Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp trò chơi học tập trong môn khoa học lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp trò chơi học tập trong môn khoa học lớp 5

 * Địa diểm và đối tượng HS tham gia chơi.

 Phần lớn các trò chơi được diễn ra trong lớp học. Tuy vậy, với mỗi trò chơi cũng cần có khoảng không gian chơi cho phù hợp

*VÍ DỤ:

 - Những trò chơi để hình thành kiến thức mới, thường tất cả các HS được tham gia chơi, do vậy các em có thể ngồi ngay trong bàn học theo từng đội chơi , như trò chơi: Ai nhanh, ai đúng? (Tiết 16-trang33 ). Hay trò chơi: Chiếc ghế nguy hiểm (Tiết 20-trang23 ), mặc dù đây là trò chơi để củng cố nội dung nhưng tất cả học sinh (HS) cần được tham gia, các em cần xếp thành hàng dọc để lần lượt đi qua chiếc ghế nguy hiểm. Bởi vậy, nếu trời không mưa, các em sẽ xếp hàng ngoài sân rồi lần lượt đi qua chiếc ghế vào lớp.

 

doc 23 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 7341Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp trò chơi học tập trong môn khoa học lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có rất nhiều tiết học cần sử dụng đến phương pháp Trò chơi học tập để phát hiện kiến thức mới hoặc để củng cố kiến thức đã học.
* Với các lý do trên, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu để nâng cao hiệu quả của phương pháp Trò chơi học tập trong môn khoa học lớp 5.
2. Mục đích nghiên cứu .
 -Tìm hiểu và tổng kết được những khó khăn, thuận lợi của học sinh (HS) và giáo viên (GV) khi tham gia và tổ chức Trò chơi học tập.
 -Tìm được một số biện pháp để giải quyết những khó khăn mà học sinh (HS) và giáo viên (GV) mắc phải khi tham gia Trò chơi học tập. Qua đó dần nâng cao hiệu quả của phương pháp Trò chơi học tập trong môn khoa học lớp 5 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học , giúp các em phát triển toàn diện ngay từ bậc học đầu tiên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
 * Để đạt được mục đích trên, người tôi cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
 - Nghiên cứu những vấn đề chung về môn khoa học lớp 5 .
 - Nghiên cứu 1 số biện pháp sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn khoa học.
 - Nghiên cứu đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi HS.
 - Tìm hiểu thực tế học sinh (HS) Trường Tiểu học Mỹ Phước A, Mỹ Tú, Sóc Trăng về sở thích tham gia trò chơi học tập, về sự tiếp nhận kiến thức khoa học Để phát hiện những khó khăn, vướng mắc, những tồn tại cần giải quyết.
4. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao hiệu quả dạy học phương pháp trò chơi trong môn Khoa học ở lớp 5A3 Trường tiểu học Phương Trung I
5. Phạm vi nghiên cứu.
 - Trong đề tài nảy tôi chỉ nghiên cứu ở tập thể học sinh (HS) lớp 5A3 Trường Tiểu học Phương Trung I mà tôi đang giảng dạy .
 - Nghiên cứu một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của phương pháp trò chơi trong môn khoa học cho học sinh (HS) lớp 5A3.
PHẦN II: NỘI DUNG.
 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến.
 Vui chơi là một hoạt động không thể thiếu được của con người ở mọi lứa tuổi, đặc biệt ở lứa tuổi tiểu học. Bởi lẽ, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi này. Bởi vậy Trò chơi học tập được đánh giá cao trong giảng dạy.
 * Trò chơi học tập là gì? Trò chơi không chỉ là một “công cụ” dạy học mà nó còn là con đường sáng tạo xuyên suốt quá trình học tập của HS. Phương pháp tổ chức trò chơi không chỉ là sự đánh giá trong quá trình dạy và học của thầy và trò mà nó còn tạo cho ta cảm giác thoải mái, tự tin, có sự sáng tạo, nhanh trí, có óc tư duy, tưởng tượng của học sinh (HS). Dạy kết hợp với tổ chức trò chơi chính là việc giáo viên (GV) hướng dẫn HS hoàn thành tốt phẩm chất của con người mới XHCN.
