SKKN Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt Lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN

SKKN Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt Lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN

3.3. Mô tả cách trình bày một bài học, một hoạt động cụ thể ở các bài A, B, C:

- Mỗi hoạt động học tập là một đơn vị bài học Tiếng Việt.

- Mỗi cụm bài học dùng trong 1 tuần gồm 3 bài với 3 hoạt động học tập (Ví dụ: bài 1A, 1B, 1C)

- Mỗi hoạt động học tập gồm 2 phần:

+ Phần Mục tiêu: nêu yêu cầu về kiến thức, kĩ năng học sinh cần đạt sau khi học bài.

+ Phần Hoạt động bao gồm 3 loại hoạt động:

* Hoạt động cơ bản với các chức năng:

- Khơi dậy hứng thú, đam mê của học sinh với bài mới.

- Giúp học sinh tái hiện những kiến thức và kĩ năng học sinh đã có.

- Giúp học sinh kết nối những kiến thức, kĩ năng đã có với kiến thức, kĩ năng mới.

- Giúp học sinh thu nhận kiến thức, kĩ năng mới qua các hoạt động cụ thể như: quan sát, thảo luận, phân tích.

- Giúp học sinh củng cố kiến thức, kĩ năng mới một cách thú vị qua các trò chơi, qua đọc sáng tạo, qua chia sẻ kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân.

* Hoạt động thực hành với chức năng: củng cố kiến thức, kĩ năng mới bằng cách quan sát để nhận diện kiến thức, kĩ năng mới trong bối cảnh khác.

* Hoạt động ứng dụng với chức năng: hướng dẫn học sinh áp dụng những kiến thức, kĩ năng mới vào cuộc sống thực của các em tại gia đình, cộng đồng.

3.4. Tìm hiểu các hình thức dạy học theo mô hình VNEN:

Trong dạy học Tiếng Việt người giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt và lựa chọn các phương pháp vào từng hoạt động của các dạng bài học, để hướng dẫn học sinh tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành hình thành và rèn luyện kĩ năng Tiếng Việt, hướng dẫn học sinh giảng giải kết hợp việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, hay trò chơi Tiếng Việt, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới trong dạy học Tiếng Việt 5.

 Tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, tạo hứng thú học tập cho học sinh là mấu chốt của vấn đề đổi mới.Vì vậy khi giảng dạy giáo viên cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học thông qua các hoạt động nhóm, hoạt động cá nhân, hoạt động cặp đôi, hoạt động cả lớp sao cho nhịp nhàng, hợp lí nhằm tạo cho tiết dạy hiệu quả, học sinh có hứng thú học tập. Đồng thời giáo viên cần phải đảm bảo đủ quy trình 5 các bước lên lớp của mình, đó là:

- Bước 1: Tạo hứng thú cho học sinh.

- Bước 2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm.

- Bước 3. Phân tích khám phá rút ra kiến thức mới.

- Bước 4. Thực hành.

- Bước 5. Ứng dụng.

 

