Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THCS

* Dạng bài tập 1: Sắp xếp các câu văn đã cho sẵn để tạo thành một đoạn văn hoàn chỉnh và hợp lý.

Với dạng bài tập này, tôi đưa ra một số câu văn nghị luận không đúng thứ tự, sau đó yêu cầu học sinh sắp xếp thành đoạn văn hợp lý; rèn luyện cho học sinh bước đầu biết cách trình bày luận điểm từ cách viết cách lập luận của đoạn văn.

Ví dụ: Sắp xếp các câu văn dưới đây để tạo thành một đoạn văn hoàn chỉnh và hợp lý nói về đức tính giản dị của Bác Hồ:

- Câu 1: Những chân lý giản dị mà sâu sắc đó lúc thâm nhập vào quả tim và bộ óc của hàng triệu con tim đang chờ đợi nó, thì đó là sức mạnh vô địch, đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

- Câu 2: Suy cho cùng, chân lý, những chân lý lớn của nhân dân ta cũng như của thời đại là giản dị: " Không có gì quý hơn độc lập tự do" . " Nước Việt Nam là một , dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn; song chân lý ấy không bao giờ thay đổi".

- Câu 3: Giản dị trong đời sống, trong quan hệ với mọi người, trong tác phong. Hồ Chủ Tịch rất giản dị trong lời nói và bài viết, vì muốn cho quần chúng nhân dân hiểu, nhớ được, làm được.

 

doc 12 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 7203Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện pháp rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận cụ thể như sau:
1. Đề văn nghị luận và kỹ năng tìm hiểu đề.
Trước đây đề văn nghị luận ở chương trình cũ, thường có mệnh lệnh : "Hãy chứng minh..." , "Hãy phân tích...", "Hãy giải thích..." Cách ra đề như vậy là cần thiết, song nhiều khi không tránh khỏi hạn chế cách làm của học sinh vào một phương thức một thao tác nghị luận, trong khi trên thực tế học sinh có thể và cần phải sử dụng kết hợp nhiều thao tác để làm bài. Hiện nay cách ra đề đa dạng hơn, mở hơn, tức là chủ yếu đề chỉ nêu vấn đề của bài làm, như vậy học sinh sẽ có cơ hội trình bày ý kiến của mình được mở hơn, không gò bó trong một thao tác làm bài cụ thể. Ví dụ như một số đề bài mở như sau:
- Lối học "tủ" học "vẹt".
- Không thể sống thiếu tình bạn.
- Thời gian là vàng.
- Hình tượng nhân vật chị Dậu trong "Tức nước vỡ bờ” (trích "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố).
- Tình yêu quê hương trong bài "Quê hương" của Tế Hanh. 
Đọc các đề bài trên, ta thấy ngoài vấn đề nghị luận mà đề bài nêu ra, đề bài còn cho biết tính chất của đề ra. Đề có thể mang tính chất ca ngợi phê phán, tranh luận, phân tích hoặc khuyên nhủ. Mỗi tính chất sẽ quy định cách viết giọng điệu lời văn ,...thích hợp. Do đó, tôi cho học sinh đọc kỹ đề bài, suy nghĩ và xác định chính xác vấn đề và tính chất của vấn đề, tránh lạc đề, xa đề. 
* Để rèn kĩ năng này, tôicho học sinh bằng các bài tập sau:
* Dạng bài tập 1: Nhận diện đề thông qua so sánh sự khác nhau của các đề bài:
Ví dụ:
Đề 1: Suy nghĩ về truyện ngắn "Lão Hạc" của Nam Cao.
Đề 2: Nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là một nông dân nghèo bất hạnh, nhưng có những phẩm chất trong sáng đẹp đẽ. Dựa vào tác phẩm "Lão Hạc" em hãy chứng minh nhận xét trên.
Đề 3: Về hình tượng nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.
Đề 4: Suy nghĩ về nghệ thuật xây dựng nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao. 