 * Tổ chức trò chơi là một hình thức tổ chức dạy học, chơi là một biện pháp học tập có hiệu quả của học sinh (HS) . Thông qua trò chơi, HS được tập luyện, làm việc cá nhân, làm việc theo đơn vị tập thể theo sự phân công với tinh thần hợp tác. Đó là những việc làm thuộc phương pháp học tập mới mà trường Tiểu học Phương Trung I được hình thành ở các lớp học, và đặc biệt là các em học sinh (HS )lớp 5A3.
2: Thực trạng vấn đề.
 Sau khi được phân công giảng dạy khối 5, môn Khoa- Sử- Địa, tôi đã tiến hành điều tra cụ thể về tình hình học sinh (HS), sự mong muốn và khả năng tham gia trò chơi học tập trong môn khoa học nói riêng và trong các môn học khác nói chung. Kết quả như sau:
 Đầu năm:
 - Tổng số HS : 30
 - Số học sinh (HS) muốn được tham gia, hiểu mục đích và thu được kết quả sau trò chơi học tập : 40%
 - Số học sinh (HS) muốn được tham gia, nhưng chỉ tham gia với mục đích vui chơi là chính mà chưa hiểu, chưa thu được kết quả sau trò chơi học tập : 30%
 - Số học sinh (HS) chưa muốn tham gia:30%
Sở dĩ các em chưa muốn tham gia hoặc tham gia mà chưa thu được kết quả là do một số nguyên nhân sau:
 1. Các em chưa hiểu mục tiêu của trò chơi : chơi để làm gì? chơi nhằm mục đích gì?
 2. Các em chưa hiểu rõ cách chơi, luật chơi, sự thi đua “thưởng-phạt”giữa các đội chơi.
 3. Trò chơi giáo viên (GV) đưa ra chưa thú vị, chưa đủ hấp dẫn để lôi cuốn học sinh (HS).
 4. Trò chơi quá khó, các các em không thể tham gia.
 5. Giáo viên (GV) không chủ động về thời gian, về các tình huống xảy ra dẫn đến tình trạng trò chơi bỏ dở hoặc kết thúc trò chơi mà không thu hoạch được gì.
 Để khắc phục những nguyên nhân trên tôi đã nghiên cứu dần để tìm hướng giải quyết như sau:
3 . Những giải pháp đề ra:
a/ Giáo viên cần lựa chọn nội dung bài dạy phù hợp với nội dung trò chơi.
 Không phải tiết khoa học nào cũng cần sử dụng đến phương pháp Trò chơi học tập. Nếu như vậy thì giáo viên đã quá lạm dụng phương pháp này. Vì thế , với mỗi tiết dạy, giáo viên cần xác định rõ mục tiêu của bài học, lựa chọn phương pháp dạy học cho phù hợp với nội dung từng phần, áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trong tiết dạy sao cho tiết học trở nên nhẹ nhàng, HS tiếp thu bài tích cực, chủ động hơn. Tuỳ từng bài mà giáo viên sử dụng phương pháp Trò chơi học tập cho thích hợp. Khi đã lựa chọn được phương pháp dạy học cho mỗi hoạt động, giáo viên cần xác định rõ mục tiêu để xây dựng hình thức tổ chức cho hoạt động đó.
b/ Giúp học sinh (HS) xác định rõ mục đích của trò chơi.
 Trước khi tổ chức cho HS tham gia chơi, giáo viên (GV) cần giúp học sinh (HS hiểu) :Qua trò chơi , các em sẽ tìm được những kiến thức gì, cũng cố hay khắc sâu , hệ thống được những kiến thức gì?
 Phần lớn Trò chơi học tập trong môn khoa học lớp 5 ở 2 dạng kiến thức: chơi để khám phá, hình thành kiến thức mới và chơi để củng cố , hệ thống hoá kiến thức đã học. Cụ thể như sau:
 + Trò chơi để hình thành kiến thức mới.
Tiết - trang
 Tên trò chơi
 Mục đích trò chơi
T1-trang4
Bé là con ai?
Học sinh (HS) nhận ra, mỗi trẻ em đều có những đặc điểm giống bố, mẹ mình.
T2,3-trang6
Ai nhanh, ai đúng?