doc 19 trang Người đăng thuquynh91 Lượt xem 2508Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt Lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 các em thường thiếu tính kiên trì, mau chán, ham chơi. Do đặc điểm về tâm lí, bản chất việc học của học sinh tiểu học “học mà chơi, chơi mà học” là đặc trưng cơ bản cho mọi hoạt động học tập, lao động, vui chơi giải trí và cũng là yêu cầu quan trọng khi mà chúng ta đang hướng vai trò trung tâm của học tập, tự rèn luyện cũng chính là các em.
1.2. Sự cần thiết của việc tổ chức trò chơi học tập cho học sinh lớp 5:
Hứng thú là một thuộc tính tâm lí - nhân cách quan trọng của con người. Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M. Gorki từng nói “Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc”. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo. Trong khi đó, việc khảo sát thực tế dạy học ở tiểu học đã cho thấy nhiều học sinh tiểu học không có hứng thú trong học tập. Điều này vừa được xem như là một biểu hiện vừa được xem như là một nguyên nhân rất quan trọng của việc suy giảm chất lượng dạy học ở tiểu học.
Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trò chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, kích thích sự phát triển trí tuệ của các em. Trò chơi học tập nhất thiết phải là một bộ phận của nội dung bài học, phải là một phần cấu tạo nên bài học. Trong trò chơi, khi mọi thứ đều thật, chẳng hạn trong môn Tiếng Việt, từ vẫn là từ, câu vẫn là câu, trò vẫn là trò, thầy vẫn là thầy... trò chơi sẽ bớt phần thú vị. Trò chơi cuốn hút trẻ em hơn nếu có được sự giả định từ tên gọi, từ người tham gia, từ tình huống đến kết quả chơi. Ví dụ nhóm trò chơi Trong vườn cổ tích đã khai thác tính giả định của trò chơi từ nguồn văn bản truyện cổ. Khi đó, trò chơi vừa minh hoạ sinh động kiến thức, kĩ năng tiếng Việt, vừa tạo ra được một không khí cổ tích huyền diệu, gợi lại nội dung các văn bản truyện cổ mà học sinh đã học ở phân môn Tập đọc hay Kể chuyện. Ví dụ, từ truyện Tấm Cám, xây dựng trò chơi “Chim sẻ giúp cô Tấm” dành cho các bài tập nhận diện, phân loại... Từ truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh, có thể xây dựng trò chơi “Dâng núi chống lụt” cho những bài tập chính tả, làm giàu vốn từ...
2. Thực trạng:
2.1. Thuận lợi:
* Về phía giáo viên:
- Được sự quan tâm, động viên to lớn của Ban giám hiệu nhà trường trong công tác giảng dạy.
- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo sâu sắc qua các buổi thăm lớp dự giờ, xây dựng các bước dạy cũng như bài dạy, môn học, cách tổ chức lớp học theo đúng với mô hình học tập VNEN.
- Bản thân cũng đã có kinh nghiệm giảng dạy nhất định, góp phần làm nâng cao chất lượng học tập của lớp qua các năm học.
- Hầu hết các giáo viên nhiệt tình công tác, chịu khó học hỏi việc đổi mới phương pháp dạy học, thương yêu học sinh.
- Đa số phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập của con em mình. Bên cạnh đó, còn được sự quan tâm chung của các lực lượng trong và ngoài nhà trường.
- Điều kiện Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 luôn là một trường học có đa số học sinh chăm chỉ và vượt khó trong học tập, nhà trường đặc biệt quan tâm đến chất lượng học tập của học sinh.
