữ p để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng.
VD: 
 Âm - q, p 
+ Âm q gồm 2 nét: Nét cong kín nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải. 
+ Âm p gồm 2 nét: Nét cong kín nằm bên phải và nét sổ thẳng nằm bên trái. 
Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của các chữ cái.
Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó.
VD:
+ Các âm ghép: ch - c
 nh - n 	
	 th - t
	 kh - k
 	 gh - g
	 ph - p
	ngh - ng
+ Còn lại các âm :
	gi,tr, qu,ng tôi cho học kỹ về cấu tạo
+ Phân từng cặp :
 ch - tr , ng - ngh, c - k, g – gh để học sinh phát âm chính xác và viết c hính tả.
Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện sự tiến bộ của trẻ thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ.. từ đó củng cố thêm kiến thức cho học sinh.
d/ Phần học vần 
Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.
Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen: nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững.
VD: Học vần ăm : 
 1/ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ăm: vần ăm gồm 2 âm: âm ă và âm m
 Vị trí âm trong vần: âm ă đứng trước, âm m đứng sau.
 2/ Đánh vần vần ăm: 
Hướng dẫn học sinh: âm ă đứng trước , ta đọc ă trước, âm m đứng sau ta đọc m sau : ă _mờ _ăm.
Đọc trơn vần: : ăm
Kết hợp dùng bộ chữ học vần tiếng vần dành cho học sinh để ghép vần
Yêu cầu các em: chọn đúng hai con chữ: ă và m
 Ghép đúng vị trí: ă trước m sau
Nếu các em đã ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn vần như trên các em sẽ nhận biết và đọc được vần ăm.
Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như thế, nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài dạy vần, sách giáo khoa Tiếng Việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ ứng dụng và các câu thơ, câu văn ngắn để học sinh luyện đọc. Muốn cho học sinh đọc được các từ và câu 
ứng dụng trong bài giáo viên cho học sinh nắm chắc các vần sau đó cho các em ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài.
VD: dạy vần ăm có từ con tằm.
Sau khi học sinh nắm vững vần ăm, nhìn và đọc được vần ăm một cách chắc chắn. Giáo viên đưa ra từ con tằm và giúp học sinh nhận biết: Âm gì đứng trước vần ăm (âm t) dấu thanh gì ở trên vần ăm (dấu huyền) vậy ta có thể ghép và đánh vần : tờ - ăm – tăm- huyền – tằm, đọc trơn : tằm, ghép từ : con tằm .
Giáo viên có thể sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được nhìn vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi trí tò mò, ham học hỏi của học sinh giúp các em chủ động trong giờ học.
e/ Phần tập đọc:
- Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh chưa hoàn thành. Học sinh hoàn thành đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt. Còn học sinh chưa hoàn thành các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh.Giáo viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.
VD: Dạy bài tập đọc Trường em (sách giáo khoa Tiếng Việt 1)
1/ Học sinh chưa đọc được tiếng trường, giáo viên nên cho các em đánh vần tiếng trường bằng cách phân tích như sau:
GV: Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì?
HS: Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền.
GV: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào? 
HS: trờ - ương – trương – huyền – trường.
GV: Đọc trơn tiếng này thế nào?
Hs: Trường.
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp: trường em.
2/ Học sinh yếu không đọc được tiếng trường
GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.
GV: Vần ương gồm có mấy âm? 
HS: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng.
GV: Vị trí các âm trong vần thế nào?
HS: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.
GV: Đánh vần và đọc trơn vần ương.
HS: ươ- ng- ương, ương
GV: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương.Ta đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào?
HS: Trờ - ương – trương- huyền – trường, trường
và sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đánh vần nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.
III. NHỮNG PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
Trong từng tiết dạy môn Tiếng việt, để giúp học sinh tích cực và ham học giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như sau:
Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.
Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát
 tìm hiểu.
Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên qua đến bài dạy.
Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo viên.
IV. PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY
Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhắm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là tối ưu, tôi sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều phương pháp để giúp học sinh mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được tôi áp dụng trong giờ học:
 1.Phương pháp đọc mẫu của giáo viên:
 Muốn rèn luyện kĩ năng cho học sinh được tốt trước hết phải chú ý đến việc đọc mẫu của giáo viên. Qua việc đọc mẫu của giáo viên các em có thể bắt chước đọc đúng từ phát âm đến giọng đọc. Đồng thời người giáo viên còn phải kết hợp nhiều phương pháp mới có chất lượng cao.
 - Việc đầu tiên mà tôi thực hiện là rèn cho học sinh đọc đúng qua 3 bước:
 + Bước 1: Rèn cho học sinh phát âm đúng (đúng phụ âm đầu, đúng vần, đúng phụ âm cuối, dấu thanh)
 + Bước 2: Luyện cho học sinh đọc đúng một số từ khó. Bước này tôi dựa vào trình độ của học sinh lớp tôi, tôi đã chọn một số từ ngữ cần luyện đọc hoặc cho các em tự tìm ra các từ ngữ khó.
 + Bước 3: Luyện cho học sinh đọc đúng cụm từ khó. Để làm tốt khâu này, tôi phải phát âm đọc mẫu chuẩn xác với cường độ cho học sinh nghe rõ ràng, tốc độ vừa đủ cho học sinh nghe kịp và hiểu được.