Học sinh (HS) biết phân biệt đặc điểm về mặt sinh học và xã hội của nam và nữ.
T6-trang 14
Ai nhanh, ai đúng?
Học sinh (HS) hiểu 1 số đặc điểm chung của trẻ ở từng giai đoạn từ 3 đến 10 tuổi.
T11-trang 30
Ai nhanh, ai đúng?
Học sinh (HS) biết tác nhân gây bệnh, sự nguy hiểm của bệnh viêm não.
T16-trang 34
Ai nhanh, ai đúng?
Học sinh (HS) giải thích được HIV, AIDS là gì? các đường lây bệnh HIV,
T17-trang36
HIV lây hay không lây?
Học sinh (HS) biết các hành vi tiếp xúc thông thường không lây HIV.
T35-trang 72
Ai nhanh, ai đúng?
Học sinh (HS) biết đặc điểm của chất rắn - chất lỏng - chất khí.
T36-trang 74
Nhà khoa học trẻ
Học sinh (HS) biết các phương pháp tách các chất ra khỏi hỗn hợp.
T37-trang77
Đố bạn
Học sinh (HS) biết phương pháp sản xuất muối từ nước biển, sản xuất nước cất tiêm .
T38,39-trang78
Bức thư bí mật
 Học sinh (HS) biết vai trò của nhiệt trong biến đổi hoá học.
T55-trang 112
Ghép chữ
 Học sinh (HS) biết đặc điểm bên ngoài của động vật đẻ con, động vật đẻ trứng.
T57-trang 116
Bắt trước tiếng kêu
Học sinh (HS) biết thời gian, địa điểm sinh sản của ếch.
 + Trò chơi để củng cố hoá kiến thức
 Tiết- trang
Tên trò chơi
 Mục đích của trò chơi
T7-trang 16
Ai, đang ở giai đoạn nào?
Củng cố hiểu biết về lứa tuổi vị thành niên, tuổi trưởng thành, tuổi già.
T9,10-trang20
Chiếc ghế nguy hiểm
Thực hành để củng cố sự hiểu biết về tác hại của chất gây nghiện.
T11-trang24
Ai nhanh, ai đúng?
Củng cố về giá trị dinh dưỡng của thuốc và cách sử dụng thuốc an toàn.
T18-trang 38
ứng xử khôn khéo
Học sinh (HS) biết cách ứng xử khi bị xâm hại.
T20,21trang42
Ai nhanh, ai đúng?
Củng cố cách phòng tránh 1 số bệnh thường gặp đã học.
T34-trang 68
Ô chữ kì diệu
Củng cố kiến thức về chủ đề:Con người và sức khoẻ.
T49,50-trang100
Ai nhanh, ai đúng?
Củng cố về tính chất 1 số vật liệu và sự biến đổi hoá học.
T52-trang106
Ghép chữ
Củng cố về sự sinh sản ở thực vật có hoa.
T63-trang130
Ai nhanh, ai đúng?
Hệ thống 1 số nguồn tài nguyên và tác dụng của chúng.
T63-trang133
Ai nhanh,ai đúng?
Hệ thống kiến thức về môi trường.
T69-trang142
Chữ gì?
Củng cố kiến thức có liên quan đến sự ô nhiễm môi trường.
 -Cách nêu mục tiêu của trò chơi ,giáo viên (GV) cần đưa ra một cách khéo léo, hấp dẫn, có tính chất gợi mở để tạo sự tò mò khám phá cho học sinh (HS).
 - Sau khi các em đã hiểu được mục đích của trò chơi, thấy được sự hấp dẫn của trò chơi các em sẽ chủ động tham gia chơi mà không cần giáo viên (GV) ép buộc. Để có được điều đó, giáo viên (GV) cần xây dựng trò chơi học tập sao cho hợp lý ; hợp lý về thời gian; hợp lý về hình thức chơi ; về luật chơi ; về hình thức khen thưởng
c/ Cách xây dựng trò chơi học tập.
 GV có thể tổ chức 1 hoạt động học tập thành 1 trò chơi học tập khi đã có đủ các điều kiện sau:
 - Về đồ dùng, dụng cụ phục vụ cho trò chơi.
 - Về thời gian, thời điểm chơi, không gian chơi.