Bốn đề bài trên đều xoay quanh tác phẩm "Lão Hạc" của Nam Cao. Tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, tìm ra sự khác nhau về vấn đề nghị luận và hình thức lập luận. Tuy nhiên tôi chú ý cho học sinh nắm được trong một bài văn nghị luận người viết thường vận dụng nhiều thao tác nghị luận, kỹ năng giải thích, chứng minh, phân tích, so sánh... . Và nhiều khi khó có thể tách bạch một cách rạch ròi các thao tác kỹ năng đó. Trong thao tác nghị luận này đã có hoặc đang sử dụng thao tác nghị luận kia. Nhưng với yêu cầu cụ thể giới hạn của một đề bài cụ thể , tôi yêu cầu các em cần xác định chính xác hình thức lập luận nào là chủ yếu. Từ đó các em có định hướng làm bài đúng với yêu cầu của đề ra và làm nổi bật đặc trưng của từng hình thức lập luận.
Ví dụ: + Văn chứng minh : Đặc trưng là hệ thống các dẫn chứng, tiêu biểu toàn diện chính xác phù hợp với vấn đề (kết hợp với lý lẽ).
	+ Văn giải thích : Đặc trưng là các lý lẽ giảng giải làm rõ các khía cạnh của vấn đề (có dùng dẫn chứng nhưng ít).
	+ Trình bày cảm nhận, suy nghĩ: Đặc trưng của bài viết là nêu ra các ý kiến đánh giá nhận xét, phân tích - bày tỏ thái độ của người viết với vấn đề nghị luận.
* Dạng bài tập 2: Rèn luyện kỹ năng cho học sinh nhận biết yêu cầu hình thức lập luận.
Ví dụ: Cho các đề bài sau:
Đề 1: Tinh thần dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn là một trong những nội dung tư tưởng chính của văn học trung đại Việt Nam. Dựa vào các văn bản "Chiếu dời đô" của Lý Công Uẩn; "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn và "Nước Đại Việt ta" của Nguyễn Trãi, em hãy chứng minh nội dung trên.
Đề 2: Hình tượng người nông dân trước Cách mạng tháng Tám hiện lên với những phẩm chất vô cùng đẹp đẽ. Dựa vào một số tác phẩm đã học ở lớp 8 phần văn học hiện thực 1930- 1945, em hãy làm rõ ý kiến trên. 
Qua hệ thống câu hỏi tìm hiểu đề, tôi rèn cho các em chỉ ra được hình thức lập luận của 2 đề văn trên đều là chứng minh. Yêu cầu này thường được thể hiện ở các từ ngữ: Chứng minh, làm sáng tỏ hoặc làm rõ, v.v
Từ đó tôi rèn thói quen cần thiết khi làm bài là phải xác định chính xác hình thức lập luận của đề bài, nhằm giúp các em dùng đúng hình thức lập luận phù hợp với yêu cầu của đề bài.
2. Rèn luyện kỹ năng tìm ý xây dựng hệ thống luận điểm, sắp xếp các luận điểm trong bài văn nghị luận.
Như ta đã biết, trong một bài văn nghị luận, luận điểm chính là linh hồn của bài văn. Do đó việc xây dựng hệ thống luận điểm sắp xếp các luận điểm rất quan trọng, không thể lướt qua, chiếu lệ.
Để rèn luyện kỹ năng xây dựng luận điểm cho một đề bài cụ thể, trước hết tôi yêu cầu học sinh phân biệt rõ vấn đề nghị luận và luận điểm, luận điểm và luận cứ. Như trong tài liệu SGV nói rõ " Vấn đề như cái tên của nó cho thấy, lại là một câu hỏi đặt ra trước lí trí con người thúc giục con người phải tìm ra lời giải đáp". Những ý kiến quan điểm chủ trương chủ yếu đưa ra để giải đáp cho câu hỏi, để giúp lý trí thông suốt. Đó chính là luận điểm. Không có luận điểm đúng, có cơ sở khoa học đáng tin cậy thì không thể làm sáng tỏ được vấn đề. Vì vậy, việc tìm được hay không tìm được luận điểm đúng sẽ quyết định việc học sinh có làm được hay không làm đúng được yêu cầu của bài văn nghị luận. Như vậy luận điểm không phải là vấn đề, cũng không phải là một khía cạnh của vấn đề. Vấn đề có thể là câu hỏi, luận điểm là sự trả lời. Những câu hỏi "Tại sao phải dời đô" trong "Chiếu dời đô" đó không phải là một luận điểm. Luận điểm phải đạt các tiêu chuẩn: Chính xác, rõ ràng phù hợp với yêu cầu để giải quyết vấn đề.