- Với mô hình này, giáo viên dễ dàng hơn khi tổ chức dạy học trên lớp, khắc phục được tình trạng truyền thụ kiến thức. Dựa vào thời lượng, có thể soạn bài bổ sung hoặc điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp đối tượng học sinh, đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương.
* Về phía học sinh:
- Học sinh có cơ hội chia sẻ những trải nghiệm, được thực hành và vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống hàng ngày.
- Học sinh chủ yếu làm việc theo nhóm nhỏ, được tranh luận và đánh giá lẫn nhau.
2.2. Khó khăn:
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên chưa linh hoạt và làm chủ thời gian trong việc hỗ trợ từng cá nhân, từng nhóm để em nào cũng cảm thấy mình được thầy cô quan tâm.
- Giáo viên chưa điều hành hợp lí hoạt động giữa các cá nhân, các nhóm học sinh, chưa tạo được nhiều hứng thú học tập cho học sinh. Chính vì vậy mà nhịp độ học tập có độ chênh lệch nhau.
* Đối với học sinh:
 - Học sinh còn quen phong cách chờ đợi giáo viên hướng dẫn từng thao tác, từng nhiệm vụ học tập, rất khó quen với tài liệu tự học.
- Một số em chưa đủ mạnh dạn để hỏi thầy cô những nội dung, yêu cầu chưa hiểu trong tài liệu, các em sẽ không làm việc dẫn đến hiệu quả thảo luận trong các nhóm chưa cao.
- Một số học sinh (nhóm trưởng) không đủ mạnh dạn để đặt các câu hỏi gợi mở cho các bạn trong nhóm, chưa đủ tự tin để bảo nhau điều hành hoạt động nhóm.
* Đối với phụ huynh học sinh:
- Một số phụ huynh học sinh chưa thực sự vào cuộc và chưa có nhiều hiểu biết về mô hình trường học mới VNEN. Chính vì vậy khi học sinh chia sẻ các bài tập ứng dụng với người thân thì kết quả chưa cao, còn mang tính đại khái.
- Một số phụ huynh học sinh có hoàn cảnh khó khăn, có kiến thức, trình độ còn thấp nên gặp khó khăn trong việc giúp đỡ con em mình trong học tập.
2.3. Các nguyên nhân, yếu tố tác động:
Trong quá trình giảng dạy và dự giờ các đồng nghiệp trong trường. Tôi nhận thấy rằng giáo viên chưa thường xuyên tổ chức các trò chơi Tiếng Việt cho học sinh trong giờ dạy do một số nguyên nhân sau đây:
- Giáo viên ngại vận dụng và tổ chức trò chơi vì thời gian của mỗi tiết học là có hạn, cơ sở vật chất không đáp ứng tốt cho việc tổ chức trò chơi.
- Để chuẩn bị cho một trò chơi trong tiết học người giáo viên phải chuẩn bị rất nhiều (đồ dùng học tập, các thiết bị dạy học, hình thức tổ chức, cách tổ chức). Vì vậy mỗi giáo viên khi tiến hành dạy học đều ngại vận dụng hơn.
- Khi tổ chức trò chơi giáo viên chưa hiểu hết mục đích của trò chơi ấy mang lại ý nghĩa gì? Vận dụng kiến thức gì cho môn học. Khi tổ chức các trò chơi thì giáo viên giao việc cho học sinh chưa rõ ràng, cụ thể, thời gian quy định cho mỗi hoạt động chơi chưa rõ ràng.
- Học sinh chưa nắm được cách chơi, luật chơi, học sinh chưa mạnh dạn, tự tin để tham gia trò chơi.
 Chính vì những nguyên nhân đó bản thân tôi cần nhận thấy phải có những phương pháp dạy học phù hợp hơn trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt 5 theo mô hình trường học mới VNEN.
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: 
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Lấy học sinh làm trung tâm, học sinh được học theo khả năng của riêng mình tự quản, hợp tác và tự giác cao trong học tập. Nội dung học gắn bó chặt chẽ với đời sống hằng ngày của học sinh. Từ đó góp phần hình thành nhân cách, giá trị dân chủ, ý thức tập thể theo xu hướng thời đại cho học sinh.