 - Có cách chơi, luật chơi rõ ràng.
 - Có cách tính điểm để phân định “thắng- thua”, khen thưởng
 Các yếu tố đó là sự chuẩn bị cụ thể chu đáo của giáo viên (GV), góp phần quyết định sự thành công hay không của trò chơi.
 * Sự chuẩn bị đồ dùng học tập cho HS tham gia trò chơi.
 Đối với mỗi tiết học nói chung hay với mỗi trò chơi học tập nói riêng, giáo viên (GV) cần xác định rõ: Để phục vụ cho trò chơi này cần đến những đồ dùng nào? dụng cụ nào? phương tiện nào?... từ đó, giáo viên (GV) dành thời gian để chuẩn bị ( hoặc giao cho học sinh (HS) chuẩn bị ) chu đáo.
*VÍ DỤ:
+ Thực hiện trò chơi tiếp sức “ HIV lây hay không?’’ (T17-trang36) cần chuẩn bị:
 - 2 bộ thẻ chữ ghi các hành vi có nguy cơ lây nhiễm hoặc không lây nhiễm như:
Khoác vai
Dùng chung dao cạo
Cùng chơi bi
 Cầm tay.
Uống chung ly nước
Đánh răng chung bàn chải
Nghịch bơm, kim tiêm đã dùng.
2 bảng từ có nội dung giống nhau:
Các hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV
Các hành vi không có nguy cơ lây nhiễm HIV
 Những tấm thẻ chữ, giáo viên (GV) không cần làm cầu kì, không có dấu hiệu phân biệt ở 2 hành vi khác nhau, nhưng chữ viết phải rõ ràng, phía sau thẻ có gắn nam châm để học sinh (HS) gắn thẻ lên bảng lớp một cách dễ dàng.
 + Chuẩn bị cho trò chơi “Ghép chữ” (T52-trang106 )
 Giáo viên (GV) cần vẽ:
 -2 tranh câm:
 Sơ đồ cơ quan sinh sản ở thực vật có hoa:
 -2 bộ thẻ chữ có ghi tên các bộ phận của cơ quan sinh sản ở thực vật có hoa:
 Hạt phấn
 Vòi nhụy
 Bao phấn
 Đầu nhụy
Ống phấn
 Bầu nhụy
 Noãn 
 Với tranh câm giáo viên (GV) cần vẽ đúng các bộ phận của cơ quan sinh sản ở thực vật có hoa. Các bộ phận phải rõ nét, phân biệt bằng màu sắc cụ thể, đảm bảo tính khoa học và thẩm mỹ cho bức tranh.
 Sự chuẩn bị chu đáo, hấp đẫn sẽ tạo niềm hứng khởi, thu hút HS tham gia. Sự rõ ràng, khoa học sẽ giúp các em dễ tìm hiểu, dễ nhận biết kiến thức, nhiệm vụ của bản thân trong quá trình tham gia chơi. Sự chuẩn bị cho một trò chơi không nhất thiết phải quá cầu kì, đôi khi còn dễ tìm, dễ kiếm .
 +Để chuẩn bị “ Chiếc ghế nguy hiểm” cho trò chơi T10-trang20 , giáo viên (GV) chỉ cần lấy luôn chiếc ghế của mình, phủ lên ghế một tấm vải tối màu để học sinh (HS) không phát hiện được bên trong ghế là cái gì? Sự chuẩn bị này tuy đơn giản nhưng vẫn tạo được sự tò mò, tâm trạng hồi hộp của học sinh (HS) khi đến gần chiếc ghế , chiếc ghế ấy sẽ thu hút học sinh (HS) tham gia vào trò chơi.
 Với sự chuẩn bị như vậy, giáo viên (GV) sẽ khuyến khích các em tham gia vào trò chơi. Ngoài việc chuẩn bị đồ dùng dạy học, giáo viên (GV) cần biết bố trí thời gian cho các hoạt động trong tiết học một cách hợp lý. Trò chơi học tập cũng là 1 hoạt động trong tiết học. Bởi vậy, giáo viên (GV) cần sắp xếp thời gian, thời điểm phù hợp cho mỗi trò chơi.
* Xác định thời gian, thời điểm diễn ra trò chơi.