Công việc xây dựng hệ thống luận điểm có vai trò quan trọng. Nếu các em đã tìm đủ các luận điểm cần thiết, sắp xếp các luận điểm đó thành bố cục hợp lý và biết cách trình bày luận điểm bằng các luận cứ phù hợp làm sáng tỏ luận điểm thì việc viết bài nghị luận không còn là khó khăn nữa.
Khi thực hành luyện tập kĩ năng này, tôi lưu ý học sinh là luôn nhớ và nhắc lại lý thuyết cơ bản để tạo thói quen đi từ lý thuyết đến thực hành tránh tuỳ tiện, qua loa đại khái. Yêu cầu học sinh chuẩn bị kĩ nội dung trước khi vào luyện tập như đọc kĩ văn bản văn học, tra cứu tài liệu, chuẩn bị lý lẽ, dẫn chứng, ý kiến quan điểm xung quanh vấn đề.
Dành thời gian cho học sinh luyện tập kĩ năng này, tôi sử dụng các bài tập sau: * Dạng bài tập 1: Tập viết câu chủ đề nêu luận điểm.
Tôi cho một số đoạn văn nghị luận chưa có câu chủ đề, yêu cầu học sinh: Nêu nội dung chính của đoạn văn bằng một câu văn ngắn gọn (câu luận điểm ) chính xác rõ ràng.(câu chủ đề).
* Dạng bài tập 2: Chọn luận điểm trong hệ thống luận điểm đã có sẵn cho phù hợp với vấn đề nghị luận và sau đó sắp xếp các luận điểm theo trình tự hợp lý. Ví dụ: Giải thích câu nói của M.Gooc-ki : "Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống".
Với đề trên, một bạn đã dự kiến đưa ra hệ thống luận điểm phần thân bài như sau:
a- Sách là sản phẩm có giá trị của loài người, là nguồn kiến thức rộng lớn.
b- Tác dụng của sách không bị giới hạn bởi thời gian và không gian.
c- Đã có những cuốn sách không chỉ là con đường sống cho một người , trăm người, triệu người mà cho cả nhân loại.
d- Có nhiều loại sách tốt, xấu.
e- Em rất thích đọc sách, đọc sách là một cách học hỏi. 
g- Ngày nay con người còn tạo ra "đĩa mềm" lưu giữ thu thập mọi dữ liệu về các lĩnh vực.
h- Dù ở thời hiện đại, nhiều máy móc tinh xảo, sách vẫn là người bạn bình dị chân thành và giàu trí thức của mỗi chúng ta.
y-Vì sao chúng ta phải yêu sách? Chúng ta phải yêu sách như thế nào?
.............................................
Em có nhất trí dùng tất cả các dự kiến mà bạn đã nêu ra không? Nếu không em chọn ra và sắp xếp lại cho phù hợp? Vì sao em sắp xếp như thế?
Mục đích của dạng bài tập này là bước đầu nhận biết cách nêu luận điểm và sắp xếp luận điểm phù hợp với vấn đề nghị luận.
* Dạng bài tập 3: Xây dựng hệ thống luận điểm, sắp xếp luận điểm.
Ví dụ : Đề bài:
a. Hãy tìm những luận điểm chính để chứng minh rằng :
" Rừng mang lại nhiều lợi ích cho cuộc sống con người".
b. Hãy tìm các luận điểm cơ bản để chứng minh rằng lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là người nông dân bất hạnh nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp.
Với dạng bài tập này, tôi yêu cầu học sinh tự xây dựng hệ thống luận điểm. Tôi hướng dẫn các em làm bài tập này theo từng bước:
+ Bước thứ nhất: Học sinh tìm và xây dựng hệ thống luận điểm. 