 Học sinh phải tham gia các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng thú, tự tin và tự nhiên. Tạo cho học sinh tính tự giác, tích cực trong học tập. Nhóm trưởng đóng vai trò chính trong tiết học hướng dẫn, điều hành tiết học hướng dẫn nhẹ nhàng dưới sự trợ giúp đúng mức, đúng lúc của giáo viên, tài liệu hướng dẫn học, đồ dùng dạy học Tiếng Việt, để từng học sinh (từng nhóm học sinh) tự phát hiện, phân tích và tự giải quyết vấn đề của bài học, tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức và có thể vận dụng được kiến thức đó vào luyện tập thực hành, giúp cho việc phát triển năng lực cá nhân học sinh.
Giáo viên cần linh hoạt về nhịp độ học tập tùy theo đối tượng học sinh. 
Phụ huynh và cộng đồng phối hợp chặt chẽ với giáo viên giúp đỡ học sinh một cách thiết thực trong các hoạt động giáo dục; tham gia giám sát việc học tập của con em mình. 
 Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng trường học kiểu mới VNEN. Thay thế các phương pháp dạy học đơn điệu ít tác dụng bằng các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Giúp học sinh hứng thú trong học tập, hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức.
Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các qui tắc gắn với kiến thức kĩ năng có được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học, giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi. Thông qua trò chơi, học sinh được vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học vào các tình huống trò chơi và do đó học sinh được luyện tập thực hành củng cố, mở rộng kiến thức, kĩ năng đã học.
Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, tạo ra bầu không khí dễ chịu thoải mái trong giờ học,giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực. Giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi.
Trò chơi học tập rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ. Nhờ sử dụng trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn.
Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục. Như Bác Hồ đã nói: “Trong lúc học cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần cho chúng học”.
3.2. Tìm hiểu nội dung chương trình, tài liệu học tập 3 trong 1 ở các bài A, B, C môn Tiếng Việt lớp 5:
Chương trình học Tiếng Việt 5 được thực hiện trong 35 tuần học, ứng với 35 bài học. Các bài dạy trong tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 5 được gộp lại theo mạch nội dung kiến thức, mỗi bài (được đánh dấu theo thứ tự từ 1 đến 35) được thực hiện trong 1 tuần học 8 tiết. Mỗi bài lại được chia ra thành các bài nhỏ hơn (được ghi A,B,C) gọi là một hướng dẫn học. Một hướng dẫn học được thực hiện từ 2 đến 3 tiết, chúng được phân chia như sau:
* Bài A (Thời lượng 3 tiết):
- Đọc và hiểu một văn bản.
- Nghe –viết, nhớ - viết đoạn văn / thơ.
- Tìm hiểu kiến thức tiếng Việt, luyện tập về tiếng, từ, câu.
* Bài B (Thời lượng 3 tiết):
- Đọc và hiểu một văn bản.
- Kể chuyện theo từng đoạn hoặc toàn bộ câu chuyện.
- Tìm hiểu lí thuyết viết đoạn, bài văn, luyện viết đoạn/ bài.
* Bài C (Thời lượng 2 tiết):
- Tìm hiểu kiến thức tiếng Việt.
- Viết đoạn, bài văn.
* Bài ôn tập A, B, C: 
 Nội dung ôn tập: tập đọc, chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn. Bài C còn có mẫu đề bài kiểm tra đánh giá.
3.3. Mô tả cách trình bày một bài học, một hoạt động cụ thể ở các bài A, B, C:
- Mỗi hoạt động học tập là một đơn vị bài học Tiếng Việt.