 Để xác định thời gian, thời điểm diễn ra trò chơi, giáo viên (GV) cần đọc kĩ mục tiêu tiết dạy, mục tiêu của trò chơi để phân bố thời gian cho hợp lý.
 Ở những trò chơi hình thành kiến thức mới, hoạt động này được diễn ra đầu tiết học hoặc đầu một phần nội dung bài học. Những trò chơi để củng cố nội dung kiến thức đã học thường diễn ra cuối tiết học hoặc cuối 1 phần nội dung vừa học. Tuy nhiên, trò chơi diễn ra vào thời điểm nào, giáo viên (GV) cũng cần xác định thời gian cho hợp lý, không để ảnh hưởng đến thời gian của tiết học hoặc thời gian của tiết học khác.
* VÍ DỤ:
 -Trò chơi: “Ai nhanh, ai đúng?” (Tiết 14- trang 30 ),đây là hoạt động đầu tiên của tiết học, cũng là một hoạt động chính giúp học sinh (HS) hiểu được :
 + Tác nhân gây bệnh viêm não.
 + Tác hại của bệnh viên não.
 + Lứa tuổi hay mắc bệnh viêm não.
 + Đường lây truyền bệnh viêm não.
 Bởi vậy, giáo viên (GV) cần dành từ 4-5 phút để HS có đủ thời gian để đọc các thông tin trong sách giáo khoa (SGK)- thảo luận rồi lựa chọn đáp án đúng. Đáp án đúng chính là những kiến thức mới mà các em đã tự tìm hiểu, khám phá cho bản thân.
 -Trò chơi: Ghép chữ (Tiết 52-trang 106 ), đây là trò chơi có mục đích để củng cố kiến thức vừa học ở hoạt động trên, vì vậy giáo viên (GV) không cần quá nhiều thời gian cho trò chơi, sẽ gây ảnh hưởng đến các hoạt động khác, chỉ cần từ 5-7 phút, đủ để học sinh (HS) đọc nhanh nội dung ghi trên các tấm bìa rồi gắn vào : Sơ đồ nhị và nhuỵ của hoa.
 Việc chuẩn bị chu đáo sẽ giúp cho giáo viên (GV) tự tin, chủ động trong tiết dạy. Bởi vậy ngoài việc chuẩn bị về đồ dùng dụng cụ, xác định thời gian, thời điểm cho hợp lý giáo viên (GV) cần xác định địa đểm, số lượng học sinh (HS) tham gia chơi cho mỗi trò chơi để phù hợp cả về không gian, thời gian, phù hợp với cả 3 đối tượng học sinh (HS).
 * Địa diểm và đối tượng HS tham gia chơi.
 Phần lớn các trò chơi được diễn ra trong lớp học. Tuy vậy, với mỗi trò chơi cũng cần có khoảng không gian chơi cho phù hợp
*VÍ DỤ:
 - Những trò chơi để hình thành kiến thức mới, thường tất cả các HS được tham gia chơi, do vậy các em có thể ngồi ngay trong bàn học theo từng đội chơi , như trò chơi: Ai nhanh, ai đúng? (Tiết 16-trang33 ). Hay trò chơi: Chiếc ghế nguy hiểm (Tiết 20-trang23 ), mặc dù đây là trò chơi để củng cố nội dung nhưng tất cả học sinh (HS) cần được tham gia, các em cần xếp thành hàng dọc để lần lượt đi qua chiếc ghế nguy hiểm. Bởi vậy, nếu trời không mưa, các em sẽ xếp hàng ngoài sân rồi lần lượt đi qua chiếc ghế vào lớp.
 Nếu trời mưa, giáo viên (GV) cần sắp xếp bàn ghế gọn gàng để học sinh (HS) xếp hàng trong lớp.
 Những chuẩn bị này, dù là rất nhỏ nhưng giáo viên (GV) cũng cần để ý tới để chủ động trong mọi tình huống.
 Khi sự chuẩn bị đã chu đáo, giáo viên (GV) sẽ tổ chức trò chơi học tập cho các em tham gia sao cho học sinh (HS) hào hứng làm việc và thu được kết quả tốt, đó là điều hết sức quan trọng.
d/ Tiến hành tổ chức Trò chơi học tập.