+ Bước thứ hai: Học sinh trình bày hệ thống luận điểm trước lớp.
+ Bước thứ ba: Lớp nhận xét đúng, sai và bổ sung thêm ý kiến để các luận điểm vừa đủ, chính xác phù hợp với vấn đề nghị luận.
+ Bước thứ tư: Sau khi học sinh đã xây dựng được hệ thống luận điểm, tôi cho học sinh sắp xếp các luận điểm theo trình tự hợp lý. Luận điểm trước làm cơ sở cho luận điểm sau, luận điểm sau mở rộng hơn các luận điểm trước.
Mục đích của dạy bài tập này là rèn luyện cho học sinh thói quen thực hiện những thao tác cần thiết xây dựng hệ thống luận điểm, luận cứ khi làm văn nghị luận. Các em thực hiện tốt những thao tác này thì bài viết của các em trước hết là đã đủ ý , đúng yêu yêu cầu nội dung của đề bài ra.
3. Rèn luyên kĩ năng trình bày luận điểm:
Để rèn luyên kĩ năng trình bày luận điểm trong bài văn nghị luận, tôi yêu cầu học sinh ghi nhớ một số kiến thức sau:
+ Muốn làm sáng tỏ 1 luận điểm, trước hết cần xác định luận điểm nói về lĩnh vực nào ? Đời sống văn học? Gần hay xa so với cuộc sống quanh ta? 
+ Huy động những hiểu biết của người làm văn để tìm ra các luận cứ phù hợp phục vụ cho việc làm sáng rõ luận điểm.
+ Sắp xếp các luận cứ theo một trình tự hợp lý và trình bày luận cứ để làm sáng tỏ luận điểm.
+ Khi viết học sinh cần xác định vị trí câu chủ đề để biết đoạn văn trình bày theo kiểu diễn dịch, qui nạp ... 
+ Sử dụng hệ thống từ ngữ lập luận tạo sự liên kết và lý lẽ chặt chẽ giữa các câu trong đoạn, giữa các đoạn văn trong bài văn nghị luận. 
Ngoài những bài tập luyện tập trong sách giáo khoa, tôiđưa thêm 1 số bài tập: 
* Dạng bài tập 1: Sắp xếp các câu văn đã cho sẵn để tạo thành một đoạn văn hoàn chỉnh và hợp lý.
Với dạng bài tập này, tôi đưa ra một số câu văn nghị luận không đúng thứ tự, sau đó yêu cầu học sinh sắp xếp thành đoạn văn hợp lý; rèn luyện cho học sinh bước đầu biết cách trình bày luận điểm từ cách viết cách lập luận của đoạn văn.
Ví dụ: Sắp xếp các câu văn dưới đây để tạo thành một đoạn văn hoàn chỉnh và hợp lý nói về đức tính giản dị của Bác Hồ:
- Câu 1: Những chân lý giản dị mà sâu sắc đó lúc thâm nhập vào quả tim và bộ óc của hàng triệu con tim đang chờ đợi nó, thì đó là sức mạnh vô địch, đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
- Câu 2: Suy cho cùng, chân lý, những chân lý lớn của nhân dân ta cũng như của thời đại là giản dị: " Không có gì quý hơn độc lập tự do" . " Nước Việt Nam là một , dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn; song chân lý ấy không bao giờ thay đổi".
- Câu 3: Giản dị trong đời sống, trong quan hệ với mọi người, trong tác phong. Hồ Chủ Tịch rất giản dị trong lời nói và bài viết, vì muốn cho quần chúng nhân dân hiểu, nhớ được, làm được.
 Dựa vào nội dung của từng câu văn học sinh xếp theo thứ tự lập luận:Câu3 -2- 1.
* Dạng bài tập 2: Sử dụng từ ngữ lập luận trong việc trình bày luận điểm cho một bài văn nghị luân.