 - Luyện đọc cho học sinh đọc bằng mắt: việc này tôi hướng dẫn học sinh không đánh vần từng chữ, cũng không phải đọc lẩm nhẩm trong miệng mà có thể nhìn bằng mắt lướt qua các chữ, từ đó đọc trọn được một câu. Thực hiện điều này tôi hướng dẫn học sinh dùng que tính chỉ lướt theo các chữ đang đọc và đồng thời tôi cũng đọc thầm theo để phát hiện học sinh không đọc cũng giơ tay.
 - Luyện cho học sinh đọc diễn cảm: trong khi hướng dẫn học sinh luyện đọc, tôi kết hợp hướng dẫn các em biết sắc thái tình cảm khác nhau của một bài văn tạo được âm hưởng của đoạn văn, bài thơ, bài văn
 VD: Khi dạy bài “ Mưu chú Sẻ” tôi hướng dẫn học sinh thể hiện cách phân vai như sau:
 - Giọng người dẫn chuyện với giọng kể hồi hộp, căng thẳng ( Buổi sớm, một con Mèo chộp được một chú Sẻ. Sẻ hoảng lắm, nhưng nó nén sợ, lễ phép nói)
 - Giọng Sẻ: nhẹ nhàng, lễ độ ( Thưa anh, tại sao một người sạch sẽ như anh trước khi ăn sáng lại không rửa mặt? )
 - Người dẫn chuyện: thoải mái ( Nghe vậy, Mèo bèn đặt Sẻ xuống, đưa hai chân lên vuốt râu, xoa mép. Thế là Sẻ vụt bay đi. Mèo rất tức giận nhưng đã muộn mất rồi.)
2. Phương pháp đàm thoại, vấn đáp:
 	Tôi đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
VD: - Chữ này là chữ gì? ( chữ a, u, x, m, t ...)
Âm h đứng trước, vần uynh đứng sau, em đánh vần thế nào?( hờ- uynh - 
huynh). Khi sử dụng phương pháp này, tôi dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Luôn ôn tồn dẫn dắt học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong mỗi ngày.
3. Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh:
Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm, đọc yếu để gọi các em thường xuyên đọc bài . Đối với học sinh hoàn thành tốt tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn.Còn đối với học sinh chưa hoàn thành tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Cố lên, rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài nhều ở lớp cũng như ở nhà.” Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các em đọc chậm, hay sai nhiều lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với tôi. Tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi ( nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi). Khi các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những lần khen tên trước lớp hay những phần quà nhỏ như cái kẹo, cuốn vở, viên phấn màu,  để các em thích thú và cố gắng hơn.
4. Phương pháp học nhóm:
Như đã nói ở trên,tôi cho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chậm, em học tốt ngồi gần em đọc yếu để giúp bạn học tập ở lớp. Còn khi về nhà tôi phân công và giao nhiệm vụ cho em đọc chậm đem sách đến để cùng học, cùng đọc bài với bạn đọc tốt gần nhà nhất và cho bạn đọc tốt báo cáo với cô: sau buổi đọc bài cùng nhau em đã thấy bạn đọc có tiến bộ chưa,có còn vấp nữa không?...
5. Phương pháp tổ chức các trò chơi:
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.
VD - Trò chơi Ai nhanh – Ai đúng
Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường hay chọn các học sinh còn chậm để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
- Cuối mỗi giờ học tôi thường tổ chức cho các em thi đọc đúng, diễn cảm hay học thuộc lòng một đoạn thơ, đoạn văn theo nhiều hình thức như cá nhân, tổ, nhóm.
6. Phương pháp nhận xét nêu gương:
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh đọc chậm để dẫn dắt các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi trong lớp.
VD: Tôi chọn 2, 3 học sinh đọc tốt, học cũng tốt làm gương cho cả lớp học tập theo. Các bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em cũng sẽ đọc giỏi như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn : đọc chưa thông,đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi.
Và tôi đã cũng đọc với các bạn còn đọc chậm ấy hằng ngày nhằm giúp đỡ khả năng đọc bài, cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc một tiếng, cách đọc sao cho nhanh như: nhẩm âm đầu → nhẩm vần → ghép âm đầu với vần → ghép dấu thanh thành tiếng 
V. KẾT QUẢ 
Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên để rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1. Tôi đã thu được những kết quả đáng khích lệ sau:
Số học sinh yếu giảm dần trong năm học:
 Năm học
 Sĩ số
 học sinh
 Số học sinh đọc yếu
Đầu năm
Cuối kỳ I
Cuối năm
2014 – 2015
 33
 13
 3
 1
Tuy số học sinh đọc yếu chưa đạt 100% nhưng kết quả này cũng rất đáng mừng, xứng đáng cho công sức và sự kiên nhẫn của tôi khi đứng lớp.
VI. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
 	 Rèn kỹ năng đọc cho học sinh là đọc đúng âm, vần, tiếng, từ,câu, đoạn, bài Đọc còn yêu cầu học sinh biết ngắt nghỉ đúng ở dấu phẩy, dấu chấm, đọc còn yêu cầu các em phát âm chuẩn, chính xác các con chữ để khi viết các em không nhầm lẫn dẫn đến sai lỗi chính tả.
Vì thế để phân môn tập đọc của học sinh lớp 1 có kết quả cao. Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh,mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ve_REN_KY_NANG_DOC_CHO_HOC_SINH_LOP_1.doc