 Với mỗi trò chơi giáo viên (GV) cần tiến hành qua 3 bước sau:
 Bước1: giáo viên (GV) nêu mục đích và hướng dẫn cách chơi, luật chơi.
 -Tên trò chơi hấp dẫn, dễ hiểu sẽ lôi cuốn các em tham gia chơi.
 *VÍ DỤ:
 Trò chơi:Ai nhanh, ai đúng? ( Tiết 14-trang30 ) :
 Bước 1: GV giới thiệu :
 - Viêm não là một loại bệnh hết sức nguy hiểm. Nguyên nhân gây bệnh là gì? lứa tuổi nào hay mắc bệnh? Bệnh nguy hiểm như thế nào? Các em sẽ khám phá qua trò chơi: “Ai nhanh, ai đúng?”.
 - Mỗi tổ thành một đội chơi, các em sẽ cử đội trưởng cho đội mình.
 - Các em sẽ đọc thông tin trong SGK trang 20, bàn bạc trong đội để chọn câu trả lời tương ứng với từng câu hỏi. Sau khi cả đội thống nhất, đội trưởng sẽ ghi đáp án theo thứ tự câu hỏi vào bảng phụ .
 - Sau 7 phút đội nào có đáp án gắn lên bảng lớp nhanh nhất và đúng nhất là thắng cuộc, đội thắng cuộc sẽ được nhận một phần thưởng xứng đáng.
Bước 2: Học sinh (HS) hoạt động theo các yêu cầu trên.
Giáo viên (GV) quan sát, nhắc nhở học sinh (HS) (nếu học sinh (HS) còn lúng túng ).
Bước 3: Nhận xét, đánh giá.
 - Đội trưởng báo cáo kết quả. Mỗi đội có thể trả lời thêm 1 số câu hỏi mà trọng tài đưa ra:
+ Vì sao từ 3-5 tuổi hay mắc bệnh viêm não?
+Bệnh viêm não nguy hiểm như thế nào?...
 - Trọng tài phân định “thắng – thua”, thưởng cho đội thắng một tràng pháo tay.
 - Em rút ra được kiến thức gì qua trò chơi này?
Với cách tiến hành như trên, các em sẽ chủ động tìm tòi và phát hiện kiến thức mới cho bài học, hình thành kiến thức cho bản thân..
 Tiết 52- trang 106:
 Bước 1: Giáo viên (GV) giới thiệu:
 - Để thể hiện lại quá trình thụ phấn, thụ tinh ở thực vật có hoa, thầy sẽ tổ chức cho các em chơi trò: “Ghép chữ vào hình”.
 - Có 2 đội chơi, mỗi đội 7 em, các em sẽ chọn tấm thẻ có ghi chú thích( hạt phấn; ống phấn ; bao phấn ; bầu nhuỵ ; đầu nhuỵ ; noãn ; vòi nhuỵ ) để gắn vào sơ đồ câm: “Cơ quan sinh sản ở thực vật có hoa” . Mỗi em chỉ được gắn một lần, bạn sau có thể sửa lại cho bạn trước trong đội của mình, hết lượt mình, sẽ xuống đứng vào cuối hàng của đội. Đội nào nhanh và đúng hơn là đội thắng cuộc, thời gian tối đa là 3 phút.
 - Giáo viên (GV) cử HS tham gia chơi,(có đủ cả 3 đối tượng ).
 Bước2: Học sinh (HS) chơi như đã hướng dẫn.
 Bước 3: Nhận xét, đánh giá.
 - Đội trưởng báo cáo kết quả của đội.( chỉ vào từng bộ phận và nêu tên của bộ phận đó).
 - Trọng tài nhận xét, phân định “ thắng-thua”, tuyên dương đội thắng cuộc.
 - Em học được gì qua trò chơi?
 Học sinh (HS) có thể học tập được về: nội dung, kiến thức của bài học ; về sự cẩn thận khi làm việc ; về sự nhanh nhẹn, khéo léo khi hoạt động
 Với sự chuẩn bị chu đáo, từ khâu soạn bài, chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ đến khâu tổ chức cho học sinh (HS) tham gia trò chơi và bước thu hoạch ở phần đánh giá, nhận xét rồi đi đến nội dung bài học cần rút ra, tôi thấy kết quả việc dạy và học ở lớp tôi đã có sự thay đổi.