Tôi cho một số đoạn văn nghị luận đã lược bỏ đi từ ngữ lập luận, yêu cầu học sinh điền từ ngữ lập luận vào chỗ trống cho hợp lý. 
Ví dụ: Cho đoạn văn nghị luận sau điền từ ngữ lập luận thích hợp vào chỗ trống.
"Kiều không biết mấy lần nhìn trăng........ cảnh trăng mỗi lần một khác.... rạo rực yêu đương,....... gần gũi âu yếm,............bát ngát bao la,.............ám ảnh như lời trách móc,......cô đơn,..........tàn tạ,.......mong manh. Có thể nói thiên nhiên trong truyện Kiều cũng là một nhân vật , một nhân vật thường vẫn kín đáo, lặng lẽ......không mấy khi không có mặt và luôn luôn thắm đượm tình người.”
(Hoài Thanh)
Học sinh có thể điền các từ "nhưng","khi".
* Dạng bài tập 3: Tìm luận cứ làm sáng tỏ luận điểm.
Ví dụ: Hãy tìm các luận cứ để làm sáng tỏ luận điểm sau:
"Lão Hạc là một lão nông chất phác, hiền lành và nhân hậu"
Dựa vào văn bản Lão Hạc của Nam Cao tìm ra các luận cứ và sắp xếp các luận cứ để làm sáng tỏ luận điểm trên.
Với bài tập này, tôi rèn cho học sinh có thao tác thành thạo kĩ năng tìm luận cứ và sắp xếp luận cứ phù hợp với luận điểm. Đây là khâu rất quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng trình bày luận điểm của bài văn nghị luận.
* Dạng bài tập 4: Cho câu chủ đề, triển khai câu chủ đề thành đoạn văn nghị luận có lập luận chặt chẽ. 
Một số bài tập sau:
Ví dụ 1: Cho ý sau làm câu chủ đề của đoạn văn: Truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng" của O. Henri đã thể hiện rất cảm động tình yêu thương cao cả giữa những người nghèo khổ.
Hãy viết tiếp 5 câu để làm sáng tỏ ý trên, trong đó có sử dụng một số cụm từ mở đầu câu như:
- Tình yêu thương đã khiến cho....
- Đó chẳng phải là....
- Đó chính là ....
Ví dụ 2: 
Em hãy phát triển luận điểm trong hệ thống luận điểm đã xây dựng cho đề bài: Chứng minh rằng Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là một người nông dân bất hạnh, nhưng có những phẩm chất trong sạch đẹp đẽ.
Ví dụ 3:
Chọn hai luận điểm trong hệ thống luận điểm đã xây dựng trong các bài tập xây dựng hệ thống luận điểm. Mỗi luận điểm viết thành một đoạn văn ( diễn dịch hoặc qui nạp). Có sử dụng từ ngữ lập luận chặt chẽ và liên kết đoạn văn phù hợp. hoặc viết đoạn văn diễn dịch sau đó chuyển thành đoạn văn qui nạp. Từ đó giúp học sinh có kỹ năng trình bày đoạn văn diễn dịch hoặc qui nạp một cách thành thạo.
* Dạng bài tập 5: Rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn văn trình bày luận điểm sử dụng phép lập luận chứng minh, giải thích...
Ví dụ: "Sách là người bạn thân thiết của mỗi chúng ta."
a) Em hãy một đoạn văn chứng minh cho đề trên.
b) Em hãy một đoạn văn giải thích cho đề trên.
Sau khi các em viết hoàn thành 2 đoạn văn , tôi cho học sinh so sánh cách lập luận của hai đoạn văn, để học sinh nắm chắc đặc điểm cơ bản của phép lập luận chứng minh khác với phép lập luận giải thích như thế nào. Từ đó các em hình thành các kỹ năng lập luận và áp dụng thành thạo các thao tác lập luận đó vào làm một bài văn nghị luận cụ thể.