- Mỗi cụm bài học dùng trong 1 tuần gồm 3 bài với 3 hoạt động học tập (Ví dụ: bài 1A, 1B, 1C) 
- Mỗi hoạt động học tập gồm 2 phần:
+ Phần Mục tiêu: nêu yêu cầu về kiến thức, kĩ năng học sinh cần đạt sau khi học bài.
+ Phần Hoạt động bao gồm 3 loại hoạt động:
* Hoạt động cơ bản với các chức năng: 
- Khơi dậy hứng thú, đam mê của học sinh với bài mới.
- Giúp học sinh tái hiện những kiến thức và kĩ năng học sinh đã có.
- Giúp học sinh kết nối những kiến thức, kĩ năng đã có với kiến thức, kĩ năng mới. 
- Giúp học sinh thu nhận kiến thức, kĩ năng mới qua các hoạt động cụ thể như: quan sát, thảo luận, phân tích.
- Giúp học sinh củng cố kiến thức, kĩ năng mới một cách thú vị qua các trò chơi, qua đọc sáng tạo, qua chia sẻ kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân.
* Hoạt động thực hành với chức năng: củng cố kiến thức, kĩ năng mới bằng cách quan sát để nhận diện kiến thức, kĩ năng mới trong bối cảnh khác.
* Hoạt động ứng dụng với chức năng: hướng dẫn học sinh áp dụng những kiến thức, kĩ năng mới vào cuộc sống thực của các em tại gia đình, cộng đồng. 
3.4. Tìm hiểu các hình thức dạy học theo mô hình VNEN:
Trong dạy học Tiếng Việt người giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt và lựa chọn các phương pháp vào từng hoạt động của các dạng bài học, để hướng dẫn học sinh tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành hình thành và rèn luyện kĩ năng Tiếng Việt, hướng dẫn học sinh giảng giải kết hợp việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, hay trò chơi Tiếng Việt, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới trong dạy học Tiếng Việt 5. 
 Tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, tạo hứng thú học tập cho học sinh là mấu chốt của vấn đề đổi mới.Vì vậy khi giảng dạy giáo viên cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học thông qua các hoạt động nhóm, hoạt động cá nhân, hoạt động cặp đôi, hoạt động cả lớp sao cho nhịp nhàng, hợp lí nhằm tạo cho tiết dạy hiệu quả, học sinh có hứng thú học tập. Đồng thời giáo viên cần phải đảm bảo đủ quy trình 5 các bước lên lớp của mình, đó là:
- Bước 1: Tạo hứng thú cho học sinh.
- Bước 2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm.
- Bước 3. Phân tích khám phá rút ra kiến thức mới.
- Bước 4. Thực hành.
- Bước 5. Ứng dụng.
3.5. Một số nguyên tắc thiết kế trò chơi học tập:
 Tổ chức trò chơi học tập mỗi chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp, song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy luyện từ và câu có hiệu quả cao thì đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau:
- Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục.
- Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học.
- Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lí của học sinh lớp, phù hợp với khả năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.
- Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú.
- Trò chơi phải chuẩn bị chu đáo.
- Trò chơi phải gây hứng thú với học sinh.
3.6. Cấu trúc của trò chơi học tập:
- Tên trò chơi. 
- Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kĩ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ qui định hành động chơi được thiết kế trong trò chơi.
- Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong trò chơi học tập.
- Nêu lên luật chơi: Chỉ rõ qui tắc của hành động chơi qui định đối với người chơi, qui định thắng thua của trò chơi, thời gian chơi.
- Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia chơi.
3.7. Cách tổ chức chơi:
- Thời gian tiến hành thường từ 5-7 phút (tiến hành ngay đầu tiết học hoặc có thể lồng ghép trong mỗi bài tập, cuối bài học) nhằm thu hút sự chú ý và củng cố kiến thức một cách vững chắc hơn qua mỗi loại bài tập tương ứng với mỗi loại kiến thức.
- Đầu tiên là giới thiệu trò chơi : 
+ Nêu tên trò chơi.
+ Hướng dẫn trò chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ qui định chơi.
- Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi.
- Chơi thật.
- Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.
- Thưởng – “phạt”: phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh. Không nên dùng từ “phạt” đối với những học sinh, đội chơi thua mà có thể yêu cầu những học sinh, đội chơi thua trong trò chơi thực hiện những hành động theo yêu cầu đã đặt ra trước đó bằng những hình thức đơn giản, vui như hát một bài, nhảy cò cò
3.8. Một số trò chơi được áp dụng trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt:
3.8.1. Trò chơi: Thi xếp nhanh các từ vào nhóm thích hợp
* Mục đích:
- Nhận biết nhanh các từ thuộc vốn từ theo chủ điểm đang học và chia thành các nhóm từ khác nhau.
- Luyện trí thông minh nhanh tay, nhanh mắt.
* Chuẩn bị:
- 2 tờ giấy khổ to kẻ sẵn khung chia các nhóm từ.
- 2 bộ thẻ từ.	 
* Cách tổ chức:
Ví dụ : Bài 3A: Tấm lòng người dân
B. Hoạt động thực hành
Nhiệm vụ 1: Thi xếp nhanh các từ vào nhóm thích hợp. 
- Số đội chơi: 2 đội, mỗi đội gồm 5 em tham gia (học sinh cả lớp cổ vũ và làm trọng tài).
- Thời gian chơi từ 3-5 phút.
- Cách chơi:
+ Mỗi đội chơi có một tờ giấy khổ to kẻ sẵn khung chia các nhóm từ: công nhân, nông dân, quân nhân, trí thức, doanh nhân, học sinh và được đính sẵn trên bảng lớp.
+ Mỗi đội chơi nhận một bộ thẻ từ ghi sẵn các từ: giáo viên, đại úy, trung sĩ, thợ điện, thợ cơ khí, thợ cấy, thợ cày, học sinh tiểu học, học sinh trung học, kĩ sư, bác sĩ, tiểu thương, chủ tiệm.
+ Giáo viên yêu cầu hai đội đứng xếp thành hai hàng dọc, khi giáo viên phát tín hiệu bắt đầu trò chơi, từng thành viên mỗi đội lần lượt lấy một thẻ từ của đội được đính sẵn trên bảng lớp và xếp vào nhóm từ thích hợp. Trong thời gian cho phép, đội nào xác định và xếp được đúng nhiều từ nhất trong thời gian nhanh nhất thì thắng cuộc.
3.8.2. Trò chơi: Hái hoa 
* Mục đích:
- Giúp học sinh ôn lại các bài tập đọc và học thuộc lòng đã học trong chương trình.
- Trả lời được các câu hỏi có liên quan đến bài đọc.
* Chuẩn bị:
- Chuẩn bị các bông hoa giấy để làm phiếu. Trên mỗi bông hoa ghi tên 1 bài hoặc 1 đoạn của bài tập đọc đã học trong chương trình.
*Cách tổ chức:
- Số lượng học sinh: từng cá nhân tham gia chơi (khoảng từ 10- 12 em chơi).
- Thời gian chơi : 20- 25 phút.
- Cách chơi: 
+ Giáo viên treo phiếu hoa lên cây để hái.
+ Từng em lên bốc hoa nhận yêu cầu của mình, thực hiện các yêu cầu ghi trên bông hoa.
+ Học sinh khác nghe và nhận xét về giọng đọc của bạn và câu trả lời của bạn 
+ Giáo viên nhận xét đánh giá.
+ Bình chọn bạn đọc hay và trả lời đúng
+ Tuyên dương trước lớp.
Với trò chơi này tôi tổ chức trong các bài ôn tập: Bài 10A, bài 10B, bài 18A, bài 18B, bài 28A, bài 28B.
3.8.3. Trò chơi: Ai tài lắp ghép ?
* Mục đích:
- Tìm vế câu thích hợp ghép lại tạo thành câu ghép có cặp quan hệ từ “Nếu  thì ” qua đó củng cố kiến thức về câu ghép, rèn kĩ năng đặt câu ghép.