PHẦN III: KẾT LUẬN
 1. Kết quả đạt được.
 * Trong thời gia qua, tôi đã cố gắng tìm các biện pháp để khắc phục những khó khăn mà học sinh (HS) và giáo viên (GV) còn mắc phải trong khi sử dụng phương pháp Trò chơi trong môn khoa học lớp 5A3. Áp dụng những biện pháp mới đó vào việc giảng dạy cho HS lớp 5A3 trường tiểu học Phương Trung 1, tôi thấy các em đã có nhiều tiến bộ trong khi tham gia Trò chơi học tập ở môn khoa học. Cụ thể là:
 - Số học sinh (HS) muốn được tham gia chơi và chơi có hiệu quả giáo dục: 75% ( tăng 35% so với đầu năm học ).
 - Số học sinh (HS) muốn được tham gia chơi, nhưng kết quả chưa cao : 15% (giảm15% so với đầu năm ).
 - Số học sinh (HS) còn nhút nhát trong khi chơi dẫn đến việc tiếp nhận kiến thức khoa học còn hạn chế : 10% ( giảm 20% so với đầu năm) .
 * Về phía bản thân tôi, tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn, không còn mệt mỏi khi truyền thụ kiến thức tới học sinh (HS) vì các em tiếp nhận kiến thức một cách chủ động, tích cực thông qua trò chơi. Kỹ năng vận dụng trò chơi của tôi kinh hoạt hơn, thành thạo hơn. Tôi có nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn và tổ chức trò chơi hơn , đảm bảo kiến thức và kỹ năng bài học cho học sinh (HS).
 Tôi thấy rất vui, khi học sinh (HS) của mình có tiến bộ, không những về kiến thức mà các em còn trở nên vui vẻ, nhanh nhẹn, cởi mở, khéo léotrong hoạt động và trong giao tiếp, đáp ứng đúng mục tiêu: Giáo dục toàn diện cho học sinh (HS) ngay từ bậc học đầu tiên mà Bộ GD-ĐT đã đề ra.
 2/ Bài học kinh nghiệm:
 Qua việc nghiên cứu một số biện pháp nâng cao hiệu quả của Phương pháp trò chơi trong môn khoa học lớp 5A3 Trường Tiểu học Mỹ Phước A, tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
 1. Giáo viên (GV) và học sinh (HS) cần xác định rõ mục đích của mỗi trò chơi trong mỗi tiết học, từ đó có hướng đi đúng đắn cho việc làm tiếp theo của mình.
 2. Giáo viên (GV) cần có sự chuẩn bị chu đáo về đồ dùng học tập để phục vụ trò chơi, đồ dùng cần đảm bảo tính khoa học, thẩm mĩ, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em; giáo viên (GV) cần có sự chuẩn bị về không gian, thời gian, thời điểm diễn ra trò chơi, giáo viên (GV) cần chuẩn bị về hình thức tổ chức, có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho việc huấn luyện. Giáo viên (GV) cần xác định về số lượng học sinh (HS) tham gia sao cho đủ cả các đối tượng đều được hoạt động.
 3. Tổ chức trò chơi theo 3 bước:
 a. Bước 1- Giáo viên (GV) hướng dẫn.
 - Giáo viên (GV) nêu tên và mục đích trò chơi.
 - Giáo viên (GV) hướng dẫn cách chơi, luật chơi, thời gian chơi, hình thức khen thưởng
 - Cử số lượng thành viên trong mỗi đội chơi ( đủ 3 đối tượng ).
 - Cử đội trưởng, trọng tài.
 b. Bước2 - Học sinh (HS) tham gia trò chơi.( Học sinh (HS) có thể chơi thử nếu giáo viên (GV) thấy cần thiết).
 HS cần nỗ lực, tự giác thực hiện đúng cách chơi, luật chơi mà giáo viên (GV) đã nêu ra.
 c. Bước 3 – Nhận xét, đánh giá.
 -Các đội chơi tổng kết, báo cáo.
 - Trọng tài nhận xét, phân định “t

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien.doc