Với những dạng bài tập trên tôi đã nâng cao dần từng bước khả năng viết văn nghị luận cho các em, tôi yêu cầu các em làm nhiều bài tập này, viết nhiều đoạn văn trình bày luận điểm để các em thành thạo trong việc viết đoạn văn nghị luận. Các em có kỹ năng viết đoạn văn, chuyển đoạn bằng từ ngữ, câu nối đoạn. Từ hệ thống bài tập này, từng bước từ dễ đến khó tôi đã rèn luyện cho các em các bước cần thiết để làm một bài văn nghị luận hoàn chỉnh.
4. Rèn luyện kỹ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận:
Bài văn nghị luận không chỉ tác động đến lý trí mà còn tác động vào tình cảm, cảm xúc của người đọc ( người nghe). Do đó văn nghị luận rất cần phải có yếu tố biểu cảm. Yếu tố biểu cảm giúp cho bài văn nghị luận tăng thêm sức thuyết phục. Để làm văn nghị luận có sức biểu cảm cao, người làm văn phải thực sự có cảm xúc trước những điều mình nói ( viết) và phải biết diễn tả cảm xúc đó bằng các từ ngữ biểu cảm, câu văn cảm thán. Nhưng sự diễn tả cảm xúc cần phải chân thực không được phá vỡ mạch lạc nghị luận, lấn át nghị luận của bài văn. Chính vì vậy tôi cho các em hiểu rằng: không phải vì chú ý tạo ra các yếu tố biểu cảm cho bài văn mà quên rằng văn nghị luận ở kiểu bài giữ vai trò chủ yếu, yếu tố biểu cảm chỉ là phụ trợ. Vậy cần hết sức tránh không để yếu tố biểu cảm tách rời nghị luận hoặc gây cản trở mạch lạc nghị luận hay lấn át vai trò nghị luận.
Với kĩ năng này, tôi yêu cầu các em làm bài tập thực hành viết văn nghị luận và luôn có ý thức đưa yếu tố biểu cảm vào đoạn văn nghị luận. Mỗi luận điểm đan xen yếu tố biểu cảm như thế nào cho vừa đủ và phù hợp.
Để rèn luyện kĩ năng này, tôi hướng dẫn các em làm các bài tập trong sách giáo khoa. Từ các bài tập trong các văn bản nghị luận chuẩn mực trong chương trình các em học tập cách đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận và thấy được vai trò tác dụng của các yếu tố biểu cảm đó.
Bên cạnh bài tập trong SGK, tôi đưa thêm một số bài tập khác như sau:
* Dạng bài tập 1: Điền vào chỗ trống những từ ngữ cần thiết để đoạn văn nghị luận có sức biểu cảm thuyết phục hơn.
Ví dụ: Đoạn văn:
"Những ngày thơ ấu là một tập hồi kí ..... về tuổi thơ..... của Nguyên Hồng trong chế độ cũ. ở đoạn trích "Trong lòng mẹ" tác giả đã miêu tả một cách..... những rung động.... của một tâm hồn trẻ dại". Đó là nỗi nhớ thương yêu quí sâu sắc của bé Hồng với người mẹ của mình."
Tôi đưa ra nhiều đoạn văn tương tự trên tổ chức cho các em trao đổi thảo luận và cùng nhau thống nhất điền từ ngữ biểu cảm và câu cảm thán vào chỗ trống cho phù hợp để đoạn văn nghị luận trở lên giàu cảm xúc hơn.
* Dạng bài tập 2: Cho trước câu chủ đề yêu cầu học sinh phát triển câu chủ đề thành một đoạn văn nghị luận sao cho đoạn văn vừa có lý lẽ chặt chẽ vừa có sức truyền cảm. 
Mục đích của bài tập này giúp cho học sinh từ những kiến thức thu được ở các văn bản mẫu đã học trong chương trình học tập vận dụng vào việc viết đoạn văn nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm một cách chính xác, hiệu quả.
5. Rèn luyện kỹ năng đưa yếu tố tự sự, miêu tả vào bài văn nghị luận. 
Trong thực tế đời sống tự sự, miêu tả, biểu cảm là những phương thức biểu đạt khác nhau. Tuy nhiên trong bài văn nghị luận người nói ( người viết) cũng có thể đưa yếu tố tự sự và miêu tả như yếu tố biểu cảm, làm cho bài văn nghị luận tăng hiệu quả diễn đạt lên nhiều lần. Hai yếu tố này giúp cho việc trình bày luận điểm luận cứ trong bài văn nghị luận được rõ ràng cụ thể, sinh động hấp dẫn hơn. Và do đó bài văn có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn.