- Luyện trí thông minh, nhanh trí.
* Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị một só câu ghép hoàn chỉnh.
*Cách tổ chức:
Ví dụ: Bài 20C: Hoạt động tập thể
B. Hoạt động thực hành
Nhiệm vụ 1. Trò chơi: Ai tài lắp ghép ?
- Số đội chơi: chia lớp thành 2 đội A và B, mỗi đội tương ứng với số học sinh nửa lớp. Nếu lớp có số học sinh lẻ thì dư 1 học sinh, em đó sẽ cổ vũ và làm trọng tài.
- Thời gian chơi từ 3-5 phút.
- Cách chơi: Hai đội chơi, một bạn ở đội A nói một vế có từ “nếu”, ví dụ: “Nếu tôi là bác sĩ”, một bạn ở đội B phải nói vế câu tiếp theo có từ “thì”, ví dụ: “thì tôi sẽ chữa bệnh cho trẻ em nghèo không lấy tiền”. Sau đó đổi lượt, một bạn ở đội B nói một vế có từ “nếu”, một bạn ở đội A phải nói vế câu tiếp theo có từ “thì”. Nhóm nào có người không nói được sẽ thua cuộc.
Với trò chơi này tôi còn có thể vận dụng để tạo hứng thú vào bài khi dạy bài 21C: Luyện viết văn tả người (tiết 2), bài 22A: Giữ biển trời Tổ quốc (tiết 2), bài 22C: Cùng đặt câu ghép (tiết 1).
Ngoài trò chơi trên để học sinh củng cố thêm kiến thức, kĩ năng đặt câu ghép tôi còn tổ chức thêm các trò chơi “Ghép vế câu” sử dụng trong bài 21C: Luyện viết văn tả người, nhiệm vụ 1 của hoạt động cơ bản; trò chơi “Thi đặt câu ghép” trong bài 22C: Cùng đặt câu ghép, nhiệm vụ 1 của hoạt động thực hành.
3.8.4. Trò chơi: Giải ô chữ
 * Mục đích:
- Luyện óc quan sát, nhận xét nhanh nhạy.
- Luyện kĩ năng nhận biết và đoán từ thông qua nội dung câu hỏi gợi mở bằng các ô chữ cụ thể.
 * Chuẩn bị:
- Giáo viên chuẩn bị kẻ sẵn ô chữ với các ô chữ theo từng chủ đề và nội dung kiến thức mỗi bài học.
 * Cách tổ chức:
- Giáo viên có thể lựa chọn nhiều hình thức thi đoán ô chữ như chia lớp thành các đội chơi hoặc cho học sinh chơi cá nhân.
- Giáo viên gọi học sinh lựa chọn ô chữ bất kì.
- Người chơi nghe câu hỏi của mình và suy nghĩ trả lời.
- Sau khi người chơi trả lời được thì ô chữ đó sẽ xuât hiện và cứ lần lượt như vậy giải đúng được tất cả các ô chữ thì ô chữ từ khóa sẽ xuất hiện.
- Giáo viên tuyên dương cho người chơi sau mỗi lần giải đúng ô chữ.
Trò chơi này tôi thường sử dụng để tạo hứng thú khi dạy bài đầu tiên của chủ điểm mới, từ khóa của trò chơi này sẽ chứa từ có trong tên chủ điểm, qua trò chơi giáo viên sẽ dẫn dắt giới thiệu chủ điểm và nội dung bài học.
Trò chơi giải ô chữ còn được sử dụng khi dạy bài 10B: Ôn tập 2, nhiệm vụ 1 của hoạt động thực hành, bài 28B: Ôn tập 2, nhiệm vụ 1 của hoạt động thực hành. Ở hai nhiệm vụ này, trò chơi có sự khác biệt đôi chút:
- Giáo viên chuẩn bị sẵn các tờ giấy khổ to hoặc bảng nhóm (số lượng tương ứng với số nhóm của lớp) có kẻ sẵn ô chữ như trong tài liệu hướng dẫn học và phát cho các nhóm.
- Từng nhóm thảo luận để giải ô chữ trên bảng nhóm hoặc tờ giấy khổ to và ghi lại từ hàng dọc tức là từ khóa.
- Các nhóm trình bày kết quả trước lớp. Nhóm nào giải đúng và xong trước thì thắng cuộc.
3.8.5. Trò chơi: Trắc nghiệm
* Mục đích:
- Ôn tập lại kiến thức đã học; luyện phản ứng nhanh, khả năng quan sát, nhận xét, đánh giá chính xác, tiết kiệm thời gian.
- Rèn tính tự giác, nêu cao tinh thần đồng đội.
 * Chuẩn bị: 
- Giáo viên: chuẩn bị hệ thống câu hỏi và đáp án.
- Học sinh: thẻ đúng, sai.
* Cách tổ chư

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_to_chuc_tro_choi_nham_gay_hung_thu_cho_hoc_sinh_hoc_mon.doc