Việc đưa yếu tố tự sự và miêu tả vào bài văn nghị luận phải thực sự xuất phát từ nhu cầu nghị luận. Các yếu tố tự sự và miêu tả đưa vào phải phù hợp với luận điểm, luận cứ, phải phục vụ cho việc làm rõ luận điểm, không phá vỡ sự mạch lạc nghị luận của bài văn. 
Ngoài bài tập SGK, rèn kĩ năng này , tôi cho các em làm các bài tập sau:
* Dạng bài tập 1:
Tìm yếu tố tự sự và miêu tả trong văn bản nghị luận mẫu mực đã học như : "Chiếu dời đô" của Lý Công Uẩn, "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn; “Thuế máu” của Nguyễn ái Quốc, hay trong một số văn bản, đoạn văn nghị luận tiêu biểu khác, phân tích ý nghĩa, tác dụng của chúng trong đoạn văn, văn bản. Giúp cho các em nhận biết các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn bản nghị luận, nhận xét cách đưa yếu tố tự sự và miêu tả của người viết, từ đó các em học tập cách đưa yếu tố tự sự và miêu tả vào bài viết của mình.
* Dạng bài tập 2: Tập đưa yếu tố tự sự và miêu tả vào đoạn văn nghị luận.
Ví dụ 1: Hãy thêm những yếu tố miêu tả, tự sự để đoạn văn sau đây trở nên có sức thuyết phục hơn:
"Ngắm trăng là đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Từ ca dao đến "Truyện Kiều", trăng vẫn xuất hiện như kẻ tri ân. Nhưng con người ta thường chỉ ngắm trăng lúc nhàn nhã. Vậy mà, trong những ngày bị giam cầm, Bác Hồ vẫn ngắm trăng và làm thơ".
Tôi yêu cầu học sinh đưa yếu tố miêu tả và tự sự vào đoạn văn trên để cho đoạn văn hấp dẫn sinh động hơn. Học sinh trình bày trước lớp, tập thể lớp nhận xét, bổ sung, sửa chữa nếu có sai sót để thành đoạn văn hoàn chỉnh. Sau đó tôi đọc đoạn văn mẫu làm đáp án để cho học sinh tham khảo, đối chiếu với bài viết của mình, từ đó các em sẽ có kĩ năng nghị luận tốt hơn.
Ví dụ 2: Với câu chủ đề: "Chị Dậu có tinh thần phản kháng mãnh liệt.". Sau khi đọc đoạn trích "Tức nước vỡ bờ", em hãy viết một đoạn văn triển khai câu chủ đề trên. (Chú ý sử dụng các yếu tố tự sự, miêu tả để lập luận ).
Với bài tập này, tôi rèn cho các em kiên trì luyện tập, không nóng vội. Được luyện tập viết nhiều đoạn văn nghị luận, giúp các em sử dụng thành thạo kĩ năng xây dựng đoạn văn và luôn có ý thức xây dựng đoạn văn nghị luận kết hợp sử dụng yếu tố miêu tả tự sự biểu cảm trong bài văn nghị luận.
Trên đây là các kỹ năng tôi đã rèn luyện làm văn nghị luận cho học sinh THCS, đặc biệt là ở lớp 8 và lớp 9. Với chuyên đề này, đòi hỏi giáo viên nắm vững nội dung kiến thức và mục tiêu chương trình, đối tượng học sinh để chọn những bài tập luyện tập cụ thể phù hợp và từng bước hình thành, rèn luyện cho các em có được những kỹ năng làm văn nghị luận, phát huy khả năng tư duy, năng lực phát triển và tự thể hiện, luôn chủ động, tự tin tron

Tài liệu đính kèm:

  • docSang kien kinh nghiem Ngu Van2013.doc